-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Năm
-
Lịch Sử Truyền
Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh
- --- o0o ---
- Bài Thứ 9
- Mười Tông
Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa
- (tiếp theo)
- 7.- Hoa
Nghiêm Tông hay là Hiền Thủ Tông
- I. Duyên Khởi
Lập Tông
- Tôn này thuộc
về Ðại-thừa, căn cứ theo giáo-nghĩa trong kimh Hoa-nghiêm là một
bộ kinh cao nhất mà Ðức-Phật đã nói ra, nên gọi là Hoa-nghiêm
tôn.
- Người sáng
lập ra tôn này là Ngài Ðỗ-thuận một vị Hòa-thượng đời Ðường.
Ngài đã thâu góp ý-nghĩa mầu-nhiệm của kinh Hoa-nghiêm, làm ra
ba bộ "Pháp-giới quán".
- Người kế vị
Ngài Ðỗ-thuận là Ngài Trí-nghiễm, ở chùa Trí-tướng. Ngài
Trí-nghiễm đã làm ra nhiều bộ luận có giá trị để giải bày nghĩa
lý của tôn này như các bộ: ''Sưu huyền ký'', ''thập huyền môn'',
''Ngũ thập yếu vấn đáp''.
- Vị thừa kế
Ngài Trí- nghiễm và đã có nhiều công nghiệp lớn đối với Tôn này
là Ngài Pháp tạng, cũng gọi là Hiền-Thủ quốc sư. Ngài đã làm ra
bộ ''Thám huyền ký'' và nhiều chương số khác, khiến cho Hoa
nghiêm tôn rất được thạnh-hành và phát triển trong đời Ngài. Do
đó, Tôn này cũng thường gọi là Hiền thủ tôn. Sau khi Ngài Hiền
thủ qua đời được ít lâu, kinh Hoa nghiêm được dịch lại bằng
tiếng Hán văn bộ mới, Ngài Trừng quán, tức là Thanh lương quốc
sư, dựa theo ý nghĩa bộ Hoa nghiêm mới dịch này mà làm ra bộ
''Hoa nghiêm số sao'', bày giải nghĩa lý rộng rãi, sâu xa mầu
nhiệm của kinh Hoa nghiêm. Vì thế, Hoa nghiêm tôn lại càng được
người đời sùng mộ, nhất là trong giới thượng lưu trí thức nước
Tàu.
- II.-Tôn Chỉ
Và Giáo Lý Căn Bản
- Trong các bộ
kinh của Ðức Phật, kinh Hoa-Nghiêm là bộ kinh có ý nghĩa cao
siêu, mầu nhiệm nhất. Chỉ những vị đại đệ tử, căn cơ minh mẫn,
lanh lẹ mới có thể hiểu thấu được. Do đó, Hoa-Nghiêm tôn chỉ
thích hợp với những ai đã có một căn bản Phật pháp vững chắc và
đã quen với lối suy luận trừu tượng của giáo lý nhà Phật. Ðem
một giáo lý uyên thâm của Phật pháp ra trình bày trong một tập
sách phổ thông như thế này, thật khó mà nói cho rõ ràng, đầy đủ
nghĩa lý của Hoa-Nghiêm tôn. Tuy thế, để có một bộ sách gồm đầy
đủ mười tôn phái của Phật giáo Trung Hoa, và để quý độc giả có
đủ tài liệu để so sánh sự sai khác của mỗi tôn, chúng tôi không
thể không nói đến Hoa-Nghiêm tôn trong khi điểm qua tôn chỉ và
giáo lý căn bản của mười tôn. Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một
cách giản dị, gọn gàng về giáo lý đặc sắc của tôn này, và cũng
mong mõi quý độc giả theo dõi một cách chăm chú sự trình bày
này, ngõ hầu vấn đề được sáng tỏ.
- Tôn này được gọi là ''Viên
giáo'', nghĩa là giáo lý Viên dung hoàn toàn đầy đủ.
- Tôn của chủ
trương ''pháp giới duyên khởi'' , nghĩa là vũ trụ vạn hữu trùng
trùng do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nói một cách khác, mọi sự
vật trong vũ trụ bao la, là một vật nhỏ như hạt bụi, cho đến một
vật lớn như trăng sao, đều nương vào nhau, làm nhân làm quả, lớp
lớp không cùng tột, dung thông nhau, ảnh hưởng lẫn nhau mà có.
Mỗi pháp, trong vũ trụ không thể tồn tại riêng rẽ, biệt lập mà
tự có được. Cái này có là nhờ cái kia, cái kia có là nhờ cái
này. Cái này và cái kia tương quan, tương duyên, lớp lớp không
cùng tột, cho nên gọi là ''vô tận duyên khởi'' hay ''trùng trùng
duyên khởi''.
- Vì là trùng
trùng duyên nhau, nên một là hết thảy, hết thảy là một, mọi sự
vật trong vũ trụ đều dung thông nhau. Và do đó, trong kinh
Hoa-Nghiêm đã nêu lên pháp môn ''sự sự vô ngại pháp giới''.
- Ðể hiểu rõ
nghĩa lý của pháp môn này, chúng tạnh hãy đi theo pháp quy nạp
gồm có 4 giai đoạn sau đây, cũng gọi là 4 pháp giới:
- 1.- Sự pháp
giới: Sự là nói về các hình tướng sai biệt các pháp trong vũ
trụ, trong vũ trụ, các pháp đều có giới hạn rõ ràng như nước
lạnh, nước đá, nước sôi, hới nước, đều có tướng trạng khác nhau.
Ðó là đứng về sự mà quan sát vũ trụ vạn hữu hay nói theo danh từ
đạo Phật là "Sự pháp-giới ".
- 2.- Lý
pháp-giới: Lý là nói về các phần bên trong, vô hình của sự vật.
Ðây tức là lý tánh bìmh đẳng, chổ nương tựa cho tất cả sự tướng;
lý dung thông cho khắp tất cả, nước lạnh, nước đá, hới nước, tuy
tướng trạng khác nhau, nhưng thể tánh vẩn là một (nghĩa là gồm
H2+O). vũ trụ vạn hữu không chỉ có phần sự tương mà còn phần lý
tánh nữa. Ðó tức là "Lý pháp-giới".
- 3.- Lý sự vô
ngại pháp-giới: Như trên chúng tạnh đã thấy, mỗi pháp đều có Sự
và Lý do nơi Sự mà rõ, sự nương vào Lý mà thành. Lý và Sự dung
thông, như nước tức là sóng, sóng tức là nước. Lý, Sự trong
pháp-giới cũng dung thông, vô ngại. Ðó là lý nghĩa của "Lý, Sự
vô ngại pháp-giới ".
- 4.- Sự vô
ngại pháp-giới: Trong pháp-giới, có hằng hà sang sôsự vật, hình
tướng tuy khác nhau, giới hạn tuy bất đồng nhưng lý tánh dung
thông bình đẳng, không có phân chia ngăn cách. Nhờ lý, mà sự sự
được dung thông vô ngại. Như các vật dụng bằng điện, nào quạt
điện, đèn điện, máy lạnh, ủi điện, lò xo .v.v...tuy mỗi vật đều
có hình dáng, công dụng sai, nhưng đều thông nhau qua luồng điện
chi phối lảnh nhau, ảnh hưởng qua lại. Một thí dụ khác: nhiều hồ
chứa nước, hình dáng, rộng hẹp khác nhau, nhưng ăn thông với
nhau bằng những ống nước, do đó sự đày vơi, nhớp sạch của một hồ
này đều liên quan mật thiết đến tất cả các hồ khác.
- Trên đây là
những thí dụ vô cùng thô hiển, cốt để gợi lên một ý niệm về "Sự
sự vô ngại Pháp-giới " thôi, chứ không đúng hẳn. Trong hai thí
dụ trên, chúng ta thấy những vật dụng điện khí hay những hồ nước
để hình cung cho Sự Sự trong pháp giới; và lấy những luồng điện
hay luồng nước để hình dung cho Lý của pháp-giới; thí dụ như
thế, người tạnh sẽ tưởng rằng Sự và Lý là hai loại khác nhau, có
thể phân tách ra được. Nhưng thật ra Lý và Sự không thể phân
tách ra được: trong Sự có Lý, trong Lý có Sự. Sự ,Lý chẳng qua
là hai phương diên của một vấn đề vô cùng tế nhị, mà lý trí của
chúng ta đã phân tách ra để tạm nghiên cứu đó thôi.
- Ðể tóm tắt ý
nghĩa của 4 pháp-giới này, chúng tôi xin nói một cách giản dị
như sau:
- Pháp-giới gồm
có triệu sự vật khác nhau, như A, B, C ...(Sự pháp-giới ).
- Trong mỗi sự
vật đều có lý tánh bình đẳng, mà chúng tôi hình dung là L (lý
pháp-giới).
- Lý tánh bình
đẳng ấy dung thông với tất cả mọi sự vật, như A=L; B=L; C =L.
(Lý, Sự vô ngại pháp-giới).
- Nhờ lý tánh
dung thông với mọi sự vật, mà mọi sự vật trong vũ trụ trở thành
dung thông nhau, vô ngại đối với nhau, như A =C ...(Sự sự vô
ngại pháp-giới).
- Sáu Tướng Và
10 Lý Huyền diệu Của các Pháp
- Trong
pháp-giới, sở dỉ Sự sự được vô ngại, dung thông là đều do các
pháp có đủ ''sáu tướng'' và "mười lý huyền diệu" sau đây:
- Sáu Tướng Viên Dung
- Dựa theo bộ
kinh Hoa-Nghiêm, Ngài Bồ Tát Thế Thân đã làm ra bộ "Thập địa
luận" để giải thích nghĩa lý của sáu tướng (Lục tướng). Sáu
tướng này được gọi là Viên-dung, vì nó có những đức tính viên
mản, dung-thông vô-ngại. Sáu tướng của sự vật trong vũ trụ ấy
là:
- 1.- Tổng
tướng: tổng tướng là cái tướng bao trùm tất cả, tổng cộng tất cả
các tướng sai biệt. Như khi tạnh nói đến cái nhà, là gồm tất cả
cột-kèo, tường mái, đá, gạch ...vậy cái nhà tức là tổng tướng.
- 2.- Biệt
tướng: biệt tướng là nói các tướng riêng biệt; nhiều biệt tướng
cộng lại thành tổng tướng. Như các biệt tướng trong cái nhà là:
cột, kèo, mái, tường, gạch ...Ðã có Tổng tức là phải có Biệt;
nếu không có biệt thì cũng không thể lấy cái gì mà gọi là tổng.
- 3.- Ðồng
tướng: Ðồng tướng là cái tướng chung cùng, dung hòa với nhau,
không ngăn ngại nhau, không trái chống nhau. Như kèo, cột,
tường, mái, tuy khác nhau, nhưng không ngăn ngại nhau mà vẩn
đồng hướng chung về một cái nhà.
- 4.- Dị-tướng:
Dị-tướng là các tướng riêng biệt, cái này, cái kia, hình tướng
không giống nhau, mặc dù vẫn cùng nhau dung hòa để gánh vác một
nhiệm vụ chung; như cột, kèo, tường , mái trong một cái nhà,
không cái nào giống cái nào, dị tướng không phải là biệt tướng,
cũng như đồng tướng không phải là tổng tướng.
- Như một trăm
đồng bạc là tổng tướng. Tổng tướng này là tổng cộng của các tờ
bạc: một tờ 50 đồng, hai tờ 20 đồng, một tờ 10 đồng
(50+40+10=100). Những tờ giấy bạc 50, 20,10 là biệt tướng. Những
tờ giáy bạc này to, nhỏ, hình ảnh, màu sắc khác nhau, là dị
tướng. Mặc dù hình tướng khác nhau, nhưng cũng là những tờ bạc
cả, tánh chất "bạc" là đồng tướng.
- 5.- Thành
tướng: Thành-tướng là tướng thành tựu. Sự chung cùng đễ thành ra
một cái gì, đó là thành-tướng. Như cái nhà là sự thành tựu của
các cái cột, kèo, tường, mái ...vậy cái nhà, đứng về phương diện
công dụng đễ ở, là thành tướng của các cột, kèo, tường,
mái...nếu lấy thí dụ 100 đồng, thì số tiền này là thành tướng
của những tờ 50 đồng, 20 đồng và 10 đồng. Nhờ sự kết họp của
những số tiền này mà có được số bạc 100 đễ mau được một vật gì
đó, như thế là thành tướng.
