-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Năm
-
Lịch Sử Truyền
Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh
- --- o0o ---
- Bài Thứ 9
- Vũ Trụ Quan
Phật Giáo
-
A.- Mở Ðề:
- Một câu nan
giải nhất của nhân loại:
- "Vũ trụ từ
đâu mà có"?
- Từ xưa đến
nay câu hỏi này đã làm cho bao nhiêu đầu óc phải vô cùng bối
rối, thắc mắc, và có khi đến cuồng loạn. Bao nhiêu mực đã chảy,
bao nhiêu giấy đã chất chồng, bao nhiêu bọt mép đã khô cạn để
thuyết minh về vấn đề trên. Nhưng cuối cùng nhân loại vẫn chưa
thấy được thỏa mãn.
- Về phía các
triết gia, người thì cho vũ trụ do nước tạo thành, người thì cho
do không khí, người cho do hơi nóng, người cho do tứ đại ...tạo
thành.
- Về phía các tôn giáo, thì hầu
hết đều tin vũ trụ do một Tạo vật chủ dựng nên. Tạo vật chủ ấy
tùy theo các tôn giáo mà có tên khác nhau: hoặc Brahma, hoặc
Ngọc Hoàng thượng đế, hoặc Chúa trời, hoặc Jéhovah ...vậy vấn đề
này, do Phật trả lời như thế nào?
-
B.-Chánh Ðề:
- I.- Ðặt Vấn
đề Tiên Quyết.
- Phật giáo,
khác với các tôn giáo khác, không tin có Tạo vật chủ. Ðối với
Phật giáo, thì vũ trụ vạn hữu sanh ra, không nhờ một đấng nào,
hay một phép nào ở ngoài nó cả, mà chỉ do tự kỷ nhân quả tiếp
nối mà thành. Cái quả bây giờ là do cá nhân ở trước, các cái
nhân ở trước là do cái quả ở trước nữa; cứ như thế đi ngược trở
lên mãi, nhân này quả nọ, không bao giờ cùng. Như thế, đối với
Phật giáo; vũ trụ là vô thỉ (không có cái ban đầu). Mà đã vô thỉ
thì làm sao có cái duyên nhân đầu tiên?
- Sở dĩ người
đời tin phải có một sự bắt đầu, là vì với sự nhận xét có giới
hạn của mình, thấy vật gì cũng có cái bắt đầu cả. Thí dụ: cái
bàn, trước khi chưa có thợ mộc đóng thì nó không có; hay con gà,
sanh ra là do mẹ nó...tương đối mà nói, thì cái bàn hay con gà
có một sự sanh thành; nhưng nếu chúng ta đừng cắt xén thời gian
và không gian ra từng khoảng một như thế, thì chúng ta thấy rằng
trước cái bàn không phải là không có gì hết mà phải có gỗ, trước
gỗ là cây, trước cây là hạt...Con gà cũng như thế, trước con gà,
có con gà mẹ; trước con gà mẹ là mẹ, thì nó là con, do một con
gà mẹ khác sinh ra...
- Nguyên nhân
thứ hai làm cho người đời tin có một sự bắt đầu của vũ trụ vạn
hữu là ý niệm sai lầm về quan niệm "có và không ".với con mắt
trần nông cạn và hẹp hòi, khi chúng ta thấy một khoảng trồng thì
gọi là không; khi thấy một vật có màu sắc; hình dáng, trọng
lượng...thì gọi là có. Và cũng do sự quan sát hẹp hòi, nông cạn,
chúng ta thường có quan niệm rằng: "cái không" có trước "cái
có". Thí dụ: một khoảng đất kia, thường ngày chúng ta đi ngang
qua nó, nhận thấy trên ấy không có nhà cửa gì cả, ta gọi là đất
trống. Bặt đi một dạo đọ 6 tháng, ta không đi ngang qua dó nữa.
Bbây giờ có việc đi qua đó lại, ta thấy một tòa nhà đồ sộ cất
lên, ta tự bảo khoảng đất ấy hết trống rồi. Trước là không có
bây giờ là có. Ta phóng đại ý nghĩ ấy ra và cho rằng: "cái
không" có trước "cái có", hay "cái có" bao giờ cũng đến sau "cái
không". Và chúng ta dẫn ra suy luận ấy đi xa hơn để kết luận
rằng "cái không": mà thành cái có được, tất nhiên phải có một
cái khác tạo ra.
- Nhưng chúng ta đã suy luận sai,
và cái sai lầm ấy bắt đầu từ quan niệm sai lầm ấy về "có" và
"không".
- Trước tiên,
chúng ta quên rằng: khoảng đất kia không phải là trống không,
hoàn toàn không có gì cả, mà trống ở đây có nghĩa là không có
nhà. Và cái "có" sau này là có nhà, chứ không phải là hoàn toàn
có, vì một ngày kia nó cũng sẽ tan rã, và trở thành không.
