-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Năm
-
Lịch Sử Truyền
Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh
- --- o0o ---
- Bài Thứ 10
- Nhân Sinh
Quan Phật Giáo
-
A.- Mở Ðề:
- Ðã là người
không ai không băn khoăn tự hỏi mình do đâu mà có? Sự hiện diện
của mình trên cõi đời này như thế nào? Hoàn cảnh của mình sống
như thế nào? v.v...Thật là bao nhiêu vấn đề, bao nhiêu câu hỏi
làm người ta băn khoăn, thắc mắc, ăn không yên, ngũ không yên.
- Ðể giải quyết
các vấn đề trên, các triết học và tôn giáo đều có đưa ra những
lời giải đáp hay biện minh về "vấn đề sống" ấy, gọi là nhân sinh
quan.
- Là một tôn
giáo, có một triết học rất cao, đạo Phật tất nhiên cũng có dành
một phần lớn để nói về nhân sinh quan.
- Nhân sinh
quan ấy như thế nào? Ðó là một vấn đề mà mỗi Phật tử chúng ta
không thể không biết đến được. Sự hiểu biết này có thể giúp
chúng ta nhận chân được những ưu điểm và khuyết điển của con
người và giúp chúng ta sắp đặt cuộc đời và sống một cuộc sống có
ý nghĩa và lợi lạc cho mình và cho xã hội.
-
B.- Chánh Ðề:
- I.- Nhân Sinh
Quan Do Ðâu Mà Có?
- Trước tiên,
vấn đề làm chúng ta thắc mắc nhiều nhất là:
- Con người do
đâu mà có?
- Ðể giải đáp
vấn đề này, đạo Phật có thuyết "mười hai nhân duyên".
- Trong mười
hai nhân duyên ấy, vô minh là căn bản. Vô minh là gì? Tức là đối
với sự lý, không rỏ biết được đúng như thật. Do đó mà sanh ra mê
lầm, thật cho là giả, giả cho là thật, điên đảo hư vọng chấp
ngã, chấp pháp, phân biệt mình, người; rồi theo cảnh thuận
nghịch mà theo cảnh phiền não, nên củng gọi là "hoặc". Từ mê
hoặc mà tạo tác ra các nghiệp, hoặc thiện hoặc ác. Sự tạo tác ấy
gọi là "Hành", chi thứ hai trong mười hai nhân duyên.
- Do nghiệp
lành dữ huân tập chưúa nhóm thành ra "nghiệp thức". Nghiệp thức
này theo chổ uân tập thuần thục rồi thác sanh vào thai mẹ, đó là
món "Thức", chi thứ ba trong mười hai nhân duyên.
- Trong thai
mẹ, gom tinh huyết làm nhục thể, tâm thức cùng nhục thể hào hiệp
gọi là "Danh sắc" đó là chi thứ tư rong mười hai nhân duyên,
(Danh: Tâm thức; Sắc: Nhục thể).
- Từ Danh sắc
lần lần tượng đủ sáu căn, gọi là "Lục nhập". Ðó là chi thứ năm
trong
- mười hai nhân duyên.
- Sau khi ra
khỏi thai, sáu căn xúc đối với sáu trần, biết nóng, lạnh, đau,
êm...nên gọi là "Xúc", chi thứ sáu trong mười hai nhân duyên.
- Do sự cảm xúc
ấy, mà tâm dần dần sanh niệm phân biệt, rồi có những giác thọ
vui, khổ ...Ðó là "Thọ", chi thứ bảy trong mười hai nhân duyên.
- Do sự cảm thọ
vui ,khổ, khởi niệm ưa ghét, chấp đắm ấy mà sanh ra có "Ái", ci
thứ tám trong mưởi hai nhân duyên
- Vì tham ái
nên tìm cầu nắm lấy cái hay cái tốt, cái ưa thích. Ðó là "Thủ"
chi thứ chín trong mười hai nhân duyên.
- Muốn cho thỏa
mãn những chổ nhiễm trước, ưa thích của "Ái" và"Thủ, nên phải
tạo nghiệp. Nghiệp này có thể chiêu cảm quả báo vị lai, nên gọi
là "Hữu" , chi thứ mười trong mươi hai nhân duyên.
- Ðã có "Hữu"
là cái mầm giống, thì thế nào cũng có "Sanh" là chi thứ mười một
trong mười hai nhân duyên.
- Ðã có "Sanh"
thì phải có "Lão và Tử" là chi thứ mười hai trong mười hai nhân
duyên.
- Trong mười
hai nhân duyên. "Vô minh" thuộc về "hoặc" và "Hành" thuộc
"nghiệp". Ðó là nhơn quá khứ mà có năm quả "Khổ" hiện tại là:
Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc và Thọ.
- Do quả "Khổ"
hiện tại nói trên mà khởi ra "Hoặc" là ái thủ và tạo "Nhgiệp" là
hữu, để làm nhơn cho quả "Khổ" sau là sanh và lão tử ở vị lai.