- 6.- Hoại
tướng: Hoại tướng là cái tướng độc lập của các pháp. Như cột,
kèo, tường, mái trong khi hợp tác với nhau, đễ thành cái nhà,
thì vẫn giữ cái địa vị riêng của nó là cột, kèo, tường, mái chứ
không phải vì thành cái nhà mà chúng nó không con là cột, kèo,
tường, mái nữa. Cũng như trong khi hợp thành số bạc 100 đồng,
các tờ giấy bạc 50, 20, 10 đồng vẫn là những tờ giấy bạc 50, 20,
10 đồng vẫw giữ cái giá trị riêng của mổi thứ.
- Sáu tướng này
phân ra làm ba đối, gọi là "Tam đối lục tướng ".
- -Tổng, Biệt
cùng đối nhau thuộc về Thể.
- - Ðồng, Dị
cùng đối nhau thuộc về Tướng.
- - Thành, Hoại
cùng đối nhau thuộc về Dụng.
- Nếu chúng
tạnh lấy con sư tử bằng vàng làm ví dụ thì toàn thể thanh hình
của nó là tổng tướng; mỗi bộ phận riêng lẽ như tai, mắt, mũi
lưỡi là biệt tướng; chất vàng của nó là đồng tướng; mỗi bộ phận
có hình dáng riêng khác là dị tướng; mỗi bộ phận cộng tác hòa
hiệp với nhau để hìmh thành một con sư tử là Thành tướng; nhưng
mỗi bộ phận đều có phạm vi riêng biệt, tự lập của nó là Hoại
Tướng.
- Khi chúng
tạnh nói đến Tổng, Ðồng, Thành là nói về phương diện toàn thể,
Viên-dung bình đẳng của bản thể vũ trụ; khi chúng ta nói đến
Biệt, Dị, Hoại là nói về phương diện hiện tượng giới, trong ấy
mỗi mỗi sự vật đều phơi bày riêng rẽ lẽ khác nhau. Theo trong
kinh Hoa-Nghiêm thì Tổng, Ðồng, Thành, Tướng thuộc về môn viên
dung; còn Biệt, Dị, Hoại, Tướng thuộc về môn hàng bố (nghĩa là
hiễn lộ, phơi bày la liệt). Một bên là bình đẳng, một bên là sai
biệt. Nhưng bình đẳng và sai biệt là tướngtưc, tương nhập, viên
dung không. Tương tức nghĩa là cái này tức cái kia, như nước tức
là sóng; tương nhập nghĩa là ăn nhập với nhau, dung thông nhau,
như mặt gương này và mặt gương kia phản chiêùu vào nhua không
cùng mà không cản trở gì nhau. Vì tương ức, tương nhập, nên lìa
tổng tướng thời không biệt tướng, lìa đồng tướng thì không dị
tướng, lìa thành tướng thì không hoại tướng. Tóm lại, viên dung
không lìa hàng bố, hàng bố không lìa viên dung, viên dung tức
hàng bố hàng bố tức là viên dung. Hết tháy các pháp đều đủ 6
tướng ấy, không một pháp nào là không viên dung tự tại, tức,
nhập không ngại. Vì thế cho nên gọi là 6 tướng viên dung. Ðấy là
ý-nghĩa huyền diệu cúa Hoa-Nghiêm nhất thừa viên giáo.
- Mười Lý Huyền
Diệu Của các Pháp Hay Mười Huyền Môn
- Ngoài sáu
tướng nói trên, các pháp còn có mười lý huyền diệu, hay mười đức
tính huyền diệu, mà bộ kinh Hoa-Nghiêm sớ sao và bộ Tham Huyền
Ký của Ngài Hiền Thủ có giải thích như sau:
- 1.- Môn ''
đồng thời đầy đủ các pháp tương ứng'' (đồng thời cụ túc tương
ương)
- nghĩa là trong mỗi một pháp nào
đồng thời cũng có đủ, hàm chứa tất cả các pháp khác trong vũ
trụ. Như một giọt nước có đủ khí vị của muôn ngàn,sông, biển.
- 2.- Môn ''
rộng và hẹp tụ tại không ngại '' (quảng hiệp tự tại vô ngại):
Nghĩa là một vật gọi là lớn, chưa hẳn là lớn, vật gọi là nhỏ
chưa hẳn là nhỏ. Nhờ cái lý dung thông, một vật nhỏ như đầu mải
lông, có thể chứa được thái hư mà còn rộng một vật như thái hư ,
có thể nằm gọn trong đầu mải lông, mà không chật. Ðây muốn nói
rằng, trong pháp giới, sự sự đã vô ngại, dung thông, thì quan
niệm về sự rộng hẹp, lớn nhỏ đều là những danh từ suông, không
có biên giới nhất định giữa một vật này với một vật khác: Một
vật nhỏ như vi trần có liên quan đến vũ trụ; một vật lớn như vũ
trụ có liên quan đến một vi thành. Cho nên kinh Hoa-Nghiêm có
chép: ''trong một mảy trần, hết thảy cỏi nước rộng rải an
tụ''.để giải thích ý nghĩa này, kinh thường dạy: "Sự Lyw mà được
dung thông, tự tại không ngăn ngại".
- 3.- Môn "một
và nhiều dung nhau không đồng" (nhất, đa tương dung bất đồng):
Nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau,
mà vẫn không phá hoại cái tướng riêng biệt (an lập) của mỗi vật.
Như muôn ngàn ngọn đèn thắp sáng trong một gian nhà, ngọn này
ngọn kia lẫn hiệp với nhau, nhưng ngọn nào vẫn có ánh sáng riêng
của nó
- 4.- Môn "các
pháp tương tức tụ tại" (chư pháp tương tức tự tại): Nghĩa là các
pháp cùng dung, cùng tức, không ngăn ngại nhau. Như một pháp khi
bỏ mình đồng với các pháp khác, thì toàn thể đều nơi pháp kia;
nếu một pháp nhiếp thâu các pháp đồng về mình, thì hết thảy các
pháp kia lại vè một nơi pháp thâu nhiếp ấy. Cũng ví như chất
vàng với sắc vàng, hai pháp ấy không rời nhau.
- 5.- Môn "ẩn
mật tỏ rõ đều thành" (bí mật ẩn hiện câu thành): Nghĩa là một
pháp có nhiều phương diện, khi phương diện này hiển thì phương
diện kia ẩn; khi phương diện kia ẩn , thì phương diện này hiển;
trong ẩn có hiển; hiển ẩn đắp đổi nhau mà thành tựu. Sự ẩn hiển
cũng không nhất định cái nào sau cái nào trước, cũng không ngăn
ngại, chống đối nhau. Như một pho tượng bằng vàng, khi chú ý đến
vàng thì không thấy cái đẹp của pho tượng, khi chú ý đến pho
tượng thì không thấy vàng. Tóm lại, khi cái đẹp hiển thì vàng
ẩn, khi vàng hiển thì cái đẹp ẩn.
- 6.- Môn "vi
tế dung nhau, an lập" (vi tế tương dung an lập): Vi tế nghĩa là
nhỏ nhiệm mà rõ ràng. Môỵ vật nhỏ nhiệm này mà bao trùm một vật
nhỏ nhiệm khác, mà không cản trở nhau, không phá hoại cá tướng
của nhau. Như một hạt nước bao gồm nhiều hạt nước, mỗi hạt nước
gồn nhiều hóa chất, mỗi hóa chất gồm nhiều nguyên tử, mỗi nguyên
tử gồm nhiều điện tử, giữa những điện tư có cái nhân: Mỗi thứ
đều dung nhau và an lập trong nhau.
- 7.- Môn "cảnh
giới tướng võng nhơn-đà-la" (Nhơn đà la võng cãnh giới): Nhơn đà
la tức là phiên âm chử Indra là cỏi trời Ðế Thích. Theo Bà la
môn , thì trên cỏi trời Nhơn đà la , có cái man lưới bằng bửu
châu chói hiện đến muôn trượng, hạt này hạy khác phản chiếu
nhau, chói sáng nhau, lớp lớp không cùng tận. Môn này cũng như
vậy: trong mỗi pháp có nhiều pháp khác, trong nhiều pháp khác
lại có nhiều pháp nữa. Cứ thế nhân mãi lên cho đến vô cùng tận.
Kinh Hoa-Nghiêm có chép; "Hết thảy thếgiới đều như màn lưới Nhơn
đà la".
- 8.- Môn
""nhơn sự rõ pháp, sanh trí hiểu biết" ( pháp sự hiểu pháp sanh
giải): Nghĩa là nhờ sự mà hiểu được lý; nhưng khi lý đã rõ, thì
lý lại lan rộng làm cho chụng ta hiểu rộng sâu xa qua nhiều sự
khác. Ðây muốn nói trí hiểu biết lan rộng dung thông qua sự vật,
như vết dầu lan trên mặt nước, chỉ một tia lửa bừng cháy rất xa.
- 9.- Môn "mười
đời cách pháp dị thành" (thập thế cách pháp dị thành): Ðây muốn
nói thời gian mặc dù cách biệt nhau từ quá khứ đến hiện tại qua
tương lai, nhưng chính nhờ thế mà các pháp được thành tựu một
cách dễ dàng. Tại sao chia thời gian thành mười đời mà không
chia làm ba đời? Ðánh lẽ chỉ nói quá khứ, hiện tại và tướng lai
là đủ. Nhưng muốn chia một cách rốt ráo, tinh vi, trong kinh
chia mười đời như sau; trong quá khứ cũng gồm có quá khứ, hiện
tại và tướng lai; trong hiện tại cũng gồm như thế và trong tướng
lai cũng vậy: ba đời mỗi đời chia nhỏ thành chín. Nhưng nếu chia
nhỏ như thế mà không có ý niệm tổng quát so sánh liên hệ với
nhau thì cũng không có được ý niệm về thời gian. Vì thế cho nên
về chín niệm ấy, còn cộng thêm một niệm tổng (tổng quát) nữa,
thành ra mười.
- 10.- Môn "chủ
và ạn nương nhau làm đầy đủ công đức sáng suốt hoàn toàn" (chủ,
bạn, viên minh cụ đức): Như chúng ta đã thấy ở các phần trên:
các pháp nương nhau mà thành. Nếu ta lấy một pháp làm chủ, thì
các pháp khác là bạn. Chủ và bạn nương nhau làm đầy đủ công đức,
lớp lớp không cùng tận, như mặt trăng sáng trên không, chung
quanh đoanh vây những vì sao nhấp nháy, rồi trên mặt đất bao
nhiêu sông ngòi, ao hồ lại phản chiếu ánh sáng trăng sao ở trên
không, làm cho cảnh vật ở khắp nơi rạng rỡ.
- Tóm lại, mười
lý huyền diệu này cộng với sáu tướng nói trên của các pháp là
nguyên nhân giải thích vì sao "sự sự được vô ngại" trong pháp
giới, và cách nghĩa một cach đầy đủ giáo lý "trùng trùng duyên
khởi" mà Hoa-Nghiêm tôn chủ trương.
- III.- PHƯƠNG
PHÁP TU HÀNH
- Giáo lý căn
bản của Hoa-Nghiêm tôn đã sâu xa mầu nhiệm, thì phương pháp tu
hành tất nhiên củng phải cao siêu, mầu nhiệm mới đưa hành-giả
đến chổ cứu cánh tu hành. Tựu trung, trong các phương pháp tu
hành ấy, ba pháp quán về pháp giớ sau đâyđược xem là các pháp
môn trọng yếu và có hiệu quả rốt ráo nhất:
- 1.-Chơn không
quán:"Chơn" có nghĩa là chơn thật, không hư vọng; "không "
- nghĩa là không bị sắc tướng chi
phối, ngăn ngại.
- Pháp quá này
dựa trên"lý pháp giới" mà lập ra. Mục đích của pháp quán này là
dứt vọng tình, rõ chơn tánh , khiến cho hành-giả thấy sắc mà
không bị sắc ngăn ngại và nhận được rằng toàn thể là chơn không;
thấy không , mà nhận được rằng đó không pphải là không hẳn (
đoạn không ) mà toàn là chơn tánh. Tóm lại, pháp quán này nhìn
thấuqua được sự đói đãigiã dối của cái không và cái có, để nhận
rõ được cái "lý của vũ trụ (lý pháp giới) là chơn không " (đã
giãi ở trên)
- 2.-Lý sự vô
ngại quán: Pháp quán này y theo " lý sự vô ngại pháp giới" mà
lập ra." Lý" là thể tánh thanh tịnh sáng suốt; " Sự" là hình
tướng phận hạn của các pháp. Lý, Sự vô ngại, như trong phần giáo
lý căn bản đã có nói ở trước, nghĩa là Lý và Sự không phải hai
loại chống nhau, ngăn cách nhau, mà trái lại, dung thông nhau.