- Cái "có" và
"không" ở đây là " có", "không" tương đối. "Có" là một cái gì,
"không" cũng là một cái gì. Còn nói một cách tuyệt đối, thì
trong vũ trụ này chưa bao giờ có một cái không hoàn toàn không
cả. Cũng như cái có mà ta thường thấy chung quanh ta cũng không
phải hoàn toàn, vĩnh viễn có. "Có, không" đều tương đối, nghĩa
là dựa vào nhau mà thành. Hoặc trong một chỗ này có thì chỗ khác
không, hoặc đắp đổi nhau trong thời gian có trước rồi không sau,
hay không trước rồi có sau. Khi ấy lấy riêng ra từng pháp mà
xét, thì thấy tuần tự có thành, trụ, hoại, không, nhưng xét toàn
thể thì phút giây này cũng đồng thởi có thành, có trụ, có hoại,
có không cả.
- Như thế, để
kết luận: không phải cải không xuất hiện trước là có."Không và
có" đều có một lần. Và vì thế, cho nên không thể có nguyên nhân
đầu tiên của cái có.
- Trong hiện tượng giới ta thấy có
sanh diệt, cóthể có, chúng ta cho là vô thường. Nhưng nếu xét
toàn thể vũ trụ, đứng về thật tại giới, thì chẳng có sanh diệt
mà vạn hữu là thường trụ.
- Như trên đã
nói, không có nguyên nhân đầu tiên. Và do đó, ta sẽ đặt sai vấn
đề, nếu ta hỏi: "nguyên nhân đầu tiên là gì"? và ta lại càng đi
xa hơn nữa trong sự sai lầm, khi hỏi: "Ai sáng tạo ra vũ trụ vạn
hữu"?.
- Phải đặt câu
hỏi này mới đúng: " Thật thể của cái có và cái không tương đối
(tức là vũ trụ vạn hữu) là như thế nào? hay thật tại của vũ trụ
như thế nào?".
- Ðó là câu hỏi
thứ nhất, nhắm mục đích tìm hiểu thật thể, thật tánh, thật
tướng, hay nói theo danh từ triết học, nhắm mục đích tìm hiểu
thật tại của vũ trụ vạn hữu.
- Câu hỏi thứ
hai là: "Phát nguyện từ thật tại, vũ trụ vạn hữu đã hình thành
và biến chuyển bởi nguyên nhân gì, và như thế nào?".
- Ðây là hai
câu hỏi chính, sau đó, chúng ta có thể thêm vào những câu hỏi
phụ như: "Vũ trụ rộng hay hẹp, có cùng hay không cùng?"...
- Trả lời câu
hỏi thứ nhất đạo Phật có Thật tướng luận; trả lời câu hỏi thứ
hai; đạo Phật có Duyên khởi luận; trả lời câu hỏi thứ ba: Phật
dạy: Vũ trụ hay thế giới là vô lượng vô biên vô cùng vô tận.
- Dưới đây,
chúng ta lần lượt trình bày những vấn đề trên.
- II.- Thật
Tướng Luận
- Thật tướng
luận là lý thuyết giải bàyvê thật thểcủa vũ trụ. Thật thể hay
thật tướng của vũ trụ, đạo Phật thường gọi là chơn như. Chơn như
nghĩa là chơn thật, không giả dối. Như là luôn luôn như thế,
không biến đổi, không sanh diệt, không còn mất, vô thỉ vô chung.
Vậy chơn như là một thật thể không biến đổi, không sanh diệt,
không còn mất, vô thỉ vô chung, sáng suốt, có đủ tất cả những
diệu dụng đức tánh.
- Ðể chỉ chơn
như nhiều khi Phật giáo, tùy theo mỗi trường hợp, cũng gọi bằng
những danh từ như: Chơn tâm, Viên giác, Thắng nghĩa, Phật tánh,
Giác tánh, Pháp tánh, Như như, Nhứt như...
- Thật ra thì
khó mà kể cho hết những danh từ chỉ cho Chơn như. Nhưng dù có kể
hết, thì cũng chỉ là kể danh từ, chứ không thể nhận thấy được
Chơn như, chỉ có những vị giác ngộ mới trực nhận, mới thể nhập,
hay thể chứng mà thôi.
- Ngôn ngữ, văn
tự chỉ có thể diễn tả được hiện tượng giới; còn khi muốn trình
bày về thực tại, thì trở thành bất lực. Và càng bám vào, càng y
như cái nhất thiết vào văn tự, ngôn ngữ lại càng đi xa thật thể,
chân như. Một triết gia Pháp, ông Bergson đã nói rất đúng rằng:
ngôn ngữ, danh tựđã cắt xén Sự Sống (thật tại) ra thành manh
mún. Thật thế, mỗi tên gọi, mỗi chữ đều có một phạm vi, một nội
dung nhất định của nó. Dòng một cái có hạn lượng để đo lường, dò
xét một cái không hạn lượng, vượt ra ngoài không gian và thời
gian, thì chắc chắn là phải sai lầm.
