-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- PHẬT HỌC PHỒ THÔNG KHÓA VI
- TRIẾT LÝ
ĐẠO PHẬT
hay là
ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM
-
A.- PHẦN DUYÊN
KHỞI [^]
- Người đến đô
thành lạ, nếu chẳng có bản đồ, thì không sao khỏi lầm đường lạc
nẻo. Người đi trong biển khơi diệu-vợi, sóng dồi gió dập, lênh
đênh giữa biển, nếu không có kim chỉ-nam, thì không dễ vượt qua
mấy vạn trùng dương, trở về xứ sở. Người đi đánh giặc, nếu không
có binh thơ đồ trận, không hiểu chiến thuật, chiến lược, thì
không sao thắng được giặc, đem trở lại trật tự an ninh cho nước
nhà, và giữ gìn non sông cẩm tú. Kẽ làm thợ nếu chẳng có mực
thước, thì không sao làm thành món đồ có giá trị được.
- Người tu hành
cũng thế, nếu không hiểu được lối thắng, khúc quanh, chỗ đèo ải
gay go, nơi hố hầm nguy hiểm trong đường lối tu hành, lớp lang
chứng đạo, thì không sao khỏi lạc vào nẻo tà, sa nơi ác đạo.
-
Kinh-Lăng-Nghiêm là một bộ kinh quý báu vô cùng, chỉ đường lối
tu hành một cách rành mạch, nào là giáo, lý, hạnh, quả đều rõ
ràng. Người tu phải trải qua bao nhiêu địa vị, trong khi tu gặp
những đều nguy hiểm thế nào, mà phải làm sao mới tránh khỏi
những điều nguy-hiểm ấy, thì trong Kinh-Lăng-Nghiêmdạy hết sức
rõ ràng.
- Nói đến
Kinh-Lăng-Nghiêm, hàng Phật tử ai chẳng nghe tiếng là một bộ
kinh Đại -thừa, vừa hay nhứt, mà cũng vừa quý nhứt. Người tu
hành hiểu được Kinh-Lăng-Nghiêm, chẳng khác nào người bộ hành có
bản đồ, kẻ thủy thủ có kim chỉ nam, người thợ có dây mực, cây
thước, kẻ chiến sỹ có binh thư đồ trận.
- Vì
Kinh-Lăng-Nghiêm quý giá như thế, nên thuở xưa các vị vua Ấn Độ
cho là một quốc bảo, giữ gìn nghiêm ngặt không cho truyền bá ra
ngoài. Trong lúc ấy bên Tàu, có Ngài Thiên-thai Trí-giả Đại-sư,
được nghe Kinh-Lăng-Nghiêm quý báu như vậy, nên mỗi ngày hai lần
sớm chiều xây mặt về phía Tây (Ấn Độ) quỳ lạy cầu khẩn cho
Kinh-Lăng-Nghiêm được sớm truyền bá qua Tàu, để lợi ích
quần-sanh.
- Cách 100 năm
sau, có Ngài Báy-thích-Mật-đế , người Ấn Độ, đã nhiều lần tím
cách đem Kinh-Lăng-Nghiêm đến truyền bá tại Trung Hoa, nhưng
không kết quả, vì luật nước nghiêm cấm, kiểm soát rất chặt chẽ.
- Đến lần cuối
cùng, Ngài viết kinh trong tấm lụa mỏng, rồi cuốn lại, xẻ thịt
bắp vế nhét vào, băng lại làm như người có ghẻ, mới đem ra được
khỏi nước.
- Chúng ta nên
nhớ tưởng lại kỳ-công "Vị pháp vong xu" của Ngài
Bát-Thích-Mật-Đế. Thử nghĩ: Một cây cỏ cắt vào gia còn đau; một
mụt ghẻ con, còn biết nhức; huống chi xẻ một đường dài nơi bắp
thịt, nhét cho được một cuốn lụa con, trải qua bao nhiêu ngày,
từ Ấn Độ sang đến Trung Hoa. Nếu không may bị tiết lộ thì phải
tử hình. Như thế chúng ta đủ thấy sự quý báu của
Kinh-Lăng-Nghiêm là dường nào! tâm vì đạo quên mình của Bồ Tát
Bát-thích-mật-đế đáng cho chúng sanh trọn đời bái phục.
- Khi Ngài
Bát-Thích-Mật-Đế đem Kinh-Lăng-Nghiêm này qua Tàu, đến đất
Nam-thuyên, gặp quan Thừa-tướng tên Phòng-dung, là bực bác học
uyên thâm, lại có lòng mộ Phật, nên Ngài triønh bày với
Thừa-tướng, vè giá trị của Kinh-Lăng-Nghiêm mà Ngài đã huyền
diệu sinh mang đến.