Lý, Sự thấu suốt, viên dung không ngại nên gọi là " Lý, Sự vô
ngại quán".
- Theo pháp
quán này, hành giả quan sát cái sắc tướng của một mảy trần mà
khám phá ra được cái lý của vũ trụ. Tức là qua cái tướng hư giả
của sự vật mà thấy được cái tánh sáng suốt của nhứt chơn.
- 3. Châu biến
hàm dung quán: Pháp quán này dựa trên cái lý " Sự sự vô ngại
pháp giới" mà lập ra. " Châu biến" mà lan ra, biến hóa cùng khắp
tất cả; " Hàm dung" là bao gồm, thâu nhiếp hết, dung thông tất
cả. " Châu biến hàm dung quán" là pháp quán nhằm mục đích nhận
chân được rằng: cái pháp một và nhiều không ngại nhau, lớn và
nhỏ trùng nhau, dung nhiếp lẫn nhau, lớp lớp không cùng tột, ẩn
hiện tự tại, đồng thời tương tức tương nhập, thâu nhiếp, dung
thông nhau cho đến vô cùng vô tận, trùm chứa cả vũ trụ bao la.
- Theo pháp
quán này, hành giả quan sát cái Lý nơi một Sự, rồi do một Sự ấy
mà mỗi mỗi Sự khác cũng đều thấy rõ. Hành giả lại quán mọi Sự
tức nơi Lý, rồi theo Lý ấy mà mỗi mỗi Sự đều dung thông.
- IV. QUẢ VỊ TU
CHỨNG
- Theo Hoa
Nghiêm tôn, giải-thoát vẫn không phá hoại thế-gian tướng; nói
một cách khác, không phải phủ nhận tế gian tướng mà có thể tìm
thấy giải thoát ở một nơi nào khác. Ngay trong thế gian này, nếu
hành giả phân biệt được chân vọng, khử trừ điên đảo, khiến cho
tâm thanh tịnh để cùng thật tại nhất trí: Ðó là giải thoát.
- Quan niệm về
giải thoát của Hoa-Nghiêm tôn này không khác với Thiên Thai tôn,
nghĩa là đều chủ trương một cách lạc quan rằng chúng sanh và
Phật không sai cách: không nhận chân được lý trùng trùng duyên
khởi, sự sự vô ngại pháp giới, là chúng sanh; giác ngộ được chân
lý trên là Phật.
- V.- Kết Luận
- Hoa-Nghiêm
tôn vì y theo bộ kinh cao nhất của Phật mà thành lập, nên được
liệt vào hạng viên giáo, nghĩa là giáo lý hoàn toàn viên mãn. Và
cũng vì là viên giáo cho nên phải cần một căn trí thông lợi mới
tu theo được.
- Vậy hành giả,
trước khi muốn lựa con đường này để tiến bước cần phải cân nhắc
cho kỹ lưỡng, nhất là cần phải tìm nghiên cứu thêm cho thấu đáo.
Nếu thấy nó khó hiểu quá cao đối với căn cơ của mình, thì tốt
hơn, nên tìm một con đường khác, bởi vì con đường nào, cuối cùng
cũng đưa đến giải thoát cả.
- Nhưng nếu quý
vị nào nhận thấy căn cơ của mình có thể theo kịp giáo lý huyền
diệu của tôn này,thì đó cũng là một diễm phúc lớn. Trí tuệ quý
vị sẽ nếm được hương vị thanh cao nhất của đạo nhiệm mầu, và sự
tu hành của quý vị cũng mau đến đích, vì quý vị đã trèo theo con
đường thẳng đứng để lên đỉnh núi "giải thoát". Bao giờ con đường
thẳng đứng cũng khó trèo, nhưng mau đến đích hơn những con đường
vòng quanh cọ. Trong vấn đề tu hành cũng vậy.
- 8.- Tam Luận
Tông hay là Tánh Không Tông
- I.- Duyên
Khởi Lập Tông
- Tôn này căn
cứ vào ba bộ luận sau đây mà thành lập, nên gọi là Tâm Luận tôn.
- 1.- Bộ Trung
luận, gồm có bốn quyển, do Ngài Bồ tát Long Thọ làm ra, mục đích
chính phá chấp của Tiểu Thừa và kèm một phần phụ đã phá sai lầm
của ngoại đạo.
- 2.- Bộ Bách
luận, gồm có hai quyển do Ngài Bồ tát Ðề Bà làm ra, mục đích
chính là phá chấp của ngoại đạo và kèm một phần phụ phá chấp của
Tiểu Thừa.
- 3.- Bộ Thập
Nhị Môn luận, gồm có một quyển, cũng do ngài Long Thọ làm ra,
mục đích phá cả Tiểu Thừa và ngoại đạo.
- Tóm lại, ba
bộ luận trên đây, đều phá sự thiên chấp sai lầm của Tiểu Thừa và
ngoại đạo và mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ nghĩa lý sâu xa,
mầu nhiệm của Ðại Thừa.
- Tôn này được
thạnh hành ở Trung Hoa trong đời Dao Tần do công đức hoằng dương
của ngài Cưu Ma La Thập, và trong đời Ðường do công đức của ngài
Ðại sư Gia Tường.
- II.- Tôn Chỉ
Và Giáo Lý căn bản
- Như chúng ta
đã thấy trong nội dung của ba Bộ luận căn bản nói trên, chủ
trương của tôn này là phá các điệu tà chấp, nêu bày chánh lý.
- Theo Tam luận
tôn, là chấp có bốn loại:
- 1. Tà chấp
của ngoại đạo: ngoại đạo tức là những học phái hay tôn giáo khác
với Ðạo Phật. Ngoại đạo vị không thấu rõ lý ngã không và pháp
không, nên theo chấp chặt tà kiến, như tà nhơn, tà quả, không
nhơn mà có quả, có nhơn mà không quả...những cái chấp nầy cần
phải đả phá.
- 2. Chấp trước
của Tiểu Thừa Tỳ đàm tôn: Tiểu Thừa Tỳ đàm tôn tức là Câu xá
tôn. Tôn này chủ trương lý ngã không, pháp hữu, nghĩa là cho
rằng cái ngã nơi thân người là không có, nhưng các pháp là có.
Quan niệm sai lầm về pháp hữu ấy cần phải phá trừ.
- 3. Chấp trước
của Thành thật tôn: Tôn này, tuy chủ trương ngả pháp đều không,
nhưng lại chấp cái "không" ấy là thật "có" ( thật có một cái
không), chứ không biết rằng cái "không " ấy cũng không hoàn toàn
là không, cho nên cần phải phá trừ.
- 4. Chấp trước
của người tu về Ðài thừa: Người tu về Ðại Thừa không còn những
chấp trước mê lầm về ngã, pháp của ngoại đạo và Tiểu Thừa,đã
đoạn trừ những thành kiến chấp có, chấp không, chấp đoạn, chấp
thường, nhưng còn có một số người ôm chặt cái sở đắc của mìmh,
nghe nói "có" thì sa vào có, nghe nói "không " thì trệ vào
không, nghe nói "trung đạo" thì chấp trước về trung đạo. Cho nên
cần phải phá trừ những chấp trước ấy.
- Có người hỏi:
Tam luận tôn chủ trương phá tà như trên, có thể gọi là đầy đủ
lắm, nhưng còn phần hiển chánh thì như thế nào?
- - Xin thưa:
Phá hết tà, tức là hiển chánh. Phá cũng tức là lập. Trừ mê tức
là ngộ. Như vậy tà chấp đã bị phá, thời chánh lý tự bày, ngoài
sự phá tà, không có chánh lý nào riêng nữa.
- Trong bộ "tam
luận huyền nghĩa" có nói: Sự phá tà hiển chánh phân làm bốn
loại:
- 1. Phá mà
không thâu, nghĩa là trước một đối thủ nói không hợp đạo, thì
chỉ phá mà không thâu.
- 2. Thâu mà
không phá, nghĩa là đối với người chủ trương hợp với chân lý thì
chỉ cần thâu mà không phá.
- 3. Cũng phá
mà cũng thâu, nghĩa là đối vơi người học đạo mà còn đầy lòng mê
chấp, thì phải phá trừ chỗ mê chấp và thâu lại giáo nghĩa mà họ
đã hiểu lầm.
- 4. Không thâu
mà cũng không phá, đây là trường hợp khi đã tiêu trừ ba loại nói
trên, quy về một chơn thật tướng: đến đây thì đã xa lìa nói phô,
bặt dứt niệm lự, không thể nói rằng phá, không thể nói rằng
thâu.
- Chủ trương
phá phá tà hiển chánh trên này có thể cô đọng trong bốn chử sau
đây:"Trung đạo bát bất".
- Trung đạo tức
là đao lý viên dung cũng gọi là đệ nhứt nghĩa đế, nghĩa là cái
chơn lý cùng tột, không gì hơn.
- Bát bất tức
là tám cái "Bất" ( chẳng phải):
- Bất sanh, bất
diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất xuất.
Hiểu rõ tám cái "Bất" ấy, tức là nhận chân được nghĩa lý cảu
Trung đạo. Chúng ta hãy nghe bài kệ sau đây trong "Trung đạo"
thì rõ:
- Bất sinh,
diêĩc bất diệt
- Bất thường,
diệc bất đoạn
- Bất nhất,
diệc bất dị
- Bất lai, diệc
bất xuất
- Năng thuyết
thị nhân duyên
- Thiện diệt
chư hý luận
- Ngã khể thủ
lễ Phật
- Chư thuyết
trung đêĩ nhất
- Giảng rộng
đoạn văn trên này, ông Phan Văn Hùm, trong quyển Phật Giáo triết
học đã viết như sau:
- "Nhất thiết
vạn hửu trong hiện giới đều sinh diệt vô thường". Sinh diệt vô
thường như thế, nguyên là vì không có tự tánh, mà bởi nhân duyên
mê vọng nên sinh ra giả hữu.
- Thế tục vì
vọng kiến, nên chấp lấy cái giả hữu đó. Chân trí thời phủ định
giả hữu mà nhận thấy là không ...siêu việt được tất cả hữu và vô
là cái quan niệm tuyệt đối ấy, phải biết rằng chư pháp đều do
nhân duyên sinh ra.
- Chư pháp tuy
là hữu nhưng mà là phi thường hữu. Hữu, mà phi thường hữu là giả
hữu. Giả hữu tuy là hữu mà phi hữu. Hữu mà phi hữu, thời cùng
với vô có khác gì? Cho nên chư pháp tuy là vạn hữu, nhưng uyển
nhiên là không .
- Lý thể của
chân như, tuy là không tịch, bất sinh diệt, mà bởi nó sanh ra
chư pháp, cho nên nó là căn của giả hữu. Ðã là căn của gỉa hữu,
thời mặc dù lý thể của chân như là không, thật ra nó là phi
không. Như thế, chân như là không mà không thật là không cho nên
cùng với hữu có khác gì? Vì thế, rôùt lại, chân như tuy là không
tịch, mà nó uyển nhiên là hữu.
- Hữu, không,
hai cái toàn nhiên cùng nhau hỗn hiệp.
- Trung đạo ra
ngoài chổ chấp hữu cùng chấp không.
- III.- Ba Thời
Giáo Lý
- Trong phần
tôn chỉ và giáo lý căn bản nói trên, chúng ta thấy Tam-luận tôn
bác tất cả các tôn phái của Tiểu Thừa và một phần của Ðại -thừa.
Nhưng dù Tiểu Thừa hay Ðại -thừa, cũng là dựa trên Giáo lý của
Ðức Phật cả. Vậy, bác các tôn phái trong các đạo Phật, tức là
gián tiếp, bác giáo lý của Phật chăng?
- Thật ra,
không phải thế. Tất cả lời dạy của Ðức Phật chỉ có một chất
chung là sự giải thoát, như tất cả nước đại dương chỉ có một mùi
vị là mặn. Phật nói ra các pháp môn, đều để đối trị những phiền
nảo của chúng sanh. Người lương y dõi tùy theo chứng bịnh mà cho
thuốc, thuốc không cao cấp, lành bịnh là hay. Cũng thế, căn cơ
chúng sanh không đồng nhau, cho nên pháp môn cũng tùy theo đó mà
có sai biệt.