- Như thế , từ nhơn quá khứ, sang
quả hiện tại, làm lại nhơn cho quả tương lai, ba đời cứ nối tiếp
xoay vần mãi mãi khong dứt, như một bánh xe lăn tròn, lên xuống,
xuống lên không nghỉ.
- Cứ đó mà suy
ra thì biết rằng, người chẳng những sống một đời trong hiệh tại
này, mà trước kia, về quá khứ đã trải qua không biết bao nhiêu
đời sống rồi. Và sau này, trong vị lai, cũng sẽ còn vô lượng đời
sống nữa. Người hiện sống đây để rồi chết, mà cái chết lại là
cái nhơn làm thành đời sống vị lai.
- Như thế,
sống, chết nối tiếp theo nhau không bao giờ dứt, như những làn
sóng, cái này tan đi để hiệp lại cái khác, không bao giờ hết,
nếu còn gió. Con người, nếu gió vô minh còn thổi thì dòng sanh
mạng còn lưu chuyển, lăn trôi, chìm nổi mãi.
- II.- Thân
Người Như Thế Nào?
- Sau khi chúng
ta đã biết nguyên nhân gây tạo ra sự hiện diện của người trên
cõi thế này rồi, một câu hỏi khác hiện đến trong đầu chúng ta
là: Thân con người như thế nào? đẹp đẽ hay xấu xa, có thật hay
giả, đáng quý hay đáng khinh?
- Ðể giải đáp
vấn đề này, đạo Phật có nhiều thuyết, tuy theo Tiểu Thừa hay Ðại
Thừa, tôn phái này hay tôn phái khác. Những thuyết ấy, mặc dù
nhưng không trái chống nhau, mà chính là bổ khuyết cho nhau, làm
cho vấn đề này được trình bày trong nhiều khía cạnh, từ hựp đến
rộng, từ cạn đến sâu, từ ngoài đến trong, từ tướng đến thể, từ
biệt tướng đến tổng tướng...
- Dưới đây
chúng tôi xin tuần tự trình bày các quan niệm ấy từ Nhơn thừa
đến Thiên thừa, qua Nhị thừa rồi cuối cùng đến Ðại Thừa, để quý
độc giả có một quan niệm đầy đủ đến vấn đề này:
- 1.- Quan
niêĩm Nhơn thừa: Thân người hòa hợp, do tinh huyết cha mẹ cùng
thần thức, góp bốn chất: Cứng, ướt, nóng, động mà thành. Chủ
động trong ấy là thức(nghiệp thức). Bởi nghiệp thức người nhóm
các duyên hội họp làm thân người. Nghiệp thức ấy có ra do bởi sự
gây tạo vì đời trước huân tập nơi tự tâm kết thành công năng có
tánh cách người, có thể cảm đặng thân người. Như vậy là từ nơi
tự tâm tạo tác hạnh nghiệp, các hạnh nghiệp ấy trở lại huân tập
thành công nang nghiệp người nơi nơi tự tâm, cho đến khi công
năng nghiệp thức ấy thuần thục, gặp đủ các trợ duyên, chiêu cản
hiện ra có thân người. Vậy thân thể không phải tự nhiên không
nhân mà có, cũng không phải ai khác làm ra, mà chính do tự tâm
tạo, tự tâm biến hiện, nên có câu: "Tâm tạo nhứt thế" và câu
"Tam giới hữu tình, giai tuần nghiệp hữu". Thân thể theo nghiệp
nhơn mà có, nghiệp nhơn hữu hạn, nên thân thể có lúc rã rời.
Trong khi thân thể còn, từ nơi tự tâm tạo tác các hạnh nghiệp để
gây thành công năng chiêu cảm thân sau, và thân sau này sẽ thành
hiện tại; khi thân trứơc đã theo nghiệp báo mà tiêu diệt. Cho
nên Phật giáo đối với sự chết, chỉ là sự xoay biến của nghiệp
nơi tự tâm, để thay thân cũ, lấy thân mới.
- Trong khi mọi
người, vì sự hẻu biết cạn hẹp đã lầm tưởng thân thể thoạt nhiên
sanh, và sau khi chết hoàn toàn tiêu diệt.
- Chết để thay
đổi thân mới, sanh để thế thân cũ, xoay vần nơi vòng chết
vàsanh, sanh và chết, thay thân cũ lấy thân mới, lấy thân mới để
thế thân cũ, như người thay y phục.
- Vậy thân thể
của người hiện nay, chỉ là một thân trong vô lượng thân. Người
đã thay bỏ không biết bao nhiêu thân về trước, sau này người
cũng sẽ phải đổi thay không biết bao nhiêu thân nữa, nếu không
một niệm "hồi quan phản chiếu".
- Sự sanh hiện
tại, chỉ là một lần sanh trong vô lượng lần sanh; và sự chết
ngày nay cũng chỉ là một phen chết trong vô lượng lần chết.
- Phật giáo đối
với sự sanh, không tham câu, vì nó là vô thường không lâu không
bền; đối với sự chết, không sợ hãi, vì nó không phải mất hẳn đi,
mà chỉ là sự thay củ đổi mới. Không tham cầu, không hãi sợ, nên
Phật giáo đối với thân thể khác hẳn với thường tình trong đời.