- Cho nên thái
độ đúng đắn nhất, để trực nhận thật thể chân như là im lặng, lìa
xa văn tự, ngôn ngữ. Ðó là thái độ mà đức Phật đã áp dụng lần
đầu tiên sau khi chứng đạo dưới cây Bồ đề.
- Nhưng nếu
không nói gì cả thì làm sau cứu độ được chúng sinh, làm sao đưa
nhân loại đến bờ giác. Cuối cùng đức Phật phải nói. Nhưng khi
nói đến cái khó nói nhất là "Thật tại" hay "Chơn như", thì đức
Phật không thể dùng một lối như thông thường được. Do đó, mà
chúng ta thấy trong kinh điển Phật giáo, có những cách nói mới
nghe thì rất vô lý, gàn dở như: cũng có, cũng không, không phải
không, không phải có, không phải đồng, không phải khác, cũng
đồng cũng khác, không phải một,không phải nhiều, không phải
nhớp, không phải sạch, vân vân và vân vân...
- Nhưng, mặc dù
đã nói như thế rồi, đức Phật vẫn sợ người đời chấp vào những câu
nói ấy mà cho là thật, nên Ngài lại rào đón thêm nữa: "Chân lý
như mặt trăng, giáo lý ta dạy như ngón tay để chỉ mặt trăng cho
các người thấy. Ðừng nhận lầm ngón tay ta là mặt trăng" . Hay:
"Những điều ta biết như lá trong rừng, và cái ta nói như nắm lá
trong tay này". Hay: "Y theo kinh điển giải nghĩa thì oan cho
tam thế chư Phật, nhưng lìa kinh ra một chữ thì lại đồng với ma
thuyết ". Hay: "Suốt đời, Như lai chưa nói một câu nào".
- Tóm lại, mục
đích của Thật tướng luận là muốn cho chúng ta nhận chân rằng:
Thật tại, hay Chơn như không thể dùng ngôn ngữ văn tự mà thấy
được; trái lại, phảờiiii bỏ tất cả danh tướng mà trực nhận.
Nhưng để có một ý niệmthô thiển về Chân như, hãy tự bảo rằng:
"Chân như là cái gì trái hẳn với hiện tượng giới". Hay: "Hiện
tượng giới là mặt trái của Chơn như".
- Nhưng, khi
nói đến hai chữ "mặt trái" đừng liên tưởng rằng có một "bề mặt"
như bao nhiêu bề mặt ta thường thấy trong hiện tượng giới.
- III.- Duyên
Khởi Luận
- Duyên khởi
luận tức là những lý thuyết nói về nguyên nhân hay lý do sanh
khởi của hiện tượng giới.
- Duyên khởi
luận trong Phật giáoco nhiều thuyết; những thuyết này không trái
ngược nhau, mà chỉ khác nhau về phương diện sâu cạn, rốt ráo hay
chưa mà thôi. Vậy chúng ta hãy tuần tự đi từ cạn đến sâu:
- 1.- Nghiệp
cảm duyên khởi: Nghiệp cảm duyên khới luận là chủ trương của
Tiểu-thừa nguyên thỉ Phật giáo. Lý thuyết này rút ra từ trong
"Tứ diệu đế" và "Thập nhị nhân duyên". Như chúng ta đã học về
"Tứ diệu đế", Phật dạy nguyên nhân của đau khổ, của sanh tử luân
hồi là do "hoặc nghiệp". Hoặc tức là mê vọng; có hành động sai
lầm, vì hành động sai lầm nên chịu quả đau khổ...và cái vòng
nhân quả luân hồi cứ tiếp tục mãi, tạo ra có chánh báo là thân
ta và y báo tức là sơn hà đại địa. Sơn hà đại địa sở dĩ có là có
một cách tương đối với thân ta mà thôi. Khi nghiệp nhân biến đổi
thì nghiệp quả cũng biến đổi và do đó chánh báo và y báo cũng
biến đỗi theo. Người khi tạo những nghiệp nhân làm người thì đời
sau đầu thai lại, chánh báo vẫn là người và y báo vẫn là sơn hà,
đại địa như người đã nhận thấy. Nhưng nếu tạo những nghiệp nhân
dữ, thì chánh báo ở đời sau sẽ là loài súc sinh hay ngạ quỷ, và
y báo, tức là cảnh giới ở chung quanh cũng không còn giống như
cảnh giới của người nữa, nghĩa là vũ trụ, vạn hữu sẽ biến đổi
theo tầm mắt và sự hiểu biết của các loài ấy. Do đó mà gọi là
"nghiệp cảm", nghĩa là do nghiệp như thế nào, thí cảm thọ cái
thân và cảnh như thế ấy. Nói một cách tổng quát, do nghiệp lực
mà có thân (chánh báo) và thế giới (y báo). Chánh báo và y báo
có thể thế này hay thế khác, tốt hay xấu, là do nghiệp lành hay
dữ. Nhưng dù sao, hễ còn nghiệp là còn có hiên tượng giới. Dứt
trừ được nghiệp là trở về với Chân như, là nhập Niết bàn.