- Theo Tam-Luận
tôn, thì giáo lý của Ðức Phật chia làm ba thời kỳ:
- -Thời kỳ thứ
nhứt, tại vườn Lộc-Giả vì các bậc căn trí hẹp hòi, Phật nói pháp
Tiểu Thừa, tâm cảnh đều có. Trong thời kỳ này vì cần phải phá
cái chấp về tự tách, thần ngã của ngộ đạo, nên Phật nói "pháp
duyên sanh", xác định là thật có.
- -Thời kỳ thứ
hai, Phật vị các bậc căn trí bậc trung, nói "pháp tướng Ðại
-thừa", chỉ rõ đạo lý Duy-thức "cảnh không tâm có" (thế giới
hiện tượng không thật có nhưng tâm thức thật có). Cũng trong
thời kỳ này, Phật lần hồi phá trừ chổ chất của Nhị-thừa về lý
duyên sanh thật có, mà nói lý duyên sanh ấy chỉ là giả dối như
tuồng có mà thôi, vì họ sợ về chổ chơn không , nên phải để "giã
hữu" lại đễ dìu dắt họ.
- -Thời kỳ thứ
ba, Phật vị các bậc thượng căn thượng trí nói ra giáo lý "vô
tướng Ðại -thừa ", biện bạch tâm cảnh đều không, một mực bình
đẳng là chơn liểu nghĩa. Ðến thời kỳ này mới thật là chổ rốt ráo
của Ðại -thừa, chủ trương duyên sanh ấy tức là tánh không, một
mực bình đẳng, viên dung cả hai đế (chơn đế, tục đế) không ngại.
- Tóm lại, thời
ký thứ nhất, phá trừ ngoại đạo, chỉ dạy Tiểu-thừa với giáo lý
tâm cảnh đều có. Thời kỳ thứ hai, thông cả Tiểu-thừa và một phần
của Ðại -thừa, (Tam thừa) với giáo lý cảnh không, tâm có. Thời
kỳ thứ ba, chỉ có Nhất thừa, với giáo lý tâm cảnh đều không,
nhưng cái không đây tức là chơn "chơn không, diệu hữu".
- IV.- Phương
Pháp Tu hành
- Chúng ta đã
thấy ở các phần ở trên, chủ trương của Tam-luận tôn là phá tà,
và do chổ phá tà ấy là hiển chánh. Vậy thì phương pháp tu hành
của tôn này là làm sao nhận rõ được những chổ sai làmm chấp
trước của ngoại đạo là các tôn phái khác, tức là chứng ngộ. Muốn
vậy, tức phải thực hành pháp quán "bát bất trung đạo".
- Bát bất tức
là: Bất sinh, bất diệt; Bất đoạn, bất thường; bất nhứt, bất dị;
bất khứ, bất lai. Không ngộ được tám món ấy tức là không rõ chơn
đế và tục đế; mà không rõ được chơn đế và tục đế thì cũng không
thể nào nhận thấy được ý nghĩa của trung đạo.
- Pháp quán này có nhiều giai
đoạn, mỗi giai đoạn quán về một phần của "bát bất "; chẳng hạn
giai đoạn thứ nhứt quán về "bất sinh, bất diệt"; giai đoạn thứ
hai quán về "bất đoạn, bất thường..." .
- Trong mỗi
giai đoạn như thế phải quán năm câu:
- 1.- Câu thứ
nhứt: "thật có sinh, thật có diệt". Aáy là giả thiết thật có
sanh diệt như thế gian thường chấp, để mà bát. Chấp như thế gọi
là đơn tục ( đứng riêng về mặt thế tục), tức nhiên là thiên chấp
(chấp một bên), chưa hiệp với trung đạo.
- 2.- Câu thứ
hai: "không sanh không diệt". Aáy là chấp không sanh không diệt
làm thật, để mà bát. Chấp như thế gọi là đơn chơn, cũng là thiên
chấp, không hiệp với trung đạo.
- 3.- Câu thứ
ba: "giả sanh giả diệt". Aáy là giả lập có sự sanh diệt phát
xuất từ nơi bất sanh bất diệt. Ðây tức là trung đạo về thế tục.
- 4.- Câu thứ
tư: "giả bất sanh giả bất diệt". Nếu sanh diệt đã giả, thời sự
bất sanh bất diệt cũng là giả. Aáy là trung đạo về chơn đế.
- 5.- Câu thứ
năm: "không phải sanh diệt, mà cũng không phải là không sanh
diệt". Ðây là dung hiệp cả tục đế và chơn đế mà tìm ra lý trung
đạo. Thật vậy, thật tướng của pháp giới không sanh diệt , mà
cũng không phải không sanh diệt. Ðến đây là băĩt dứt lời nói
phô, tâm niệm lự, mà chỉ nhờ trực quan mới đạt tới.
- Trong năm câu
này, thì ba câu cuối ( từ câu thứ ba đến câu thứ năm) thường gọi
là tam trung (ba lý trung đạo). Vì thế cho nên trong pháp qúan
này, người ta thường nói: dùng năm câu và ba lý trung đạo để
quan sát.
- Trên đây là
chỉ đưa ra một số thí dụ về một giai đoạn trong pháp "pháp trung
đạo bát bất". Sau khi quán hết giai đoạn thứ nhất "bất sinh, bất
diệt", hành giả tiếp tục giai đoạn thứ hai là "bất đoạn, bất
thường". Và cứ như thế mà quán cho đến hết tám cái "bất".
- Ðây là pháp quán riêng biệt của
tam luận tôn. Ngoài ra trên đường tu hành, hành giả còn tùy theo
căn cơ mà tu các pháp môn khác như Lục độ vạn hạnh.
- V. Quả Vị Tu
Chứng
- Giáo lý đã có
phân chia thành chơn đế và tục đế, thì quả vị tu chứng cũng đứng
về hai phương diện mà xét.
- 1. Chơn đế:
Nếu đứng về phương diện chơn đế mà xét thì không có vấn đề chứng
hay không chứng, thành Phật hay không thành Phật, vì mê ngộ vốn
không, nhiễm tịnh đều bình đẳng, hết thảy chúng sanh xưa nay là
Phật rồi.
- 2. Tục đế:
Nếu đứng về phương diện tục đế, thì căn cơ chúng sanh không
giống nhau, nên sự tu chứng cũng có chậm có mau. Với những căn
cơ rất lanh lợi, thì trong một niệm có thể thành tựu "chánh quán
bát bất", chứng được quả Phật. Trái lại, với những căn cơ chậm
lụt, thì trải qua ba đại kiếp tu hạnh lục độ vạn hạnh, mới được
thành Phật. Nếu tuần tự mà tiến thì phải trải qua 52 quả vị.
Trong các tôn khác quý độc giả cũng thường nghe nói đến 52 quả
vị, nhưng chúng tôi chỉ nêu danh mà không nói rõ nội dung, đến
Tam luận trong này, nên chúng tôi tưởng nên trình bày rõ một lần
về các quả vị ấy, và để sau nầy, khi qua các tôn khác, nếu quý
độc giả có gặp lại 52 quả vị này, cũng sẽ không còn bỡ ngỡ. 52
quả vị ấy là:
- Thập tín
(mười bậc lấy đức tin làm gốc):
- 1. Tín tâm 2.
Tinh tấn tâm
- 3. Niệm tâm
4. Ðịnh tâm
- 5. Huệ tâm 6.
Thí tâm
- 7. Giới tâm
8. Hộ tâm
- 9. Nguyện tâm
10. Hồi hướng tâm
- Thập trụ: Trụ
là an trụ. Các vị Bồ tátkhi mới phát tâm, an trụ nơi mười bực
này mà tu hành, trên cầu chứng được quả Phật, dưới hóa độ chúng
sanh. Thập trụ là:
- 1. Pháp tâm
trụ 2. Trị địa trụ
- 3. Tu hành
trụ 4. Sanh quý trụ
- 5. Phương
tiện trụ 6. Chánh tâm trụ
- 7.- Bất thối
trụ 8. Ðồng chơn trụ
- 9. Pháp vương
tử trụ 10. Quán đảnh trụ
- Thập hạnh:
Mười bực này chú trọng tu hạnhlục độ nhiều hơn các hạnh khác,.
Nên gọi là hạnh. Mười hạnh là:
- 1. Hoan hỷ
hạnh 2. Nhiêu ích hạnh
- 3. Vô nhuế
hạnh 4. Vô tận hạnh
- 5. Ly si loạn
hạnh 6. Thiện hiện hạnh
- 7. Vô trước
hạnh 8. Tôn trọng hạnh
- 9. Thiện pháp
hạnh 10. Chơn thiện hạnh
- Thập hồi
hướng: Hồi nghĩa là xoay về, Hướng tức là xu hướng. Hành giả đem
mười hạnh này mà quy hướng về ba nơi sau đây:
- a/ Xoay sự về
lý, lấy chơn như thật tế mà làm chỗ chứng.
- b/ Xoay nhơn
về quả, lấy đạo vô thượng Bồ đề làm chỗ sở cầu.
- c/ Xoay mình
về nơi người, một lòn bình đẳng, phổ độ chúng sanh.
- Mười hồi
hướng là:
- 1- Cứu độ
chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng; nghĩa là cứu giúp
chúng sanh mà không chấp trước về sự cứu giúp.
- 2- Bất hoại
hồi hướng; nghĩa là không bao giờ thối tâm cứu giúp chúng sanh.
- 3- Dẳng chư
Phật hồi hướng: nghĩa là lòng từ bi cứu giúp chúng sanh cúng
bằng chư Phật.
- 4- Chí nhứt
thế xứ hồi hướng; nghĩa là lòng cứu giúp chúng sanh mỗi việc đều
chu đáo.
- 5- Vô tận
công đức tạng hồi hướng; nghĩa là chất chứa công đức vô tận.
- 6- Tùy thuận
nhứt thiết kiên cố thiện căn hồi hướng; nghĩa là thuận theo hết
thảy căn lành bền chặt.
- 7- Ðẳng tâm
tùy thuận nhứt thế chúng sanh hồi hướng; nghĩa là đem tâm bình
đẳng tùy thuận hết thảy chúng sanh.
- 1. - Như
tướng hồi hướng; nghĩa là các công đức hồi hướng về tự tánh chơn
như.
- 2. - Vô trước
vô phược giải thoát tâm hồi hướng; nghĩa là không chấp trước
không ràng buộc, một lòng giải thoát.
- 3. - Pháp
giới vô lượng hồi hướng; nghĩa là hướng về pháp giới không cùng
tận.
- Bốn mươi quả
vị trên này ( Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng) nói
về thơig gian tu tập tùy thuộc vào Kiếp A-tăng kỳ thứ nhứt.
- Thập địa:
Mười bực này, vì tóm thâu các công đức hữu vi và vô vi, dùng làm
tự tánh, cùng làm chỗ nương dựa chắc chắn hơn cả cho sự tu hạnh,
nên gọi là Ðịa. Mười địa là:
- 1. Hoan hỷ
địa 2. Ly khổ địa
- 3. Pháp quan
địa 4. Diệm huệ địa
- 5. Nan thắng
địa 6. Hiện tiền địa
- 7. Viễn hành
địa 8. Bất động địa
- 9. Thiện huệ
địa 10. Pháp vân địa
- Trong thập
địa, mỗi địa còn có ba tâm: Nhập, Trụ, Xuất. Khi vừa bước vào
một bực nào, gọi là nhập tâm. Trong lúc ở yên trong bực ấy mà
tu, gọi là trụ tâm. Sau khi tu tập lâu rồi, cần bước qua bực
khác gọi là xuất tâm. Batâm ấy đều phải trải qua trăm ngàn số
kiếp. Từ khi nhập tâmvề sơ địa (tức Hoan hỷ địa) đến Thất địa
(tức Viễn hành địa) phải trải qua suốt một kiếp A-tăng kỳ thứ
hai. Từ Bát địa ( tức Bất động địa) đến Thập địa (tức Pháp vân
địa) thuộc về kiếp A-tăng kỳ thứ ba.
- Ðẳng giác:
Khi đã mãn quả Thập địa thì gọi là Ðẳng giác, là địa vị đã gần
đến quả Phật.
- Diệu giác:
Tức là Phật quả, tự mình đã giác ngộ, lại giác ngộ cho người,
trí giác ngộ và công phu tu hành đều được đầy đủ, không thể nghĩ
bàn nên gọi là Diệu gíac. Bực này vì các lậu nghiệp đã hết sạch
và không còn pháp gì phải học nữa, nên gọi là Vô-học đạo.