- Quan
Thừa-tướng Phòng-dung nghe nói rồi hết sức mừng rỡ, cho là đặng
một vật báu chưa từng có. Nhưng khi đem cuốn lụa ra thì, vì bị
máu mũ bám vào lâu ngày, nên mất cả chữ nghĩa.
- Một bà có
công lớn trong việc này, là Phu-nhân của Thừa-tướng Phòng-dung.
Bà đem cuốn lụa ấy nấu với một chất hóa học, thì máu mũ đều theo
nước mà tan đi, chỉ lưu lại các nét mực, nên còn thấy để phiên
dịch.
- Quan
Thừa-tướng thỉnh Ngài Bát-Thích-Mật-Đế dịch chữ Phạn ra chữ Tàu.
Ngài Di-Già-Thích-Ca dịch từ ngữ, còn quan Thừa-tướng nhuận-sắc.
Bởi thế nên Kinh-Lăng-Nghiêm chẳng những nghĩa lý rất hay, mà
văn chương còn tuyệt diệu! Từ xưa các học giả, không những trong
đạo Phật, mà cả đạo nho, các đại gia văn chương, một phen xem
đến Kinh-Lăng-Nghiêm, đều kính phục và vô cùng khen ngợi cái
nghĩa lý cao siêu, và văn chương tuyệt diệu của kinh.
-
B.- PHẦN CHÁNH ĐỀ[^]
-
I.- NGUYÊN NHÂN PHẬT NÓI KINH LĂNG
NGHIÊM[^]
- Theo lệ
thường, mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, là ngày mãn hạ, chư Tăng
cùng trong tự tứ, để rữa sạch những hành vi lỗi-lầm và những
tưởng không tốt, cho giới thể được thanh tịnh, vì trong ba thánh
kết hạ an cư, chư Tăng đều thúc liễm thân tâm, trau giồi giới
hạnh , tích công lũy đức, nên đến ngày mãn hạ, các hành Phật tử
cư sĩ đều đua nhau sắm đũ các món trai diên, thỉnh như tang đến
cúng dường, để gieo trồng cội phúc.
- Hôm ấy, nhằm ngày hút nhựt của
Tiên-Hoàng, nên vua Ba-Tư-Nặc sắm đủ các món trân tu mỹ vị rất
linh đình, rồi chính vua thân hành đến rước Phật và chư Tăng về
cúng dường.
- Cũng hôm ấy, các hành trưởng
giả, cư sĩ đều sắm đủ thức cơm chay, cung thỉnh chư Tăng đến
cúng dường. Phật bảo Ngài Văn-thù chia ban, để đi đến từng nhà
thọ cúng.
- Trong lúc ấy,
ông A-nan ví đã chịu người thỉnh riêng trước, nên trở về chẳng
kịp để dự vào hàng chúng Tăng thọ cúng .
- Ông mang bình
bát đi vào thành, oai nghĩa,i tề chỉnh, bộ điệu chẫm rãi, qua
từng nhà một để khác thực. Vơi tâm bình đẳng, ông muốn làm phước
điền cho tất cả mọi người, không phân biệt bậc quý phái hay hạng
bình dân. Ông chỉ mong gặp những người chưa biết làm phước, hôm
nay phát tâm cúng dường, để họ được ương trồng hạt giống lành,
dặng ngày sau hưởng quả.
- Vì lòng từ bi
bình đẳng không lựa chọn, nên ông tuần tự trải qua các xóm làng.
Không may ông gặp nhà tín-nữ ngoại đạo, tên Ma-Đăng-Già, dùng
phép huyễn thuật là thầnchú của Ta-Tỳ-Ca-La Tiên Phạm-thiên, bắt
vào phòng, dùng đủ lời dịu ngọt, vuốt ve mơn trớn, ép uổng về
tình duyên!....
- A-nan bị nạn,
hết sức buồn rầu! Ông chắp tay niệm Phật, hướng về Đức Chí-tôn
cầu cứu ! ...Phật biết A-nan bị nạn, nên khi thọ trai xong không
kịp thuyết pháp, liền trở về tịnh xá ngồi kiết-gìa, nên đảnh
phóng hòa quang ấy có ngàn cánh, trên hoa sen có đức Hóa Phật
ngồi kiết-già, nói thần chú Lăng-Nghiêm ( mỗi buổi khuya các
chùa đều tụng) .
- Phật bảo Ngìa Văn-thù đem thần
chú ấy đi đến chổ nàng Ma-Đăng-gìa, để phá trừ tà chú, cứu nạn
cho A-nan.