- 2.- A lại da
duyên khởi: Thuyết này thuộc về Ðại Thừa Thỉ giáo, đi sâu hơn
thuyết trên một tầng. Trong thuyết nghiệp cảm duyên khởi, chỉ
nói có sáu thức là nhãn, nhỉ, tỹ, thiệt, thân, ý. Sau khi chết,
ngũ uẩn tan rã, nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt
cái gì? Lục thức hay ý thức sanh diệt vô thường, biến chuyển
luôn luôn, thì nghiệp dù còn, mà lấy gì giữ gìn cái nghiệp quả,
khiến cho nó triển chuyển không dứt?
- Ðại Thừa thỉ giáo, bổ khuyết cho
thuyết trên, tìm thấy trên hai thức nừala Ðệ thất thức hay Mạt
na thức, và Ðệ bát thức hay A lại da thức.
- Mạt na nghĩa
là cầm bắt lấy chỗ thấy biết, nghĩa là tự nhận có một cái ngã,
và gìn giữ cái ngã ấy. Nhưng làm sau giữ được cái giả ngã ấy,
trong lúc ngũ uẩn, lục thức đều sanh diệt vô thường hợp ly mãi
mãi? Mậy thì dưới Mạt na thức, tất phải có một thức khác thường
tại, trùm chứa tất cả chủng tử của các pháp mới được.
- Ðó chính là
thức thứ Tám, hay A lại da thức, hay tạng thức (thức trùm chứa).
Thức này không phải vô thường như ngũ uẩn, mà là hằng khởi,
thường tại. Nó có hai công năng: một là thâu nhiếp tất cả các
pháp, hai là sinh khới tất cả các pháp. Khi chúng ta gây thiện
nghiệp hay ác nghiệp, thì những chủng tử được dồn chứa vào Tạng
thức, đến khi đủ nhân duyên thì những chủng tử ấy phát ra hiện
hành.
- Bởi A-lại-da
thức bao gồm hết thảy chủng tử của chư pháp, nên nó phát hiện
được hết năng lực vô hạn của vạn tường. Khi căn thân của ta vừa
phát sanhlà nó bao gồm hàm khách quan giới (tức là vạn vật).
Khách quan giới thiên sai vạn biệt là do trong chủ quan giới có
ý thức tác động mà a.
- Tóm lại, A
lại da thức là cái căn bản của hiện tượng giới. Từ vô thỉ, A lại
da thức đã bao gồm chủng tử. Hiện tượng giới do chủng tử này mà
phát hiện. Hiện tượng đã phát hiện thì kích thích phát sinh
duyên mới, dẫn đến chỗ tác dụng. Như thế, chủng tửcùng hiện
tượng, nhân quả nhau mãi, mà làm cho hiển hiện vạn hữu, và làm
nền móng qua bao kiếp nhân quả luân hồi.
- Nhưng, nếu A
lại da thức là nền móng của nhân quả luân hồi, thì A lại da thức
cũng là căn nguyên của giải thoát, vì trong A lại da thức có đủ
cả chủng tử hữu lậu và chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu là
những hạt giống phát sanh ra thiên sai vạn biệt, tức là hiện
tượng giới; còn chủng tử vô lậu, đối với ngoại giới biết có hư
vọng, cho nên không đủ cho tâm vọng đọng, do đó có thể đưa đến
sự giải thoát.
- 3.- Chân như
duyên khởi: Thuyết này là của Ðại Thừa Chung giáo. Theo Ðại Thừa
Chung giáo thì chân như tùy duyên sanh ra muôn pháp; hay nhất
thiết duy tâm tạo. Tâm bao gồm tất cả và có hai phương diện: về
phương diện động, thì tâm là cái cửacủa Chân như.
- Nhưng vì sao,
cũng một tâm mà có hai phương diện tương phản như thế? Aáy bởi
vô minh. Chân như vốn là thường trụ, bất động, nhưng bởi vô minh
làm duyên, khiến cho nó vọng động, làm ra thiên sai vạn biệt. Vô
minh không phải là vật có thật, nó dựa vào tâm thể mà có. Nó là
một vọng niệm, cho nen trong kinh thường nói: "hốt nhiên niệm
khởi, gọi là vô minh". Do cái vọng niệm ấy mà thấy có chủ quan,
có khách quan, có tự ngã, có phi ngã, có vũ trụ, vạn hữu.