- VI.- Kết
Luận
- Như chúng ta
đã thấy ở các phần trên, Tam-luận tôn chủ trương "lấy phá làm
tập", phá tất cả những sự chấp trước của đạo ngoại, của
Tiểu-thừa Tỳ-đàm, của thành Phật tôn và của cả một số người tu
theo Ðại -thừa. Nhận chân được những sự sai lầm ấy tức là ngộ
rồi đấy. Con đường đi đến chân lý không đâu khác hơn con đường
mình đi. Nhưng muốn khỏi lạc đường và chậm bước, thì phải dẹp
tất cả những hình bóng phỉnh-phờ và những chướng ngại vật trên
đường đi ấy. Một khi sự phá dẹp hoàn thành thì chân lý tự nhiên
hiện bày.
- Theo thiển
kiến chúng tôi. Tam luận tôn không phải là một con đường Tu như
các tôn khác, mà đúng hơn là một cữa Aủi: Những hành-giả muốn đi
từ Tiểu-thừa hay Ðại -thừa Ðốn giáo, hay Viên giáo thì phải đi
ngang cữa Ải Tam luận tôn. Ðến cửa Aủi này, hành-giả bị lục soát
một cách kỹ lưỡng, nếu ai còn mang theo một món hành lý "chấp
trước" gì, thì không thể qua cửa Aủi này được. Hành-giảkhi đi
qua cửa Aủi này là phải thông suốt các vấn đề: có, không, sanh,
diệt, thường, đọan, nhất, dị v.v...
- Vậy chúng tôi
mong mỏi quý vị Phật-tử muốn đi xa vào thế giới Trung-đạo hay
Viên giáo thì hãy nghiên cứu cho kỹ Tam luận tôn.
- Chúc quý độc
giả thánh công.
- 9.- Câu Xá
Tông Hay Là Hữu Tông
- I.- Duyên
Khởi Lập Tông
- Tôn này thuộc
về Tiểu-thừa, phát xuất từ bộ luận Câu xá của Ngài Thế-Thân. bộ
luận Câu xá lại dựa theo ý-nghĩa của bộ kinh Ðại Tỳ-Bà-Sang
(Mahavibhasacastra) mà thành lập. Bộ luận Câu xá được Ngài
Trần-Chân-Ðế dịch và truyền sang Tàu rất sớm, nhưng về sau bị
thất truyền. Trong giai đoạn đầu nầy, Câu-xá tôn chưa thành một
tôn phái riêng biệt ở Trung Hoa. Chỉ đến khi Ngài Huyền-Trang đi
thỉnh kinh ở Ấn Ðộ trở về, đem dịch lại bộ luận. Câu xá và đệ tử
của Ngài là Ðại sư Phổ Quang dựa theo bộ luận nói trên mà ra bộ
"Câu xá thuật ký", và Ngài Pháp bảo làm bộ "câu xá luận sớ" thì
Câu xá tôn mới thành một tôn và được thạnh hành ở Trung Hoa.
Nhưng hết đời Ðường (từ đầu thế kỷ thứ VII đến cuối thế kỷ thứ
IX) thì tôn này lại dần dần suy tàn và nhường địa vị quan trọng
cho phái Ðại -thừa khác, thích hợp với triết học và tâm lý của
nhưng Trung Hoa hơn.
- II.- Tôn Chỉ
Và Giáo Lý Căn Bản
- 1.- Tôn chỉ:
Tôn này chủ trương "ngã không pháp hữu", nghĩa là không có thật
ngã nhưng có thật pháp.
- Ðối với các
tôn giáo khác thì chủ trương có một cái thật ngã, chủ tế thường
nhất, một cái linh hồn trường tồn bất biến, mặc dù mọi sự vật
đổi thay, sống hay chết. Theo Câu xá tôn thì một cái ngã như thế
không thể có được, vì mọi sự vật trong vũ trụ, kể cả con người
đều giả hợp mà thành, chứ không có một vật gì đồng nhất và bất
biến. Ðây cũng là chủ trương chung của các giáo phái khác trong
Phật giáo. Ðiểm sai khác giữa Câu xá tôn với các tôn phái khác
là: Câu xá tôn thì chủ trương Pháp hữu, trong khi các giáo phái
khác thì bảo rằng pháp không. Pháp hữu, nghĩa là bản thể thật
tại của các pháp, hay nói một cách dễ hiểu hơn, nguyên liệu sanh
ra các sự vật trong vũ trụ, là thường có, là có thật. Thí dụ:
con người không có thật ngã, nhưng những nguyên liệu làm ra con
người, như ngũ uẩn, tứ đại là thật có.
- 2.- Vũ trụ
quang: Câu xá tôn phân biệt vũ trụ vạn hữu ra làm hữu vi pháp và
vô vi pháp. Hữu vi pháp chỉ về hiện tượng trong hiện tượng giới,
có sanh diệt, chuyển biến. Vô vi pháp chỉ về cảnh giới thường
trụ, không sanh diệt, chuyển biến, cũng tức là chỉ về lý thể.
- Hữu vi pháp
gồm có 72 món, và vô vi pháp gồm có 3 món, cộng tất cả là 75
món, hay 75 pháp.
- ÐỒ BIỂU VỀ 75
PHÁP
- 11 sắc pháp -Năm căn: Nhãn, nhĩ,
tĩ, thiệt, thân.
- Năm cảnh:
sắc, thanh, hương, vị, xúc
- và một vô-biểu sắc
- 75 PHÁP 72
pháp 1 tâm pháp Nhãn-thức, nhĩ-thức, hay tĩ-thức, thiệt-thức,
- hữu vi
tâm-vương thân-thức, ý-thức.
- 46 tâm-sở 10
Ðại-địa pháp.
- pháp 10
Ðại-thiện-địa pháp.
- 6
Ðại-phiền-não-địa pháp
- 2
Ðại-bất-thiện -địa pháp
- 10
Tiểu-phiền-não-địa pháp
- 8
Bất-tịnh-địa pháp
- 14.bất tương
ưng hành pháp
- 3 pháp vô-vi
Trạch-diệt vô vi
-
phi-trạch-diệt vô-vi
- Hư-không
vô-vi
- Trong phạm vi
nhỏ hẹp của tập sách, chúng tôi không thể đi sâu đễ giải thích
từng pháp một được. Tuy thế đễ có một ý-niệm về các loại pháp
ấy, chúng tôi xin sơ lược đại khái sau đây:
- Sắc pháp:
phàm cái có thể hư nát và có tánh cách chướng ngại đều thuộc về
sắc pháp. Trong 11 nhóm thuộc về sắc pháp, gồm có năm căn và năm
cảnh, thì độc giả cũng biết rồi, không cần phải giải nữa; còn
món thứ 11 là vô biểu sắc cần phải giải thích. Vô biểu sắc là
cái sắc pháp không biểu hiện ra ngoài (pháp trần), đó làđối
tượng của ý căn.
- Tâm pháp: Cũng gọi là Tâm Vương,
vì nó có năng lực chủ động như ông vua có quyền chủ trương trong
một nước. Tâm vương có ba tên: Tâm, ý và thức. Theo câu xá luận
thì: "nhóm góp các tập quán mà khởi ra gọi là tâm; nghĩ ngợi gọi
là ý; phân biệt gọi là thức".
- Tâm sở pháp:là cái pháp sở hữu
phụ thuộc của tâm vương, như các ông quan phụ thuộc vào quyền
sai sử của ông vua, hay các nhân viên phụ thuộcdưới sư điều
khiển của ong chủ.
- Bất tương ưng
hành pháp:Có thể gọi tắt làcái pháp bất tương ưng, nghĩa là các
pháp không thuộc về sắc, mà cũng không hẵn thuộc về tâm, nhưng
là kết quả của sự tiếp xúc giữa tâm và sắc.thí dụ như sự "sự
được "
- Là một pháp
bất tương ưng. Khi ta được một cái gì, "sự được " áy không thuộc
vêăsc pháp , cũng không thuộc về tâm pháp . "Cái mà ta được " là
sắc pháp , "cái nỗi nỗi vui mừng " khi được là tâm pháp , còn
"sự được" không thể liệt vào sắc pháp hay tâm pháp được , vì thế
cho nên gọi là bất tương ưng hành pháp .
- Vô-vi-pháp:
nghĩa là những pháp không sanh diệt, chuyển biến, vượt ra ngoài
ự dối đãi.Vô vigôm có ba pháp là:trạch diệt vô vi, phi trạch
diệt vô vivà hư không vô vi.
- Bảy mươi lăm
pháp này bao gồmtất cả sự vật trong vữ trụ.
- Sự vật trong
vũ tru ĩchia ra làm hai loại lớn là:hữu tình thế gian và khí thế
gian.
- -Hữu tình thế
giántưc là toàn thể chúng sanh , có sự sống.
- -Khí thế
giántưc là hoàn cảnh mà chúng sanh nương vào để sống như đất
cát, núi, sông, nhà, cửa v.v ..
- Xét về phương
diện thời gian, thì vũ trụ là vô thỉ vô chung, nghĩa là không có
lúc bắt đầu và củng là không có lúc chung cục, mà chỉ có sự thay
đổi, biến chuyển thôi. Trong vũ trụ có hằng hà sang thế giới,
thế giới này thành, thì thế giới kia hoại, đắp đỗi cho nhau. Tuy
thế, riêng mỗi thé giới, từ khi danh thành cho đến khi tiêu
diệt, phải qua bốn giai đoạn ( thành, trụ, hoại, không) gồm một
đại kiếp, tức là một ngàn hai trăm tám chục triệu năm
(1.280.000).
- Xét về phương
diện không gian,thì vũ trụ rộng lớn không thể tưởng tượng được
.Trước tiên đon vị nhỏ nhấtcủa vũ trụlà thế giới(như thế giới
nhỏ mà ta đang ở đây).
- Họp một ngàn thế giới mới thànhd
một tiểu thiên thế giới; họp một ngàn tiểu thiên thế giới mới
thành một trung thiên thế giới;họp một ngàn trung thiên thế giới
mới thành một đại thiên thế giới. Như thế một đại thiên thế giới
gồm(1.000*1.000*1.000) một ngàn triệu thế giốwi nhỏ (như thế
giới chúng ta đang ở dây) . nhưng trong vũ trụ không phải có
mđại thiên thế giới mà có vô lượng vô số đại thiên thé giới; cho
nêntong kinh thường nòila:thập phương vi trần thế giới ( mười
phương thế giới nhiều như cát bụi ) hay thập phương hằng hà sang
thế giới ( mười phương thế giới nhiều như cát sông hằng ).
- Xét về phương diện phẩm chất thì
vũ trụ chia làm ba tầng bấc cao tháp khác nhau, củng gọi là tam
giới, hay ba cõi là: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
- Dục giới là
cõi của loài hữu tình chư Ấn Ðộ xa lìa được dâm dục và thực dục.
Trong dục giới có sáu loại chúng sanh là thiên, nhơn, atula, súc
sinh, ngạ quỷ,địa ngục.
- Sắc giới là
cõi của loài hữu tình có hình sắc tốt đẹp, đã rời bỏ được dâm
dục và thực dục. Cõi này có bốn bậc là:Ly sanh hỹ lạc địa, Ðịnh
sanh hỷ dục địa, Ly hỷ diệu lạc địa và Xã niệm thanh tịnh địa.
- Vô sac giới
là cõi không có hình sắc . các loài hữu tình sanh trong cõi này
chỉ có tâm thức màthôi. Cõi này củng chia làm bốn từng bậc cao
thấp, thông thường gọi là tứ không thiên: không vô biên xứ, Vô
sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ.
- 3.- Nhân sanh
quan: chúng sanh nói chung, và con người nói riêng, do đâu mà
có? Và đời sống chúng sanh có giá trị như thế nào?
- a)Theo câu xá
tôn, thì chúng sanh sở dĩ bị xoay chuyển trong vòng sanh tử luân
hồi, là do "nghiệp cảm duyên khởi", nghĩa là do mê hoặc mà tạo
nghiệp, do tạo nghiệp mà cảm thọ các quả báo.
- Thế nào gọi
là hoặc? Họăc nghỉa là mê mờ, không sáng suốt, không biết đâu là
phải, đâu là trái tức là vô minh, mê vọng. Hoặc có hai loại: bổn
hoặc và tùy hoặc, Bổn hoặc là sự mê lầm cội gốc, củng gọi là căn
bản phiền não, như tham, sân,si,mạn, nghi, ác kiến. Tùy hoặc là
những mê lầm dựa theo bổn hoặc mà phát sinh, cũng gọi là tùy
phiền não.