- Người ta thấy
nơi người đã thật hiểu Phật giáo, khi chét như khi sống, lúc đau
như lúc mạnh vẫn an hòa bình tĩnh.
- Thân hiện có
đây, là cái quả của nghiệp thân đã tạo ra từ trước và thân sẽ có
sau này là do sự tạo nghiệp bây giờ, nên người trong Phật giáo
đương thọ lãnh báo thân hiện tai, dầu khổ hay vui đều nhận chịu
một cách vui vẽ và nhẫn nai, vì có kêu cầu chán nản thế nào
không thể làm gì được một khi đã kết quả, mà nhứt là chỉ lo lắng
trau dồi cá nhân, là đều có thể đổi xấu ra tốt, để hưởng lấy quả
báo tốt đẹp ở tương lai, tức là tu tập các pháp lành, cùng dẹp
rrừ tâm niệm hành vi bạo ác.
- Cõi người
thuộc về đường lành, mặc dầu chưa khỏi khổ, nhưng có thể tu tạo
nghiệp nhơn để hưởng lấy nhiều hạnh phúc ở thân người. Người ta
sẽ bảo, hoặc sẽ cảm thấy sự vui thú, sự hạnh phúc ở nơi người
xinh đẹp khỏe mạnh, đầy đủ tất cả nhu dụng, và sự khổ não, sự
tai hại ở người xấu xí, đau yếu, thiếu thốn các vận dụng.
- Trong hội nói
pháp ở Ta Kiệt La Long Cung, đức Phật đã chỉ cho đại chúng biết
sự sai khác nơi thân thể của mọi loại, như thiên thân thể tốt
đẹp uy nghiêm, hàng Bát bộ sức hùng mạnh mẽ, loài rồng cả thân
hình thô bỏ xấu xa, bọn cua trạnh tanh hôi hèn yếu. Ðều là thân
thể, tại sao có tốt xấu khác nhau? Ðó là lúc bình sanh nơi thân,
khẩu, ý thi thố lành hay gây tạo dữ. Nghiệp lành cảm thân tốt
đẹp; nhơn dữ chiêu cảm quả xấu xa, do tự tâm tạo rồi tự thọ.
Muốn chúng sanh được thân thể tốt đẹp khỏe mạnh, để hưởng hạnh
phúc trong cõi người, trong kinh Thiện sanh đức Phật cặn kẽ chỉ
dạy cách ăn ở hợp pháp trong gia đình về nhơn đạo, lấy năm giới
cấm làm căn bản. Bất sát sinh để gây tạo thiện nhân, cảm thành
quả thể xinh đẹp khỏe mạnh sống lâu ở tương lai. Không trộm cắp
gian tham để làm thành nghiệp lành, hưởng quả no ấm đầy đủ cho
thân thể tốt đẹp. Trừ tà dâm để chiêu cảm thân hình đoan trang,
cùng hưởng phúc gia đình. Tránh vọng ngữ để được giọng nói điều
hòa, trong trẻo. Và kiêng rượu để khỏi phạm mấy điều trên, cùng
gây dựng ở hiện tại và vị lai, bộ trí óc sáng suốt.
- 2.- Quan niệm
Thiên thừa: Trọn vẹn nâưm giới cấm, nhân đạo đã hoàn thành, đào
tạo chắc chắn nghiệp chủng người tốt lành nơi tự tâm, và sau này
khi thuần thục sẽ cảm lấy thân thể làm người tốt đeph mạnh khỏe,
trường thọ, giọng hay, óc sáng để hưởng hạnh phúc nơi cõi người.
Trên cõi người còn có các cõi Trời, về thân thể, mọi phương diện
đều hơn người; không như thân người phải thai sanh nhớp nhúa,
khổ sở vì các vị Trời được hóa sanh. Thân thể cực kỳ xinh đẹp,
cao lớn giống nhau, các căn đầy đủ, thấy suốt, nghe xa, được
thần thông tự tại theo ý muốn, đồ nhu dụng tự nhiên có, cho đến
khỏi tất cả bệnh tật. Thân thể thường khỏe mạnh luôn, vẫn mãi
trẻ trung không già; không như thân người đều không tránh khỏi
nỗi đau khổ vì bịnh hoạn, bức bách vì già yếu. Thân thể các loài
trong thế gian, chỉ có thân Trời là hơn hết, từ những điều tốt
đẹp của thân, nhẫn đến sự thọ dụng.
- Từ đâu Chiêu
cảm được sự thù thắng ấy? Cũng như đã nói ở trước, tạo nghiệp
nhơn gì thì tự tâm sẽ gìn giữ nghiệp nhơn ấy, và sẽ chuyển hiện
ra quả đúng như vậy.
- Như vậy ngay ở dưới ánh sáng mặt
trời, thì bóng của vật ấy thẳng; trái lại, vật ấy bóng ác cong,
muốn được bóng thẳng thì phải sửa sang cho vật ấy thật ngay.