- Nhưng vạn hữu
không phải ngoài tâm mà tồn tại được. Chân như tuy bị vô minh
kích thích mà diêu động, nhưng trong động có tịnh, trong tịnh có
động, cũng như nước và sóng ở trong biển: Ðứng về phương diện
nước mà nhìn , thì tất cả sóng đều là nước: đứng về phương diện
sóng mà nhìn,thì tất cả nước đều là sóng. Tâm dụ cho biển, Chân
như dụ cho nước, và vạn tượng giới dụ cho sóng. Chúng sanh, vì
vô minh che lấp nên chỉ thấy có vạn tượng giới; Bồ tát và Phật
vì đã trừ vô minh nên thấy vạn tượng là chân như: Tịnh là chân
như, Ðộng là vạn tượng. Ðộng, Tịnh không rời nhau, không cùng là
một, nhưng cũng không phải là khác nhau. Ðó là hai phương diên
jcủa Tâm. Ðể chỉ hai phương diện này, trong kinh thường có câu:
"Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên". Tùy duyên tịnh, sanh
ra tứ thánh, tùy duyên nhiễm sanh ra lục phàm. Từ tịnh trở thành
động là đi vào cửa của sanh diệt, và đó cũng là nguyên nhân phát
triển của vũ trụ vạn hữu. Từ động trở về tịnh là đi ra cửa chân
như, và đó cũng là nguyên nhân của giải thoát.
- 4.- Lục đại
duyên khởi: Lục đại duyên khởi là chủ trương của Mật tôn hay
Chơn ngôn tôn. Lục đại là: địa, thủy, hoả, phong, không (tức là
không gian) và thức. Năm đại trước thuộc về sắc pháp (tức là
vật), dại thứ sáu thuộc về tâm pháp (tức là tâm). Sáu đại này
mỗi mỗi đều dung thông ngăn ngại nhau, và tùy duyên sanh khới ra
vũ trụ vạn hữu.
- Chia ra vật và tâm là trí thức
của ta phân biệt ra như thế, chứ bản thể của thật tại vẫn là
một, vẫn không thể phân chia được. Vật là hình tướng, tâm là lực
hoạt động. Lực không lìa được hình. Lìa hình thì lực chẳng tồn
tại được. Còn hình nếu không nhờ lực thì không phát hiện được.
Vật và tâm là hai phương diện ủa bản thể nhứt như.
- Ta có dây là
do Lục đại kết hợp mà ra. Lục đại ly tán thì ta không còn. Còn
mất chẳng qua là một cuộc đổi thay của Lục đại mà thôi. Lục đại
kết hợp và ly tàn làm thành vũ trụ hoạt động. Ðứng về phương
diện tổng quát mà nhìn, thì vũ trụ là một sự hoạt động không
ngừng của Lục đại.
- Chân như là
thực thể của lục đại, mà lý tánh của ta trừu tượng được. Lìa
hiện tượng không có thật thể được, lìa vật không có lý được.
- Thánh, phàm
khác nhau, thiện, ác khác nhau ở chỗ biết hay không biết phân
biệt chân như với hiện tượng.
- 5.- Pháp-giới
duyên khởi: Pháp giới duyên khởi là chủ trương của Ðại -thừa
viên-giáo (Hoa-nghiêm tôn). Thuyết này có rằng pháp-giới (tức là
vũ trụ vạn-hữu) là một duyên khởi rất lớn nghĩa là các pháp làm
nhân, làm duyên cho nhau, nương tựa, tương phản, dung thông nhau
mà thành lập.
- Cái năng lực
chủ động của pháp-giới duyên khởi không phải thuộc về "nghiệp
lực" của chúng sanh, không phải ''tạng thức'' sai biệt sanh diệt
của A-lại-da, cũng không phải cái "lý tánh bình đẳng " bất sanh
bất diệt của chân như, mà chính là do vạn pháp, pháp này dung
thông với pháp kia, pháp kia dung thông với pháp này, cùng nhau
làm duyên khởi, mỗi lớp mỗi lớp không cùng tột, cho nên gọi là
"vô tận duyên khởi" hay "trùng trùng duyên khởi".
- Như thế, vũ
trụ vạn hữu là một cuộc đại hoạt động của hiện tượng, từ vô thỉ
đến vô chung, nối tiếp và lan tràn vô cùng tận, như những đợt
sóng. Vì có hoạt động nên mới có sanh diệt chuyển biến, tức là
không có vạn tượng, không có vũ trụ.
- Sở dĩ các
pháp làm nhân, làm duyên hòa hợp, dung thông nhau được là do
mười đặc tánh kỳ diệu mà Ðại -thừa viên giáo gọi là "mười món
hiền môn ". lại do mười môn "huyền môn " này, mà trong
pháp-giới, Sự, (chỉ cho sự tướng sai biệt), Lý (chỉ cho lý tánh
bình đẳng) Lý-sự và Sự-Sự được dung thông vô ngại (xem lại bốn
"pháp-giới " và mười "huyền môn" trong bài nói về Hoa Nghiên
tôn).