- Trong sáu
bổn-hoặc nói trên, thì năm hoặc đầu: tham, sanh, si, mạn, nghi,
vì tánh chất chậm-lụt, ăn sâu gốc rễ trong thâm tâm chúng ta,
rất khó dứt trừ, nên gọi là ngũ-độn-sử (sử là sai sử, xúi sử;
những hoặc này sai khiến một cách tiềm tàng, sâu kín loài hữu
tình làm cho chúng sanh cứ luẩn quẩn trong chổ mê lầm nên gọi là
độn-sử).
- Còn hoặc thứ
sáu là ác kiến, vì tánh chất nó lanh lẹ, không ăn sâu gốc rễ
trong thâm tâm và dễ dứt trừ, nên gọi là lợi sử. Aùc-kiến hay
lợi sử gồm có năm thứ là: Thâm kiến, Biên kiến, Tà kiến, kiến
thủ, và giới cấm thủ.
- Thân kiến: là
chấp một cách sai lầm rằng cái thân do ngũ uẩn giả hiệp này là
có thật ngã.
- Biên kiến: là
chấp sai lầm rằng cái thân này chết rồi thì tiêu diệt hẳn, không
còn gì cả (đoạn kiến) hay trái lại, chấp cái thân này chết rồi,
linh hồn vẫn còn mãi mãi (thường kiến). Những sự chấp ấy làm mất
hẳn lý trung đạo, nên gọi là biên-kiến.
- Tà-kiến: là
chấp những đạo lý mơ hồ tà bậy và bài bác những lý nhơn quả chơn
chánh.
- Kiến-thủ: là
chấp chặt kiến giải sai lầm của mình, mà không chịu theo đời các
bậc hiển thánh.
- Giới cấm-thủ:
là giữ giới sai-lầm như những giới khổ hạnh của ngoại đạo v.v...
- Do những bổn-hoặc và ác kiến nói
trên sai sử, chúng sanh tạo ra các nghiệp, làm nhân quả cho nhau
và khiên sau khi cho chúng sanh phải xoay vần mãi trong sanh tử
luân hồi. Nghiệp có ba thứ: ý-nghiệp, tức là tự suy nghĩ, hành
đọng của ý niệm; ngữ-nghiệp, tức là sự nói năng; thân nghiệp,
tức là những hành động về thể xác.
- Nghiệp có ba
tánh là: lành, dữ và vô ký (nghĩa là trung bình, không lành,
không dữ). Nghiệp lành thì có quả báo lành, nghiệp dữ thì có quả
báo dữ. Còn nghiệp vô-ký thì có quả báo không lành không dữ.
- Nghiệp lành,
cũng như nghiệp dữ, đều có mười thứ:
- Mười nghiệp
dữ là: giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối gạt, nói thiêu dệt,
nói chia rẽ, nói độc ác, tham lam, giận giữ, si mê.
- Mười nghiệp
lành là: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói
dối gạt, không nói thiêu dệt, không nói chia rẽ, không nói độc
ác, không tham lam, không giận giữ, không si mê.
- Quả-báo của
mười nghiệp lành và mười nghiệp dữ có mau và chậm, nghĩa là có
khi xảy ra trong một đời, có khi hai ba đời sau mới thọ quả-báo.
- Khi thời kỳ
cảm quả chịu báo đã xác định, thì gọi là định nghiệp. Trái lại,
htì gọi là bất định nghiệp. Bất định nghiệp có hai thứ: một là
quả báo đã định mà thời kỳ chịu quả báo chưa định; hai là cả quả
báo và thời kỳ chịu quả báo đều chưa định.
- b). Trên đây
là nói lý do vì sao có sự hiện diện của chúng sanh trong thế
giới này. Dưới đây, chúng tôi sẽ nói đến giá trị của sự hiện
diện ấy theo quan niệm của Câu xá tôn, tức cũng là quan niệm của
Tiểu-thừa Phật giáo.
- Quan niệm ấy,
không xa lạ gì đối với chúng ta. Ðó là cõi đời là một bể khổ,
trong ấy, chúng sanh đang lặn hụp, trôi lăn, sống chết. Con
người khổ vì sanh, lão, bệnh, tử. Con người khổ vì yêu nhau mà
phải xa lìa, ghét nhau mà phải chung sống, muốn một đàng mà thực
tế đưa đi một nẻo. Con người khổ vì tai trời, nạn nước: bão,
lụt, chiến-tranh, trộm cướp v.v...Con người khổ vì sống trong
một hoàn cảnh mê mờ, tối tăm, không biết đâu là thật, đâu là
giả, đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là ảo ảnh giả dối. Con
người khổ vì mong được trường tồn àm cõi đời lại vô thường, luôn
luôn biến đổi, có đó không đó, có đó mất đó, như một trò mộng
huyễn. Con người khổ vì tưởng rằng có một cái thật-ngã làm nồng
cốt cho sự sống, thuần nhất, tự tại, ngờ đâu cái Ngã ấy là giả
dối, không có thật vì bị hoàn cảnh chi phối làm cho điêu đứng,
đảo điên.
- Tóm lại, cõi
đời là một bể khổ làm bằng nước mắt của tất cả chúng sanh.
- III.- Phương
Pháp Tu Hành
- 1.-
Tứ-diệu-đế.
- Muốn giải
thoát ra ngoài bể khổ mênh mông của cõi đời, Câu xá tôn chủ
trương phải tu theo pháp "Tứ-diệu-đế". Tứ diệu đế tức là bốn lẽ
chân thật đưa người tu hành từ cảnh mê đến cảnh ngộ, từ cõi Ta
bà đau khổ, đến cảnh giới Niết bàn tịch tịnh.
- - Diệu đế thứ
nhất chỉ rõ cho người tu hành thấy cõi đời là đau khổ.
- - Diệu đế thứ
hai chỉ rõ cho người tu hành thấy được nguyên nhân của sự đau
khổ trong cõi Ta-bà.
- - Diệu đế thứ
ba chỉ rõ cảnh giới an lạc sau khi ra khỏi cõi đời đau khổ.
- - Diệu đế thứ
tư chỉ rõ con đường tu hành để đi đến cảnh giới an lạc Niết bàn.
- Bốn Diệu đé
ấy tức là: khổ, tập, diệt, đạo vậy.
- 2.- Thập nhị
nhân-duyên.
- Với những căn
cơ lanh lợi, thì có thể tu theo pháp Thập-nhị-nhân-duyên.
Thập-nhị-nhân-duyên là 12 nhân duyên kế tiếp theo nhau, làm
nhân, làm quả, khiến cho chúng sanh phải mãi mãi xoay vần trong
bể khổ sanh tử luân hồi. Mười hai nhân duyên ấy là: vô minh,
hành, thức, danh sắc, lục thập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh,
lão tử. Mười hai nhân duyên này như mười hai vòng xích nối liền
với nhau làm thành một chuổi xích, không biết đâu là đầu, đâu là
cuối. Nếu cắt đứt được một vòng xích thì chuổi xích ấy tất phải
phải đứt đọan. Ðối với kẻ tu hành, muốn chấm dứt sanh tử luân
hồi, thì cái mắc xích cần phải bị cắt đứt là ''ái''. Aùi ở đây
tức là luyến ái. Vì luyến ái nên mới có thủ cho mình, rồi
''thủ'' sanh ra ''hữu''. Và từ đó, cái vòng sanh tử lại tái
diễn. Vậy không có ''ái'', thì không có ''hữu'', không có
''hữu'' thì không có ''sanh'', không có ''sanh'' thì không có
''lão tử'', nghĩa là không có khổ đau.
- IVQuả Vị Tu
Chứng
- 1.- Người tu
theo pháp Tứ-diệu đế, nếu mau lắm thì cũng phải trải qua qua ba
đời, còn nếu chậm, thì phải tải qua 60 kiếp, mới chứng được
A-la-hán, la fcõi cao nhất của hàng Thanh Văn.
- Trước khi
chứng được quả vị A-la-hán, hành-giả tuần tự chứng các quả dưới
đây:
- Tu-đà-hoàn,
Tàu dịch là Nhập lưu, hay Dự lưu, nghĩa là bắt đầu nhập vào dòng
Thánh.
- Tư-đà-hàm,
Tàu dịch là Nhất lai, nghĩa là còn phải đầu thai vào cõi
Dục-giới một lần cuối cùng nữa, để tu hành cho rốt ráo, trước
khi vĩnh viễn xa rời cõi này.
- A-na-hàm, Tàu
dịch là Bât-lai, nghã là không còn phải đầu thai vào cõi
Dục-giới nữa. Hết bực này là đến quả vị A-la-hán.
- A-la-hán, Tàu
dịch là Ứng-cúng hay Vô-sanh, nghĩa là dứt bỏ được cái điều mê
lầm trong cõi Sắc giới và Vô- sắc giới, không còn phiền não,
không còn chịu sanh tử luân hồi, vượt ra khỏi ba cõi, hưởng sự
cúng dường của thiên và nhân. Bậc này gọi là bậc Vô-học, nghĩa
là không phải tu học pháp gì nữa.
- có chia ra
nhiều tầng bậc, chẳng qua khi đang tu hành thì gọi là Duyên-gíac
hướng, nghĩa là đi lần tới mục đích của sự tu hành là quả
Duyên-giác. Còn khi tu được đầy đủ, dứt mối mê lầm, chứng được
chân lý, thường hưởng được cái vui giải thoát trong cảnh
Niết-bàn, thì gọi là Duyên-giác quả. Vị chứng được quả này thì
gọi là Bích-chư-Phật, tức là vị Phật tự giải thoát cho mình,
nhưng chưa có thể giác tha. Từ khi bắt đầu tu hành cho đến khi
chứng quả Duyên-giác, thời gian dài ngắn khác nhau tùy theo căn
cơ của kẻ tu hành: vói căn cơ lanh lợi thì ít ra cũng phải trải
qua bốn đời tu luyện; với căn cơ chậm lụt thì phải trải qua 100
kiếp tu hành.
- V.- Kết Luận
- Câu xá tôn,
mặc dù chỉ là một tôn phái trong nhiều tôn phái của Tiểu-thừa,
nhưng có thể đại diện một cách gần đấy đủ cho phái Tiểu-thừa
Phật giáo. Bởi thế , Câu xá tôn, chúng ta có thể hiẻu một cách
khá tường tận giáo lý căn bản và phương pháp tu hành của hàng
Tiểu-thừa trong quá khứ xa xưa.
- Nhưng từ khi
tôn này được thành lập ở Trung Hoa đến bây giờ, thời gian đã
trôi qua hơn một ngàn năm. Trong thời gian ấy, chắc cũng có
nhiều sự biến đổi trong chi tiết. Chúng tôi rất tiếc không có
nhiều tài liệu để nghiên cứu một cách đầy đủ những biến chuyển
của tôn này qua thời gian và sự tồn tại của nó trong hiện tại
như thế nào. Do đó, chúng tôi thành thật đề nghị với quý độc giả
hãy xem bài này như một bài nghiên cứu về một trong mười tôn
phái ở Trung Hoa, chứ chưa phải một ''con đường'' hoàn bị, hướng
dẩn trực tiếp quý vị vào sự tu luyện. Chúng tôi muốn nói, nếu
quý vị thấy căn cơ mình thích hợp với giáo lý Tiểu-thừa, mà muốn
bắt tay vào sự tu luyện, thì cũng cần tìm đọc thêm nhiều nữa và
nghiên cứu cho đến nơi đến chốn, để khỏi lạc hướng sai đường.
- 10.- Thành
Thật Tông
- I.- Duyên
Khởi Lập Tông
- Tôn này thuộc
về Tiểu Thừa, y cứ vào ý nghĩa của bộ thành thật luận, do đó gọi
là Thành thật tôn.
- Bộ Thành thật
luận do ngài Ha-lê-bạt-ma ( Harivarman, Tàu dịch là Cưu-ma-la-đà
(Kumaraladha) thuộc phái Tiểu Thừa Tát-bà-đa làm ra, vào khoảng
900 năm, sau khi đức Phật Thích Ca nhập niết bàn. Như chúng ta
đã biết qua trong phần lịch sử truyền giáo ở Aán độ, sau khi đức
Phật nhập niết bàn, phái Tiểu Thừa chia ra thàngh nhiều nhóm,
giải thích kinh điển của Phật không giống nhau. Nhận thấy nguy
cơ có thể làm cho Phật giáo suy đoivif sư không đồng quan
điểm`về giáo lý của các tôn phái ấy, ngài Ha-lê-bạt-ma đã đem
hết tâm lực và trí tuệuyên bác của mình, rút ra lý tinh tủytong
các bộ kinh luậncủa Tiểu Thừa, làm ra bộ thành thật luận. Sở dĩ
ngài dùng hai chữ "Thành thật"để đặt tên cho bộ luậncủa mình là
hàn ý muốn nói rằng: những lý nghĩa trong bộ luận của minhlaf
chân thật, đúng đắn hoàn toàn với giáo lý căn bản trong ba tạng
kinh điển của Phật . mà thật như thế, bộ Thành thật luận là bộ
luận có thể tiêu biểu một cách trung thựcgiáo lý của Tiểu Thừa.