Cũng như muốn được hưởng thân Tròi, phải vun trồng nhiệp nhơn
Trời. Phật dạy 10 điều lành gọi là "thập thiện nghiệp" tức là
các đức tánh tốt, phát sanh từ thân, khẩu, ý tưởng, thật hành
hoàn toàn 10 nghiệp lành. Tự tâm trong sạch, thì nghiệp chủng có
công năng tốt đẹp, sẽ cảm thọ thân thù thắng, không bịnh tật,
khỏi già nua, trường thọ ở cõi Trời.
- Ðức Phật dạy
những nguyên nhân và quả báo cùng sự tu hành, để khỏi bị những
thân xấu xa, khổ sở và được cảm hiện những thân cường tráng, vui
vẽ tốt tươi của người và Trời; chính là "Nhơn thừa Phật giáo"
cùng "Thên thừa Phật giáo" đối với thân thể.
- Mặc dù vui vẻ
ở tân người, song thân người còn phải bị tám điều khổ lụy. Dầu
thù thắng ở thânTrời, song thân Trời chưa khỏi nạn vô thường,
khi nghiệp nhơn đã mãn (ngũ suy tướng hiện). Vi Trời và người
đều còn là phàm phu trong tam giới, vậy thân người và thân Trời
chưa phải là chổ đáng ham, nên trong Phật giáo còn có ba Thừa
siêu thoát ngoài vòng khổ lụy của ba cõi, tức là:Thanh văn thừa,
Duyên giác thừa và Bồ tát thừa.
- 3.- Quan niệm
Nhị thừa:
- a).Thân bất
tịnh:- Lấy con mắt của hàng Nhị thừa xem nơi thân thể, chỉ là
một giống nhơ nhấp, do nhiều chất nhơ uế hòa hiệp. Các Ngài chỉ
cảm thấy nó là hiện tượng của muôn điêu khổ sở, buộc ràng không
có mảy may chỉ đáng gọi là vui thú, nên có câu "thân vi khổ
bổn". Và thân thể là chổ nhơ, góp tất cả sự nhơ nhớp, cùng để
rồi rã rời tan át, nên có câu "thị thân bất tịnh, cách nang xú
uế", và ""thị thân vô thường, tất quy tán diện". Thử nghiệp xem
những sự thống khổ ở trong thế gian từ đâu mà có? -Phải chen do
nơi thân thể; các sự thống khổ như: lạnh,nóng, đói,khát, mỏi,
khổ, đau, nghịch trái...Ðều thuộc nơi về nơi thọ, mà thọ có ra
là bởi lục căn tiếp xúc với lục trần, thân thể là chổ nương của
lục căn, nên sự khổ thọ lấy thân làm gốc. Vả lại, người đời
không gì khổ bằng: lúc sinh đau đớn kêu la, khi già lụm cụm run
rẩy, lúc ốm đau, yếu đuối bức rức, khi chết giãy giụa hãi hùng,
bốn việc đại khổ ấy, lại là cái khổ sanh, trụ, dị, diệt, của
thân thể.
- Xưa bốn thầy
Tỳ kheo cho ở đời sự sợ sệt, sự nóng giận, sự dâm dục cùng sự
đói khát là khổ nhứt. Ðã bị Phật quở trách vì chưa xét đến thân
là gốc của muôn điều khổ. Không thân thì các sự khổ: sợ, giân,
dâm, đói từ đâu mà có. Thấu đáo thay cho câu "thân vi khổ bổn"
và câu "thân như oan thù". Sự nhơ nhớp hôi hám của thân thể
không thể tả xiết. Người ta không nhớ quá khứ, không nghĩ đến vị
lai, chỉ dòm nơi hiện tại và dùng nào là quần áo phủ che, nào là
xạ hương xông ướp, để tự làm mê hồn mình, trước đồng hôi tanh
bất tịnh.
- Thử nhìn đến
các chất như cửu khiếu (9 lỗ cống) trong thân chảy ra, tự mình
cũng đã quá gớm của mình, chưa nói đến thân thể của người khác,
nên trong kinh có câu " chư khổ lưu bất tịnh".
- Làn da mỏng
là một cái dãy mà trong đó chứa đầy những: máu, mủ, thịt, xương,
đàm dải và đại tiểu tiện v.v...Còn gì ghê tởm bằng khi một thân
người bụ lột cả da và bị banh xé. Câu "Cách nạn xú uế" đã từ
miệng Phật thốt ra để cảnh tỉnh kẻ say đắm. Thân nhơ nhớp hiện
tại từ đâu mà có?- Từ ngày trước: điểm tinh, giọt huyết hòa lẫn
trong khi nghiệp thức vọng tưởng mê cuồng với sự giao hợp của
cha mẹ mà kết thành. Sự dơ dáy của tinh huyết, sự đáng nhờm của
bào thai, thật không bút mực nào tả hết, cho đến sau này nghiệp
thức đã xa lìa, thâh thể sẽ xanh cứng, sẽ sình chương, sẽ nứt nở
ra lần để làm ổ cho đám giòi tửa, làm chỗ cho ruồi kiến bu đậu,
và để tiết ra những chất nhơ nhớp nhứt và hôi tanh nhứt. Lúc mới
kết hợp: vọng tưởng tinh huyết bất tịnh; khi to lớn,: đàm đạnh,
phân đái máu mủ bất tịnh. Lúc chết tan rã hôi tanh bất tịnh. Như
vậy thân người là một vật bất tịnh nhứt trong các vật bất tịnh.