- Trong duyên
khởi luận của Phật giáo, chúng ta thấy có năm thuyết. Ðó là:
Nghiệp-cảm duyên khởi, A-lại-da duyên khởi, chân như duyên khởi,
Lục-đại duyên khởi và pháp giới duyên khởi. Có người ngạc nhiên
tự hỏi: tại sao cũng là Phật dạy cả, mà lại bất nhất như thế?
Khi thì Phật dạy chúng sanh và thế giới do Nghiệp-cảm mà phát
sanh, khi thì dạy do A-lại-da thức, khi thì do chơn-như, khi thì
do Lục-đại, khi thì Trùng Trùng duyên khởi, vậy thì viết theo lý
thuyết nào đúng?
- -Sự sai khác
đó là vì căn cơ của chúng sanh không đồng, phải dắt dẫn dần dần
từ thấp đến cao, chúng sanh mới hiểu được.
- Ðối với hàng
Tiểu-thừa thì Phật nói: "nghiệp", vì hàng Tiểu-thừa chưa nhận
được tạng thức, chúng tử....lần lên đến Ðại -thừa Thỉ-giáo, các
bậc này vì mới hướng về Ðại -thừa, chưa rõ chơn như tùy duyên
sanh ra các pháp, nên Phật chỉ nói về "A-lại-da thức". Ðến Ðại
-thừa Ðốn giáo vì hạnh này chưa nhận được lý "Trùng Trùng duyên
khởi", nên Phật nói "Chơn như tùy duyên sanh ra các pháp ". Ðến
Ðại -thừa Viên giáo, thì các bậc Bồ Tát căn cơ đã thuần thục,
nên Phật mới nói đến "Lục đại " và "Trùng Trùng duyên khởi".
- Sự sai khác ở
đây, chỉ là sai khác về tầng bậc, chứ không phải sai khác về nội
dung; sai khác về khía cạnh đứng nhìn và tầm mắt rộng hẹp, chứ
không phải sai khác về bản chất.
- Nhìn một cách
nông cạn và nhỏ hẹp thì chỉ thấy có nghiệp lực; nhưng nhìn sâu
hơn và rộng hơn tí nữa thì thấy: dưới cái nghiệp lực, là
A-lại-da thức. Nhìn sâu và rộng hơn nữa thì thấy dưới A-lại-da
thức là Chân-như.
- Vì Chân-như
tùy duyên mà sanh ra hiện tượng. Trước thì bảo rằng có A-lại-da
thức mới phát khởi ra hiện tượng. Ðây thì tự Chơn-như tùy duyên
mà hiện tượng phát khởi.
- Khi đã khám
phá ra Chân-như rồi, nếu nghiên cứu kỹ lưỡng tường tận hơn nữa,
thì nhận thấy Chân như không phải là một cái gì xa lạ, mà chính
là chân-như nằm ngay nơi vạn tượng. Chân-nhu là khía cạnh Tịnh,
mà vạn tượng là khía cạnh Ðộng của một cái gọi là "Nhát như" hay
"Tâm". Nhưng nếu đi sâu hơn nữa, thì Tịnh vàÐộng không phải là
hai khía cạnh riêng rẽ, mà chính ngay trong Ðộng có Tịnh, trong
Tịnh có Ðộng. Ðộng là "sự" (vạn tượng), Tịnh là "lý" mà ta trực
nhận được qua "Sự" qua cái "Trùng Trùng duyên khởi" của vạn hữu.
- Ðến "Chân như
duyên khởi" luận là tâ đã tìm đến cái căn nguyên của vũ trụ vạn
hữu. Nhưng nếu còn phải nói đến "Lục đại duyên khởi" và
"Pháp-giới duyên khởi" là muốn tìm hiểu cái hành tướng, cái then
máy của vạn tượng để trực nhận chơn như. "Lục đại duyên khởi''
luận là dựa trên kinh nghiệm mà suy diễn chân như . hai luận này
không khác nhau về nội dung hay từnh bực, mà chỉ khác nhau về
luận pháp mà thôi. Một bên đi từ Sự đến Lý, một bên đi từ lý đến
sự.
- Nếu có thể
dùng một ví dụ để chứng minh một cách cụ thể những lý lẽ vừa nói
đến trên đây, chúng tôi xin mạn phép dùng một thí dụ thô sơ sau
đây, nhưng xin thưa trước rằng thí dụ không phải là lý lẽ, mà
chỉ nói lên một khía cạnh nào của lý lẽ mà thôi.