- Và củng vì
giá trị chân chính ầy màbộ Thành thật luận được truyền sang
Trung Hoa và được Ngài Cưu-ma-laThập trong đời giao tần dịch ra
văn Tàu, gồm có tất cả 16 cuốn, chia ra làm 202 phẩm. Nhưng mặc
dù được người đời hâm mộ, bộ luận này phải đợi đến đời Nam Bắc
triều mới thành lập một tôn riêng tức là" Thành thật tôn".
- II.-Tôn Chỉ
Và Giáo Lý Căn Bản
- Tôn này chủ
trương "nhân không , Pháp không ".
- Như chúng ta
đã biết, theo Câu-xá-tôn thì nhơn không nhưng pháp lại có. Thành
thật tôn, đi xa hơn, cho rằng nhơn không thật, mà pháp củng
không thật.
- Ðể giải thích
chủ trương "hai không" này, Thành thật lập ra hai môn là: Thế
giwói môn và Ðệ nhất nghĩa môn.
- 1.- Thế giới
môn: Môn nghĩa đen là cửa; Thế giới môn tức là cửa của Thế giới;
nói một cách thông thường như ngày nay thường nói, "thế giới
môn" tức là đứng về "phương diện thế tục, phương diện tương đối"
mà quan sát suy luận.
- Xát về phương
diện tương đối, thì nhơn cũng có mà pháp cũng có. Thật vây, theo
sự nhận xét thông thường, thì ta có một cái thân; ta đi, đứng,
nằm, ngồi; ta có một cái tâm để suy xét, phân biệt, nhớ chuyện
quá khứ, tính chuyện tương lai? Thế mà bảo mà không có ngã thì
thật là vô lý. Lại trong kinh cũng thường nói: ta thường tự ngăn
ngừa và tụ giữ lấy ta, làm lành tự mình được hưởng điều lành,
làm dữ, tự mình chịu hưởng quả dữ. Vậy nếu bảo rằng không có
người, không có ta, thì thật là trái với nhận xét và lý luận
thông thường.
- Xét về các
pháp cũng vậy, bảo rằng không thì cũng là vô lý. Nếu không có
sắc pháp thì làm sao có thân ta, có cảnh giới chung quanh ta? Ừ,
thì thân ta, do ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, giả hợp
mà thành. Những thứ này cũng là pháp cả. Thí dụ nếu ta chia chẻ
cái sắc pháp ra thành nhỏ mãi, thì cuối cùng, dù nhỏ đến không
thể chia chẻ được nữa, cũng vẫn là sắc, chứ sắc không thể chia
ra mà thành "không" được . Ngược lại, nếu đã là không , thì
không thể đem cái "không" ấy nhân lên mãi mà thành "có" được.
Cũng như trong toán học, dù có nhân bao nhiêu lần với con số
không ( dero), thì không cũng vẫn là không .
- 2.- Ðệ nhất
nghĩa môn: Ðệ nhất nghĩa môn, hay chơn đế, là nói về phương diện
tuyệt đối. Ðứng về phương diện này mà xét, thì Ngã và Pháp điều
là giả có, chứ không thật có. Khi năm uẩn hòa hợp thì tạm gọi là
ta; khi năm uẩn tan ra thì cái ấyy không còn nữa. Vã lại cái ta
ấy, trong lúc còn sanh tiền, thì mõi phút, mỗi giây cũng đều có
thay đổi, biến chuyển chứ không thuần nhất là bất biến.
- Các pháp cũng
vậy, tương đối mà nói thì có, nhưng tuyệt đối mà xét thì cũng
không thật có. Các pháp cũng do nhân duyên hòa hiệp mà tạm gọi
là có, chứ không thể có một cách tuyệt đối, nghĩa là không thuần
nhất và bất biến. Vì thế cho nên Phật dạy: "các pháp đều là như
huyễn như hóa". Kinh Bát nhã cũng nói: "sắc chẵng khác gì không
, không chẵng khác gì săc, sắc tức không , không tức sắc"...Tóm
lại, đứng về đệ nhất nghĩa môn mà xét, các pháp rốt ráo là
chơn-không . Chơn-không là thế nào? Chơn-không có nghĩa là: chơn
pháp của các pháp trong vũ trụ vốn là chơn thật, nhưng không
phải là có các hình tướng như các hình tướng giả dối mà người
đời thường thấy ở chung quanh. Cái "có" và cái "không " ở trong
đời, đối với chân đế, hay đệ nhất nghĩa đế, đều giả dối, không
thật.
- Nên biết cái
"không " hiểu theo nghĩa chơn đế, khác với "không" hiểu theo
nghĩa tục đế. Cái "không" của Chơn đế thì gọi là Chơn không; còn
cái không của Tục đế là cái "không" đối đãi với cái "có" mà
thành, đó là không giới. Chơn không thường vắng lặng tịch diệt
ra ngoài cái đối đãi của "có"và "không" phàm tục. Còn không giới
chẳng qua là cái sắc đối với nhãn căn đó thôi. Chơn không không
phải là sắc; không giới mới là sắc. Chơn không, không thấy được.
Choan không không đối tượng; không giới thuộc về đối tượng. Chơn
không là vô lậu. Không giới là hữu lậu. Chơn không là vô vi,
Không giới là hữu vi.
- 3.- Tương
quan giữa Thế giới môn(Tục đế) và Ðệ nhất nghĩa môn(Chơn đế):
Theo để nhất nghĩa môn thì chơn lý của vũ trụ vốn Chơn không
tịch diệt,vắng lặng; theo thế giới môn thì có ta và người, có
sắc và không, nghĩa là có ngã và pháp. Vậy thì giữa Thế giới môn
và Ðệ nhất môn có tương quan gì với nhau không? Làm sao mà Chơn
không tịch tịnh lại pháp sanh ra ngã và pháp, nghĩa là từ chổ
Chơn không lại phát sanh ra chúng sanh và sơn hà đại địa?
- Thành thật
tôn cắt nghĩa: đó là vô minh. Các pháp trong vũ trụ, thể tánh
vốn vắng lặng, tịch diệt, nhưng vì do tâm vọng tưởng phân biệt
mà có rối loạn, lăng xăng. Nói một cách rõ ràng hơn, bản tánh
của vũ trụ vốn là không có ngã, không có pháp nhưng vì "hai món
chướng"mà thấy có ngã và pháp. Hai món chướng ầy là:
- a) Phiền não
chướng, tức là các nghiệp chướng về Kiếùn hoặc Tư hoặc. Chướng
này vì chấp cái ta mà thiệt có, nên mới sanh các phiền não, rối
loạn thâm tâm,chướng ngại đạo Niết bàn tịch tịnh. Chướng này,
trong Câu xá luận, thì
- gọi là "tánh nhiễm ô vô tri".
- b) Sở tri
chướng: cũng gọi là trí chướng. Căn bản của chướng này, là chấp
các pháp thật có, làm che lấp cái tánh vô điên đảo đối với các
cảnh mình hay biết, làm chướng ngại đạo Bồ đề. Chướng này trong
câu xá luận gọi là "bất nhiễm ô vô tri" ( không nhiễm ô nhưng
vẫn thuộc về si mê không biết, vì làm cho mình không chứng rõ
được chơn lý).
- 4.- 84 pháp:
Như chúng ta đã thấy trong Câu xá tôn, những hiện tượng của nhơn
sanh và vũ trụ, được phân thành 75 pháp. Theo Thành thật tôn,
thì nhân sanh, vũ trụ lại được chia thành 84 pháp. Còn Pháp
tướng tôn lại chia thành 100 pháp. Như thế, chúng ta nên hiểu
rằng sự phân chia ra ít hay nhiều pháp chỉ là một vấn đề tương
đối, chứ không có nghĩa nhất định. Sự phân loại các pháp này,
chỉ có một mục đích là để nghiên cứu cho rõ ràng nhân sanh, vũ
trụ mà thôi. 84 pháp mà Thành tật tôn đã phân loại là:
- 14 Sắc pháp:
5 Căn, 5 Trần, 4 Ðại.
- 50 Tâm pháp:
1 Tâm vương, 49 Tâm sở (so với Câu xá tôn, thì coa ba Tâm sở là
Hân ( tánh hớn hở), Yểm (tánh nhàm chán) và Thùy miên và Câu xá
tôn ghép thành một Tâm sở, con Thành thật tôn thì chia làm hai
là Thùy và Niêm).
- 17 Phi sắc
phi- tâm pháp (tức là Bất tương ưng hành pháp). Về loại này,
Thành thật tôn hơn bên Câu xá tôn ba pháp: Thành thật tôn hợp
""Mạng căn " và "Ðồng phận" lại là một, nhưng lại thêm: Lão, Tử,
Phàm phu và Vô tác (tức là Vô biểu sắc bên Câu xá tôn).
- 3 Vô-vi pháp(
như bên Câu xá tôn) Trạch diệt vô-vi, Phi trạch diệt vô-vi và Hư
không vô-vi.
- III.- Phương
Pháp Tu Hành
- Phương pháp
tu hành của Thành thật tôn cũng gần giống như của Câu xá tôn;
nhưng vì Câu xá tôn chủ trương "nhơn không pháp hữu"; còn Thành
thật tôn thì chủ trương "nhơn không pháp không ", nen về phưpưng
pháp tu hành của Thành thật tôn,đặc biệt có hai pháp quán là:
Ngã không quán và Pháp không quán.
- 1.- Ngã không
quán và Pháp không quán:
- a) Ngã không
quán: như quán trong cái bình không có nước, thì gọi là Không.
Quán thân ta do năm uẩn hòa hợp giả tạm mà có, chứ không có một
cái ta chân thật. Pháp quán này mục đích là nhận rõ lý ngã
(nhơn) không, nên gọi là " Ngã không quán".
- b) Pháp không
quán: như sau khi quán cái bình không có nước, lại quán thêm một
tầng nữa để thấy rằng, thể chất của bình cũng không chân thật.
Aùp dụng pháp quán này trong thân người, hành giả đi đến kết
luận rằng: không những cái ta là không thật, do ngũ uẩn tạo
thành; mà chính các pháp tạo ra ngũ uẩn cũng không chơn thật.
Aáy là pháp quán về pháp không.
- 2.- Ba tâm và
diệt đế: Phương pháp này cũng gần giống như hai pháp quán trên,
nhưng đi xa hơn một tầng, nghĩa là không chấp có, nhưng cũng
không chấp không. Ba tâm là:
- a) Giả danh
tâm, tức là cái tâm chấp những giả danh, như chấp người ta là có
thật. Ðối với sự chấp trước này, hành giả dùng trí huệ mà quan
sát, biết nó đều là nhơn duyên hòa hợp mà sanh, tức chứng được
lý nhơn không.
- b) Pháp tâm,
là cái tâm chấp pháp thể năm uẩn là thực có. Ðối với sự chấp
trước này, hành giả dùng trí Chơn không mà trừ bỏ, thấy được
pháp không.
- c) Không tâm
là cái tâm chấp cái "không " là thật có, nghĩa là đã quán biết
được nhơn ngã, Pháp ngã đều không, mà lại chấp cái "không " là
thật. Như thế, chấp "có" đã là sai, mà chấp "không" lại càng sai
hơn. Vậy phải quán Ngã, Pháp đều không, mà cái không ấy cũng
không có tướng nắm bắt, nhận thấy được, như không giới. Rốt lại
chỉ còn cái"Chơn không " là chơn lý tuyệt đối, ngoài ra "có" và
"không" của phàm tục. Ðến đây tức là Diệt đế.
- IV.- Quả Vị
Tu Chứng
- Về quả vị tu
chứng, tôn này cũng giống như Câu xá tôn, có 27 từng bực, tức là
27 vị Hiền Thánh.