Từ đầu đến cuối, khi mới tượng sanh đến lúc hư mất, thảy đều
toàn là bất tịnh.
- Trong thân
nhơ nhớp bất tịnh, đáng ghê tởm nhớp ấy, còn có một sự mà enếu
thấy hiểu, người ta sẽ không còn ham muốn gì về thân thể. Từ lúc
nào đến lúc nào, bao giờ cũng ráp ranh đến chỗ tiêu diệt. Ðang
trẻ trung, thắm thoát đã già nua. Từ cái mạnh mẽ tươi tắn, không
bao lâu đổi thành yếu đuối, mệt nhọc, nhăn nheo. Trong khoảng
thởi gian ấy, không biết bao nhiêu sự đổi thay vô thường. Thân
năm trước không phải là thân năm nay, thân tháng trước không
phải là thân tháng tới, thân ngày nay không phải là thân hôm
qua,cho đến từng giờ từng phút, từng sát na cũng đã đổi khác. Ðã
có đổi thay, tất phải có lúc tiêu diệt, không ai có thể dừng
được sự thay đổi nhanh chóng của thân, và không có gì bảo đảm
được cái họa trạng hấp tấp mà mọi người đều sợ: "cái chết". Mạng
sống không khác chỉ mành treo chuông, chỉ chực đứt dây là rớt
bể, nên có câu: "nhơn mạng tại hô hấp gian". Một hơi thở ra mà
không hít vào, tức là đời sống của thân không còn, giờ tan rã
sắp đến. Than ôi! Thân là cội khổ, thân là bất tịnh, thân là vô
thường, có gì đáng sợ, có gì chán bằng thân. Ơủ nơi thân không
có máy mún, chỉ có thể tạm gọi là đáng trìu mến, đáng thương
tiếc!
- Người tu hạnh
Nhị thừa, quán sát thấy thân như vậy, nên nhàm chán nơi thân,
ghê sợ sanh tử vô thường, gớm nhờm hôi tanh nhớp nhúa, do đó nên
gấp lo tự lợi, vội mong thoát ly thân, mà tu các pháp môn tu
siêu diệt thoát ly tam giới. Có người thấy rõ thân là khổ sở dơ
dáy vô thường như trên, rồi sợ quá, quá nhờm, bèn vội vàng tìm
cách xa lìa mau chóng: "tự tử". Mấy kẻ lầm to. Họ tự tử để chóng
ra khỏi thân, mà họ không biết rằng chính họ đang bồi đắp cho
thân được chắc chắn lâu dài. Vì thân có ra là do nghiệp nhơn,
thân là quả của nghiệp nhơn, muốn khỏi quả phải trừ nhơn, nay
nhơn cứ tạo, cứ gieo mà muốn đừng có quả, quyết hẵn không thể
được. Không khác nào người sợ bóng mình, muốn bóng mình không
hiện, mà cứ chạy trong ánh nắng. Khi Phật còn tại thế đã có một
người có ý tưởng sai lầm này, dó là ông Phước Tăng Tỳ kheo, ghét
thân già yếu đau khổ, toan thoát thân bằng cách treo cổ trên bờ
suối, bèn bị Ngài Mục Kiền Liên quở trách là khờ dại, cùng giải
bày chánh lý cho nghe. Sợ già, đau, sống, chết mà quyên sinh,
thật là trở lại gây tạo sự già đau sống chết. Người ta có thể
dứt bỏ thân hiện tại, song không thể rời bỏ muôn ngàn thân sẽ có
ở vị lai, khi nghiệp hoặc hãy còn. Nghiệp hoặc còn thì khi thân
này hư, tất lại tạo thành thân khác, có thân khác tất phải có
già, đau, sống, chết, khổ sở.như vậy, muốn thoát hẵn khổ lụy vì
thân thể, phải đoạn trừ cội gốc hiện ra thân, tức là phải dứt
hoặc chướng cùng nghiệp nhơn.