- Chúng ta đi vào xem một rạo hát
kỳ lạ, khi đèn đã tắt và không biết trên sân khấu người ta đã
bắt đầu trình diễn từ lúc nào. Rạp hát tối mò, trên sân khấu
cũng không sáng mấy, mà chúng ta đứng ở đàng sau xa. Trước sân
khấu, nhiều lớp màn mỏng buông xuống (dụ cho vô minh). Khi chúng
ta vào thì một tấm màn từ từ kéo lên. Chúng ta thấy lờ mờ những
cánh tay, những cái chân và cái miệng của một con nộm nhân đang
múa máy, ca hát trên sân khấu. Chúng ta đoán chắc ở phái trong,
ở đàng sau con nộm nhân ấy có một động lực (dụ cho nghiệp cảm
duyên khởi) làm cho can nộm nhân kia múa máy, ca hát.
- Một cái màn
nữa vén lên và ta tiến tới thêm một mức nữa để nhìn. Chúng ta
thấy bóng dáng một người đang đứng sau con nộm nhân kia (dụ cho
A-lại-da duyên khởi).
- Một cái màn nữa vén lên và ta
tiến tới gần sân khấu hơn nữa. Ta thấy rõ ràng hơn. Thì ra con
người và nộm nhân là một: con người mang lớp nộm nhân và đã múa
máy ca hát (dụ cho Chơn như duyên khởi).
- Một bức màn
nữa được kéo lên, và ta đi sát đến sân khấu, ta nhìn thấu suốt
đến hậu trường. Ta thấy rõ mỗi vật, mỗi người, từng chi tiết một
trên sân khấu, sự liên lạc giữa vật này với vật kia, giữa người
làm trò, người kéo màn, người đạo diễn v.v....(dụ cho Lục đại
duyên khởi).
- Sau khi đã
quan sát kỹ lưỡng sân khấu, ta xây mặt lại nhìn khán giả, và ta
đã khám phá một bí mật vô cùng quan trọng: sự liên lạc mật thiết
giữa người đóng trò và khán giả. Người đóng trò vui thì khán giả
vui, người đóng trò than thở thì khán giả buồn. Ngược lại, khán
giả cũng ảnh hưởng rất nhiều đến người đóng trò: người đóng trò
tuân theo ý muốn của khán giả, khi đóng hay thì khán giả vổ tay
hoan hô và bắt buộc diễn viên phải đóng lại; khi diễn dở, thì
khán giả la ó, phản đối ...Diễn viên và khán giả, hậu trường và
tiền trường, tất cả một rạp hát đều liên lạc mật thiết với nhau,
làm nhân duyên cho nhau, ảnh hưởng mật thiết lẫn nhau (dụ cho
Pháp-giới duyên khởi).
- Ðể kết luận
về chương Duyên Khởi luận này, chúng ta có thể tom tắt như sau:
- -Nghiệp cảm
Duyên Khởi, muốn nói nghiệp lực và nguyên nhân của hiện tượng
giới. Nghiệp bỡi mê hoặc mà có.
- -A-lại-da
Duyên Khởi, muốn nói: căn nguyên của hiện tượng giới là a-lại-da
thức. A-lại-da bao trùm tất cả chúng tử hữu lậu mà phát sanh vũ
trụ vạn hữu. Muốn giải thoát khỏi hiện tượng giới thì phải hoanh
tập và làm phát hiện chủng tử vô lậu.
- -Chân như
Duyên Khởi, là muốn nói: chân như vì duyên với vô minh mà diêu
động và làm phát sanh ra vũ trụ vạn hữu.
- - Lục đại
Duyên Khởi và Pháp-giới Duyên Khởi là hai thuyết mường tượng
giống nhau, đều thuyết minh hai phương diện hiện tượng và thật
thể của nhất-như. Bất triãưu bất giác là cái nguyên nhân của
hiện tượng. Tri giác được thì giải thoát được.
- Những thuyết
trên này đều có những điễm giống nhau: mỗi thuyết đều cong nhận
có chơn như là bản thể của vũ trụ vạn hữu. Cái nguyên nhân làm
sanh khởi vũ trụ vạn hữu là mê vọng hay vô minh. Muốn giải thoát
thì phải trừ cho được mê vọng.
- IV.- Không
Gian Và Thời Gian Của Pháp Giới
- Chúng ta đã nói về nguyên nhân
sanh khởi của vũ trụ, vạn hữu. Ðến đây chúng ta hãy nghe Phật
dạy về sự rộng lớn vô biên và sự tồn tại vô cùng của vũ trụ, hay
pháp giới.