- a) Dự lưu
hướng: Dự lưu hướng, nghĩa hướng tới dòng thánh; nói một cách
nôm na, hành giả đang đi dần đến để nhập vào dòng thánh, như
chiếc thuyền dang đi trên dòng sông con, để vào con sông cái. Dự
lưu hướng gồm có 3 bực sau đây:
- 1.- Tùy tín
hành: Tùy tính nghĩa là nghe theo lời dạy của các bậc đã chứng
quả, rồi tin và tu tập theo.
- 2.- Tùy pháp
hành: Vị này không còn đợi có những lời dạy bảo của các bực
thánh hiền, nhưng chỉ thuận theo chánh pháp mà tự tu hành.
- 3.- Vô tướng
hành: Là bậc kiến đạo, thấy được chơn lý của lý diệu đế, trí vô
lậu đã phát sanh.
- b) Dự lưu
quả: Tức là quả tu đà hoàn. Bực này đã dứt hết những kiến hoặc
trong ba cõi, dự vào dòng thánh đạo.
- c.) Nhứt lai
hướng: Bực này đã dứt được năm phẩm tư hoặc ở cõi Dục giới, đang
hướng đến quả Nhứt lai.
- d.) Nhứt lai
quả: Bực này đã dứt được phẩm tư hoặc thứ sáu ở cõi Dục giới,
nhưng còn phải trở lại một cõi lần cuối cùng (nhứt lai) ở cõi
Dục giới.
- đ) Bất hoàn
hướng: Bực này đã dứt được hai phẩm tư hoặc thứ bảy và thứ tám ở
cõi Dục giới, và đang tu hành để hướng đến quả Bất hoàng, là quả
thoát ra vòng Dục giới và không còn trở về Dục giới nữa.
- e) Bất hoàn
quả: Bực này đã hoàn toàn dứt được 9 phẩm tư ở cõi Dục giới, cho
nên không trở về cõi Dục giới nữa. Quả này gồm có 11 bực như
sau:
- 1.- Trung
ban: Bực này, sau khi ở cõi Dục giới vừa cheết, sắp sanh lên cõi
Sắc giới, cái thân trung ấm tuy còn ở vào khoảng trung gian mà
đã dứt trừ các mê lầm phiền não của cõi Sắc giới, nên vào ngay
Niết bàn.
- 2.- Sanh ban:
Bực này sau khi lên cõi Sắc giới, chẳng bao lâu thì vào Niết
bàn; ấy là do sự siêng năng về đường tu đạo mà mau tới vậy.
- 3.- Hứu hành
ban: Bực này sau khi sanh về cõi Sắc giới, tu hành tinh tánh mãi
không nghỉ, mà vào được Niết bàn.
- 4.- Vô hành
ban: Bực này trái lại, sau khi sanh vào cõi Sắc giới, vì trễ nãi
đường tu hành, nên thành quả dù chậm đến, nhưng cuối cùng cũng
vào Niết bàn.
- 5.- Lạc huệ
ban: Bực này sau khi sanh vào cõi Sắc giới, lại lần được sanh
vào Sắc cứu kính là cõi cao nhất ở cõi Sắc giới mới vào Niết
bàn. Cõi trời Sắc giới có định, có huệ, bực này làm huệ làm vui
nên gọi là "Lạc huệ".
- 6.- Lạc định
bàn: Bực này không chịu vào Niết bàn nơi cõi Sắc giới, mà còn
muốn chuyển sanh lên cõi Hữu đảnh là cõi cao của Vô sắc giới, mà
vào Niết bàn. Trong cõi Vô sắc giới này, chỉ có định mà không có
huệ, hành giả lấy định làm vui, cho nên gọi là Lạc định.
- 7.- Chuyển
thể: Bực này sau khi ở cõi Dục giới, chứng được quả Dự lựu và
Nhất lai, đáng lẽ sanh về cõi Sắc giới hay Vô sắc giới, nhưng
hành giả lại chuyển sanh vào cõi Dục giới mà tu hành, chứng được
quả Bất hoàn rồi vào thẳng ngay Niết bàn.
- 8.- Hiện ban:
Bực này không sanh vào cõi Sắc giới, Vô sắc giới, cũng không cần
chuyển sanh, chỉ tu tập trong một thời kỳ, chứng luôn ba quả,
rồi đi thẳng từ cõi Dục giới vào Niết bàn.
- 9.- Tín giới:
Bực này, vì căn cơ hơi chậm lụt, nên chỉ tin theo lời dạy bảo
của kẻ khác mà tu hành, chứng được quả Bất hoàn.
- 10.- Kiến
đắc: Bực này, trái lại với bực Tín giới ở trên, chứng được quả
Bất hoàn là nhờ có căn cơ lanh lợi, tự nương theo trí huệ của
mình mà thôi.
- 11.- Thân
chứng: Bực này là bực lợi căn tột độ, chứng được Diệt tận định.
- Mười một bực
Bất hoàn quả kể trên này, không phải có thứ bậc tuần tự mà hành
giả phải vượt qua. Ðây chỉ là 11 trường hợp khác nhau trong quả
Bất hoàn, do căn cơ lanh lẹ, hay chậm lụt, do sở nguyện hay hoàn
cảnh, tâm tính khác nhau mà ra. Nhưng dù sao, thì cũng là ở
trong quả Bất hoàn cả, không có cao và thấp hơn và kém, và đều
gọi là A la hán hướng, nghĩa là đang hướng đến quả A la hán.
- Nếu kể từ bậc
đầu tiên là: Dự lưu hướng cho đến bậc Bất hoàn quả, gồm cả thảy
18 bậc, thì gọi là bậc Hữu học.
- Còn chín bậc
cuối cùng sau đây là chín bậc A la hán quả, cũng gọi là bậc Vo
học.
- g) A la hán
quả: Quả vị này gồm có 9 bậc, cũng gọi là Vô học, nghĩa là không
cần phải học hỏi gì nữa.
- 1.- Thối pháp
tướng: Thối nghĩa là thối lui. Thối lui ở đây không có nghĩa là
thối lui về sanh tử, làm chúng sanh, mà thối lui về cảnh thiền
định đã đặng, như các bậc độn căn La hán.
- 2.- Thủ hộ
tướng: Thủ hộ là gìn giữ bảo hộ. Thủ hộ tướng tức là bậc La hán
gìn giữ bảo hộ cảnh thiền định đã được, không mất.
- 3.- Tử tướng:
Là bực La hán rất nhàm chán thế gian, lại sợ thối mất chỗ chứng
ngộ của mình, nên muốn vào liền cõi Niết bàn.
- 4.- Trú
tướng: Là bực La hán, căn cơ không thể tu tới mà cũng không đến
nỗi thối lui, chỉ giữ về bực trung mà thôi.
- 5.- Khả tấùn
tướng: Khả tấn là có thể tiến thêm nữa. Ðây là bực La hán đã
chứng được bực thiền định, mà còn tu tới mãi.
- 6.- Hoại
tướng: Ðây là bực La hán,căn cơ chậm lụt, nhưng vẫn giữ được
không thối lui, mặc dù gặp phải duyên trở ngại.
- 7.- Huệ giải
thoát: Bực La hán này đã chứng được Diệt tận định, được chơn trí
vô lậu, đã giải thoát các phiền não, nhưng chưa ly được sự
chướng ngại về cảnh thiền định.
- 8.- Cầu giải
thoát: Ðây là bực La hán đã giải thoát được cả huệ chướng và
định chướng; nghĩa là không còn bị trí huệ hay thiền định làm
chướng ngại nữa.
- 9.- Bất thối
tướng: đây là bực La hán có căn cơ lanh lợi, bao nhiêu công đức
trí huệ đã tu tập đều không thối lui hay là tiêu mất được .
- Tóm lại, mặc
dù quả vị tu chứng của yôn này có chia ra đến 27 bậc, nhưng đó
là muốn chia chẻ một cách rốt ráo của từng trường hợp, chứ đại
khái cũng giống như quả vị tu chứng trong Câu xá tôn. Thật vậy,
nếu chúng ta đem so sánh quả vị của hai tôn Câu xá và Thành
thật, thì sẽ thấy như sau:
- Câu Xá Tông
- 1.-
Tu-đà-hoàn
- (hay
Nhập-lưu)
- 2.-
Tu-đà-hàm
- 3.- A-na-hàm
- (hay
Bất-lai).
- 4.- A-la-hán
- (hay Vô-sanh
Vô-học)
- Thành Thật
Tông:
- 1.-
Dự-lưu-hướng và Dự-lưu-quả.
- 2.-
Nhứt-lai-hướng và Nhứt-lai-quả
- 3.-
Bất-hoàn-hướng Và Bất-hoàn-quả
- 4.- A-la-hán
(Vô-sanh, Vô-học).
- V.- Kết Luận
- Thành-thật
tôn, cũng như Câu xá tôn, đều thuộc các tôn phái của Tiểu-thừa
Phật giáo. Giáo lý căn bản của hai tôn cũng gần giống nhau, chỉ
có khác ở điểm: Câu xá tôn thì chủ trương "nhơn không pháp hữu"
, còn Thành-thật tôn thì chủ trương "nhơn không pháp không ".
Như thế, Thành thật tôn đã bước thêm một bước lại gần Ðại -thừa
Phật giáo hơn. Ðó là một điểm chứng-minh rằng theo với thời
gian, Tiểu-thừa và Ðại -thừa càng xích lại gần nhau hơn. Với cái
đà ấy, chúng ta hy vọng rồi đây, giữa giên giới hai phái lớn của
Phật giáo sẽ được xóa hết, chỉ còn lại một danh từ, một cái đạo
chung cho cả thế giới là Ðạo Phật.
- Hoài bảo ấy,
hiện tổng hội Phật giáothê giới đang cố gắng thực hiệnqua nhiều
quyết nghị trong các đại hội Phật giáothê giới. Và ở Việt
namhoài bảo ấy được thể hiện trong những ngày đầu năm 1964, dưới
danh hiệu Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất. Trong giáo hội
này, các giáo phái Ðại Thừađều thề nguyện chung sức chung lòng
để phát huy nền Phật giáo Việt nam mỗi ngày thêm rạng rỡ.
- Tổng Kết Về
Mười Tông
- Chúng ta đã
có một cái nhìn tổng quàtvê mười tôn. Chúng ta đã hiểu sơ quạư
thành lập tôn chỉ và giáo lý căn bản, sự tu hành váự chứng quả
của mười tôn. Vì đay là những bài học phổ thông, nên chúng ta
không thẻ đi sâu vào chi tiết,và phạm vi cũng như thời không cho
phép chúng tôi nói nhiều hơn nữa. Nếu quý vị đọc giả nào muốn
hiểu rõ ràng hơn, hãy tìm các kinh sách nói về mười tôn ấy.
- Mặc dù vắn
tắt, qua những bài học này, chúng ta có thể nắm được những điểm
chính căn bản của mỗi tôn.
- Mỗi tôn, tuy
có một tôn chỉ một chủ trương riêng, nhưng tôn nào cũng thờ đức
Phật Thích ca làm giáo chủ, và dựa trên các kinh điển của ngài
đã nói mà lập tôn.
- Sự sai khác
chẵng qua là cách giải thích vũ trụ hữu hạn và phương pháp tu
hành. Chứ còn những điểm chính căn bản, thì mọi tôn phái công
nhận giống nhau,là: có một chân như trong suốt , linh diệu bên
trong vũ rụ vjn hữu, làm nền móng cho mọi hiện tượng ở thế gian
này. Chúng sanh không công nhận được cái chân như ấy, vì chúng
sanh bị vô minh che ám; nhưng với phương pháp tu hành mà đức
Phật Thích ca đã dạy bảo, chúng ta sẽ giác ngộ và thể nhập với
các chân như ấy.
- Nếu sự giải
thích vũ trụ vạn hữu có nhiều cách, và phương pháp tu hành có
nhiều lối là vì xu hướng và trìnhđộ và căn cơ của chúng sanh
không đều; cũng như phương pháp chữa bệnh, phải tùy bệnh nặng
nhẹ, phải tùy người mà cho thuốc . làm sao cho bệnh nhân lành
bệnh là lương y giỏi.
- Chúng ta rất
không may, ở vào thời kỳ mạt pháp , không có lương y giỏi. Nhưng
sự giải thích căn bệnh và phương pháp chữa bệnh của các bậc đại
lương y là giáo lý của các tôn phái, đang còn đó. Chúng ta hãy
tụ nghiên cứu lấy căn bệnh của chúng-ta, và hãy lựa phương thuốc
nào thích hợp với bệnh của chúng ta mà uống thì chắc chắn chúng
ta sẽ lành bệnh.
--o0o--
|
|