- a). Thân giả
hợp: Cái gốc "hoặc nghiệp" đã trừ, thì cái ngọn là "thân" tức
nhiên phải khổ mục. Nhơn đã không còn thì quả cũng tự mất. Thân
sau không còn chiêu cảm thì các khổ lụy không nương đâu mà có,
tức là an vui giải thoát. Dứt được nghiệp hoặc thì vô lậu huệ
sanh, thành bựt Nhị thừa Thánh nhơn. Ðến đây thân thể các bực
này không còn thiệt thân thể, mà chỉ là sự kết cấu của ngũ ấm,
hay thập nhị xứ. Trong khi người thường nhận là thiệt có thân
thể, có đàu mặt tay chân, có hình dung động tác, mà với huệ
chứng của các Ngài thấy là sắc, là thọ, cho đến là thức; hay
thấy là: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; mỗi món có phần vị
riêng, không có cái gì có thể gọi là thân thể? khác nào như ở xa
có thấy một cụm rừng liên lạc um tùm, mà khi đến gần kề, thì chỉ
thấy cây cối rời rạc, thể của rừng không còn là thật. Cảnh giới
ấy đối với người chưa chứng đến, thật khó nhận hiểu, thán chỉ
không thiệt có, nó có chỉ là có đối với nghiệp thức của chúng ta
thôi. Nó đẹp, nó đáng ưa, cũng chỉ là phụ hợp với tình vọng ô
nhiễm, xinh đẹp đối với người người , chưa chắc hẵn đã xinh đẹp
với người khác. Nàng Tây Thi người đời ca tụng là đẹp , là đáng
yêu, mà chim gặp chim sợ bay xa, cá thấy cá sợ lẫn trốn. Nên
thân Nàng Tây Thi chắc thiệt là đẹp đáng yêu, thì sao chim cá
lại phải sợ hãi? Phải chăng sự đẹp ấy, chỉ là do đồng nghiệp của
loài người . cho đến thân thể hình dáng tác dụng, chỉ có con mắt
thường của người . Một mỹ nhân cực kỳ lộng lẫy, nếu ta dùng
quang tuyến mà xem, thì mỹ nhân không còn, mà chỉ hiển hiện bộ
xương hồng trắng, và nếu ta dùng kính chiếu đại gấp trên ngàn
lần, thì ta chỉ thấy đó là một đống da thịt rời rạc, cách nhau
từng khoảng. Nếu mọi người đều mang con mắt quang tuyến, cùng
kính chiếu đại gấp ngàn lần, thì thử hoủi giữa đây, còn có cái
gì thiệt là thân như trước.
- Huệ nhãn của
các vị Nhị thừa Thánh nhơn củng thế. Ðối với người thường là
thân thế.đối với người thườngla thân thể xinh đẹp,với các ngài
thì thân thể còn không có, huống nữ là xinh đẹp. Chẳng phải là
duyên cảnh khác, mà chổ thấy có sai khác. Cũng đồng một cảnh,
song vì thức trí khác nhau, nên chổ nhận thấy thành kkhông đồng.
Do không còn thấy là thật cóụ thân thể, nên các Ngài không còn
sanh lòng luyến áinơi thân không còn có niệm: thân mình, thân
người , vì tất cả đeù là ngủ ấm, là lục căn, lục trần; dưới huệ
nhãn của các ngài, và hơn nữa đều đồng là tứ đại giả hợp:da,
thịt, gân, xương, da, tóc, móng toàn là địa đại; tinh, huyết,
đàm, nhớt, nước mắt, mồ hôi, tòan về thủy đại; nhiệt độ thuộc về
thủy đại; nhiệt độ thuộc về hỏa đại; cùng sự chuyển động thuộc
về phong đại. Tứ đại nếu trái nhau, thì thân thể làm sao dặng
có. Rõ biết thân thể là hư vọng, thì cả thảy phiền não tự trừ,
vì thân là căn bản của ái nhiễm khi bấy giờ vô ngã trí phát sinh
vĩnh viễn thoát ly sanh tử trong ba cõi, tức là rốt ráo được Nhị
thừa Phật giáo.
- 4.- Quan niệm
Ðại thưa:
- a) Thân như
huyễn hóa: Mở rộng tầm quan nhiệm, thân thể đối với hàng tu quán
Ðại Thừa, là một giả pháp do sự kết cấu của sắc tâm và không rời
ngoài thức. Do danh ngôn, ngã chấp, hữu chi ba món huân tập nơi
tự thức, tọa thành danh và sắc công năng, khi đủ duyên bèn
chuyển hiện, thành thân thể, rồi bám lấy sắc thân, làm tự thể
sanh giác thọ, và cùng với thân đồng an đồng nguy; khi thức
không còn cháp trì, thì thân hoại diệt. Thân không tự có, do
thức tự chuyển biến mà có, thân không tự thể, lấy thức làm thể,
toàn thân là thức, ngoài thức không thân. Thân có là do thức
công năng biến hiên, công năng hiện thân, bởi các nghiệp duyên
huân tập nơi thức mà thành. Nghiệp duyên có ra, lại nương nơi
thân mà phát khởi nên thân thể là pháp hư giả, do thức biến
hiện. Song từ nơi thân thể tạo nghiệp nhiễm hay tịnh, làm duyên
huân tập nơi tự tâm, khiến tự tâm chuyển thành công năng nhiễm
hay tịnh. Thân thể cùng công năng xoay chuyển làm nhơn duyên cho
nhau, có không phải thiệt có, không không phải thiệt không, thật
đồng huyễn hóa. Vì đó nên với quán trí của Ðại Thừa thì thân thể
như huyễn hiện. Bởi như huyễn không thật có, nên không sa vào
lỗi tăng ích của phàm phu, cùng lỗi vọng chấp thường còn của
ngoại đạo. Bởi như huyễn, giả có chẳng phải không hẵn, nên khỏi
bị lỗi tổn giảm của Nhị thừa và chấp đoạn diệt của tà giáo.