- 1.- Không
gian: Theo lời dạy của các kinh, thì vũ trụ hay nói theo danh từ
của Phật giáo: pháp-giới rộng lớn vô cùng vô tận. Thế-giới mà
chúng ta ở đây không phải là một, mà nhiều như cát sông Hằng. Cứ
một ngàn thế giới nhỏ hiệp thành một Tiểu-thiên thế giới; hiệp
một ngàn Tiểu-thiên thế giới thành một Trung thiên thế giới;
hiệp một ngàn Trung thiên thế giới thành một Ðại -thiên thế
giới, hay "tam thiên đại thiên thế giới". Mỗi tam thiên đại
thiên thế giới gồm có một ngàn triệu thế giới của chúng nhỏ như
thế giới ta. Hơn nữa, vũ trụ không phải chỉ có một Ðại -thiên
tam thiên đại thiên thế giới, mà gồm có vô số Ðại -thiên tam
thiên đại thiên thế giới.
- 2.- Thế gian:
Phật đã dạy: "các pháp hữu vi, bất cứ một pháp nào cũng đều bị
bốn thời kỳ chi phối, tức là thành, trụ, hoại, không". Thế giới
cũng vậy, không thể thoát ra ngoài cái luật: thành, trụ, hoại,
không ấy được. Nhưng biết vì trong pháp giới có không biết bao
nhiêu thế giới, nên sự thành, trụ của một thế giới này là sự
hoại. Không của một thế giới khác, cứ như thế mà xoay vòng không
dứt.
- Nếu lấy riêng
ra một thế giới để đo lường thời gian, thì chúng ta sẽ có một
con số như sau: Mỗi một thế giới đều có bốn thời kỳ hay bốn
trung kiếp; mỗi trung kiếp có hai mươi tiểu-kiếp, mỗi tiểu kiếp
có mười sáu triệu (16.000.000) năm. Như thế một thế giới từ khi
thành lập, đến khi tiêu diệt, phải trải qua: 4x20x16.000.000 =
1.280.000.000. Nhưng chúng ta đã biết thế giới nhiều như cát
sông Hằng, thì sự tồn tại của Pháp-giới lâu dài không thể suy
tính, nghĩ bàn được.
- Ơủ đây, chúng
ta không có ý nêu lên một con số như trên đễ đo lường đích xác
sự rộng lớn và sự dài lâu của Pháp-giới là bao nhiêu. Chúng ta
chỉ có mục đích là nêu lên những con số để có ý niệm về "sự vô
cùng cô tận, vô thỉ, vô chung" của Pháp-giới mà thôi. Yù-niệm
ấy, ngày nay cũng được khoa học tán đồng.
-
C.- Kết Luận:
- Pháp-giới tuy
rộng lớn vô cùng vô tận, nhưng như chúng ta đã thấy trong đoạn
nói về "Duyên khởi luận", pháp-giới và nhân sanh ảnh hưởng trực
tiếp lãnh nhau. Hơn nữa, như trong nghiệp cảm duyên khởi đã nói:
vũ trụ do nghiệp lực của chúng sanh chiêu cảm kết thành; nghiệp
lành chiêu cảm thì thân căn được viên mãn, mà vũ trụ cũng tốt
đẹp; còn nghiệp dữ chiêu cảm thì thân căn xấu xa mà vũ trụ ô uế,
lắm tai họa.
- Còn theo như A-lại-da duyên khởi
đã nói: do chúng tử trong A-lại-da thức huân tập và hiện hành mà
chúng ta có căn thân về thế giới như thế này hay thé khác. Nếu
chúng ta huân tập chủng tử hữu lậu thì chúng ta quay cuồng mãi
trong cảnh giới đau khổ, ô trược; nếu chúng ta huân tập chủng tử
vô lậu, thì chúng ta sẽ thoát ra khỏi cảnh giới khổ đau này.
- Theo trình
độ, căn cơ của chúng ta hiện tại thì hai thuyết trên này thích
hợp với chúng ta hơn; còn ba thuyết dưới thì vì cao quá, khó mà
thực hành cho được.
- Vậy chúng ta hãy nghe lời của
Phật dạy trong hai thuyết "Nghiệp cảm duyên khởi" và "A-lại-da
duyên khởi" mà cải tạo vũ trụ và nhân sinh.
- Trong hai
pháp này, về nghiệp thì chúng ta nên dứt trừ "sự hoặc" và "lý
hoặc" cải tạo các nghiệp dử đổi lại các việc lành, tức là ta
chiêu cảm lấy quả báo đời sau được thân thể và vũ trụ rất trang
nghiêm tốt đẹp, không còn bị khổ quả như hiện nay nữa.
- Về chủng tử,
thì hằng ngày chúng ta nên cẩn thận trong sự huân tập. Bởi vì
công việc hằng ngày đều ghi vào tạng thức chúng ta, không khi
nào mất được. Ta phải huân tập những điều chân lẽ chính của
thánh hiền. Còn về phần tu tập, chúng ta phải quán tất cả các
pháp đều do Duy thức tạo, và phải phá trừ ngã chấp và pháp chấp.
- Làm được như
thế, chắc chắn chúng ta sẽ cải tạo thân thể và vũ trụ xấu xa này
trở thành trang nghiêm tôt đẹp
--o0o--
|
|