- Bồ tát nương
nơi huyễn thân, tu như huyễn pháp mô, nhứt huyễn ái kiến, độ
huuyễn hữu tình, chứng huyễn Thánh quả. Do thấy thân như huyễn
hóa, toàn hư vọng, không còn ái trước nơi thân, nên phiền não
không sanh. Không ái trước nơi thân, thì khỏi vị thân mà phải
thối thất đạo hạnh. Thọ vô lượng thân, tu hành trải qua vô lượng
kiếp, mà với Bồ tát, không có một mảy may niệm tưởng là có thọ
thân, cùng có sả thân.
- Mảy niệm còn
không, huống gì có tiếp số, nên có câu: "thọ thị khổ...kiếp số
phi kiếp số". Vì thân tùy duyên như huyễn sanh, sanh tức vô
sanh; thân tùy duyên như huyễn diệt diệt tức vô diệt, nên có
câu: "chúng duyên giả hiệp, hư vọng danh sanh, chúng duyên ly
tán, hư vọng danh diệt". Không sanh không diệt tức là
"thật-tướng". Cổ đức có câu: "huyễn thân bổn tự không tịt, sanh
du như cảnh hình tượng,-Giác liễu nhứt thế không, huyễn thân tu
du chứng thật tướng". Ðó là từ nơi thân, quán "giả" nhập
"không", chứng "trung đạo".
- b) Thân mình
và vũ trụ là một: Thêm lên một từng nữa, Bồ tát quán thân mình
tức là toàn thể vũ trụ, là toàn thể chúng sanh. Vì sao? Tất cả
các pháp đều đắp đổi làm duyên, đối đãi với nhau. Một pháp này
có ra, là do đối đãi với các pháp kia, các pháp kia có ra, là do
đối đãi với pháp này. Thân thể hiện có, là nhờ vũ trụ đối đãi
làm duyên, vũ trụ trở lại là do sự đối đãi của thân thể mà có.
Duyên nơi vũ trụ mà có thân thể , thì thân thể là vũ trụ. Duyên
nơi thân thể mà có vũ trụ, thì vũ trụ là thân thể. Vũ trụ và
thân thể không hai không khác. Thân mình và toàn thể vũ trụ,
thân người cũng toàn thể vũ trụ. Cho đến thân của tất cả hữu
tình, cũng đều là thân thể vũ trụ. Toàn thể vũ trụ là thân mình,
mà toàn thể vũ trụ cũng là thân của tất cả hữu tình, và thân hữu
tình là toàn thể thân mình. Vũ trụ thể tánh viên mãn, thì thân
mình là thân tất cả hữu tình, thể tánh cũng đều viên mãn.
- III.- Thân
Phận Của Con Người Ðáng Chán Hay Không Ðáng Chán
- 1.- Hoàn cảnh
là địa vị của con người trong vũ trụ như thế nào?
- Như trong
phần vũ trụ quan đã có nói, thế giới có chia ra ba từng bậc là:
Dục giới, Sắc giới và vô Sắc giới. Sống trong Dục giới là những
sanh vật còn bị lòng dục sai tử, điều khiển, như thực dục, dâm
dục. Những loài sống trong Dục giới là: súc sinh, ngạ quỷ, địa
ngục, a tu la, người và chư thiên.
- Như thế nào
là người cũng sống cùng một cảnh giới với các loài vừa kể trên.
Vẫn biết trong sáu loài ấy thì địa vị conm người được xếp vào
hạng nhì, nhưng dù sao thì cũng không sống trong một hoàn cảnh
không sáng sủa gì, vì là hoàn cảnh là chủ tể là lòng Dục. Cho
nên Phật thường dạy: "Nước mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển",
là thế! Lòng dục đòi hỏi những sự ham muốn về vật chất như thèm
ăn, thèm ngủ, thèm áiân...Nói tóm lại là muốn được thỏa mãn
những khoái lạc về ngũ quan. Nhưng đâu đã hết! Con người còn ham
muốn được thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần: ham muốn chiếm
đoạt, ham muốn về chế ngự, ham muốn phô trương...nghĩa là tham
danh tham lợi.
- Nhưng nếu
tham mà được thỏa mãn tất cả, thì cũng đở khổ. Ơủ đây, trái lại,
lòng dục không bao giời được thỏa mãn cả. May ra thì còn cỏ thể
thỏa mãn tạm thời trong chốc lát. Và như thế lại càng nguy hiểm,
vì chẳng khác gì người khác mà uống nước mặn, càng uồngcang
khác.
- Loài người bị
trói buộc vào lòng dục, như con ngựa bị buộc vào cổ xe, cứ phải
kéo chạy mãi, không bao giờ được yên nghỉ.
- Hơn nữa, lòng
dục ấy chính là cái mầm xung đột giữa loài này với loài khác: ai
cũng mong được thỏa mãnlòng dục của mình, cho nên sanh ra vị kỷ,
làm khổ cho người khác và loài khác để mình được vui. Do đó, mỗi
chúng ta sanh là một kẻ địch thù của mỗi chúng sanh khác, và cõi
đời này là một bãi chiến trường, mà trong mỗi phút mỗi giây, có
không biết bao nhiêu là chiến sĩ bị ngã gục. Do đó cõi chiến
trường ấy cũng là một bãi tha ma rộng lớn vô cùng. Theo Phật dạy
thì đó là một biển khổ mênh mông!
- Biển khổ mênh
mông sóng lụt trời,
- Khách trần
chèo một chiếc thuyền trôi,
- Thuuyền ai
ngược gió, ai xuoi gió?
- Xét lại, cùng
trong biển thảm thôi
- 2.- Tánh chất
vô thường và vô ngã của con người: Con người khổ vì lòng dục,
con người còn khổ hơn nữa vì hai tánh chất căn bản sau đây:
- a) Vô thường:
Mọi vật ở đời không đứng yên một chỗ, mà biến chuyển di động
luôn luôntrong từng phút, từng sát na. Thân phút trước, không
phải là thân phút sau. Cứ trong mỗi phút giây, bao nhiêu triệu
tế bào trong người đang chết và bị thay thế. Con người thì tham
được sống, mà con người cứ bị kéo dần về cõi chết. Càng muốn
được sống chừng nào, lại càng sợ chết chừng ấy. Sự chuyển biến
mau lẹ, từ tóc xanh đến bạc đầu, chẳng khác gì một giấc chiêm
bao.
- b)Vô ngã: Con
người cũng như mọi vật, sở dĩ có là do nhân duyên hòa hợp. Con
người chỉ là một cái tên, là một giả danh để gọi cáih hộp hợp
của năm uẩn là: sắc, thọ, yưởng, hành, thức. Khi đủ nhân duyên
chúng nó tập hợp lại thì gọi là sống, khi nó tan ra thì chết.
Trong năm uẩn ấy, có cái gì chủ tể, thuần nhất đâu? Vả lại, ngay
trong năm uẩn ấy cũng không có cái nào gọi là thuần nhất, mà
cũng lại do sự tập hợp của lục đại.
- Không thường mà tưởng là thường,
không ngã mà tưởng là có ngã. Ðó cũng tức là cái mêm mờ lớn nhất
của con người. Và cũng chính do cái mê mờ ấy mà con người đau
khổ lại càng đau khổ thêm.
- 3.- Khả năng
của con người: Xét như trên, thì thân phận con người thật là
đáng chán. Vậy thì chúng ta đành thất vọng, buông xuôi tay mà
than khóc để chờ chết hay sao? Ta còn niềm tin gì ở con người
nữa chăng?
- Tất nhiên là
có! Phật dạy: "Chúng sanh đều có khả năng thành Phật". Nói một
cách khác, con người, mặc dù sống trong đau khổ, nhưng đều có
Phật tánh. Với cái Phật tánh ấy, con người có thêt thoát ra khỏi
hoàn cảnh tối tăm của mình. Ðể thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy, con
người không cần phải quỳ lụy, cầu xin một đấng nào khác, mà do
tự lực và hành động của mình. Chỉ có mình mới giải thoát cho
chính mình được mà thôi. Con người, chính là vị sáng tạo của đời
mình. Khi mê thì con người tự mình làm cho mình đau khổ, nhưng
khi biết mình mê mà tìm cách thoát ra khỏi cảnh mê, thì con
người chính là kẻ tự gầy dựng hạnh phúc cho mình.
- Ðó là ưu điểm
của con người, đó cũng là niềm tin tưởng lớn của con người. Ðứng
về một phưpưng diện, thì thân phận của con người thật là đáng
chán. Nhưng đứng về một phương diện khác, thì con người thật
đáng phấn khởi.
- Cho nên bảo
rằng nhân sainh quan của đạo Phật là bi quan cũng không đúng
hẳn. Lạc quan hay bi quan còn tùy thuộc ở phương diện quan sát
của mình.
-
C.- Kết Luận:
- Rút những
nhận xét trên, chúng ta có thể nào kết luận rằng: Khi trong mê,
thì thân phận con người thật là bi đát. Nhưng khi bắt đầu nhận
được mình mê, thì con người có thể hoán cải được hoàn cảnh và
cuộc sống của mình.
- Nhưng làm thế
nào để hoán cải? Làm thế nào để chuyển mê thành ngộ? Làm thế nào
để chuyển khổ thành vui? May thay! Giáo lý của dức Phật có đấy,
người chỉ dẫn phương pháp chuyển mê thành ngộ, chuyển khổ thành
vui còn đó.
- Chúng ta chỉ
còn gia công tụ tập, thì thế nào cũng chuyển đổi được hoàn cảnh
buồn thảmcủa chúng ta. Cho nên đức Phật thường dạy: Cảnh Ta bà
này cũng tức là cảnh Phật. Người cũng là Phật.
--o0o--
|
|