-
II.- A-NAN CẦU PHẬT
DẠY PHƯƠNG PHÁT TU HÀNH LẦN THỨ NHỨT[^]
- Khi ông A-na
được thoát nạn, về đến chổ Phật, cúi đầu kính lạy, buồn tủi,
khóc than và bạch Phật rằng:
- -??Bạch Thế
Tôn ! Con từ hồi nào đến giờ có ồng ỷ lại: Con là em Phật, được
Phật thương yêu, chắc chắn Phật sẽ ban cho con thần thông trí
huệ, hay đạo quả Bồ-đề, nên chỉ lo học rộng nghe nhiều, chẳng
cầntu niệm, không ngờ ai tu nấy chứng, mặc dù con là em của
Phật, nếu không tu, thì cũng bị đọa như ai; học nhiều mà không
tu, thì cũng chẳng có ích gì! Cúi xin Phật rồng lòng từ bi, chỉ
dạy cho con phương pháp nào mà mười phương các Đức Phật tu hành
đều được thành chứng quả ??.
-
III.- PHẦN LƯỢC GIẢI[^]
-
1.-ĐỊNH NGHĨA VÀ GIẢI NGHĨA TÊN KINH[^]
- Khi đó Phật
an ủi A-nan và hứa sẽ dạy phương pháp tu hành để thành đạo chứng
quả, là Kinh-Lăng-Nghiêm. Kinh này đọc cho đủ là:
- "kinh đại
Phật đảnh, Như-lai mật nhơn, tu chứng liễu nghĩa, chư Bồ Tát vạn
hạnh, Thủ Lăng-Nghiêm"; gọi tắt là "kinh Thủ-Lăng-Nghiêm" tức là
kinh nói về chơn tâm.
- a.- Vì kinh
này rất quý báu, đã ít có mà lại khó gặp, hành Tiểu-thừa Thinh
-văn và quyền-thừa Bồ Tát không thể thấu suốt được, nên dụ như
cái tướng "Vô kiết đảnh" của Phật. Vì tướng này rất quý báu và
khó thấy, hanhg phàm phu và Nhị-thừa không thể thấy được.
- b.- Mười
phương các Đức Phật đều y theo kinh này mà làm nhơn tu địa hành
mà được thành đạo chứng quả, nên gọi là "Như lai mật nhơn".
- c.- Y theo
kinh này mà tu và chứng thì lối tu chứng ấy mới được là rốt ráo,
nên gọi rằng "tu chứng liễu nghĩa".
- d.- Các vị Bồ
Tát tu pháp lục độ vạn hạnh đều y theo kinh này, nên kinh nầy
cũng gọi là "Chư Bồ Tát vạn hạnh".
- đ.- Tóm lại
là "Thủ Lăng Nghiêm", Tàu dịch là "Đại định kiên cố". Nghĩa là
cái bản thể chơn tâm sẳn có của tất cả chúng sanh và chư Phật,
nó bao la trùm khắp cả vũ trụ, nên gọi là "Đại". Tâm ấy thường
tịch tịnh không vọng-động nên gọi rằng "Định". Nó không bị thời
gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, thấu xưa suốt nay, bao
giờ cũng vẫn thường như thế, ở nơi bực thánh không thêm, tại
phàm cũng không bớt, như như bất động, nên gọi rằng "Kiên cố".
- Chữ "Kinh"
theo nghĩa hẹp là đường chỉ xuôi, tức là đường canh trong
tấmvải. Tấm vải nhờ có đường canh xâu kết lại các chỉ ngang, mới
thành một tấm vải.
- Còn theo nghĩa rộng, chữ "kinh"
là xâu tom các lời lẽ và nghĩa lý của Thánh-hiền làm thành một
quyển hay một bộ.
- Trong đạo
Phật hay ngoài đời đều có kinh điển. Song kinh Phật có thêm chữ
"khế" nên khác hơn kinh sách ở thế gian.
- Chữ "khế"
nghĩa là hợp:
- a.- Hợp căn
cơ trình độ của chúng sanh.
- b.- Hợp chân
lý.
- Chữ ??kinh??
có nghĩa "trường pháp", là một chân lý không thay đổi: quá khứ
Phật nói pháp như vậy, hiện tại Phật cũng nói pháp như vậy và vị
lai Phật ra đời cũng nói pháp như vậy mà thôi, nên gọi là
"thường pháp".
- Nói một cách
xác thật hơn:
- "Kinh này
chính là tâm của chúng ta".
- a.- Chúng ta
sẳn có bản thể chơn tâm thanh tịnh và như như bất động, thế là
nơi ta có "Thủ Lăng-Nghiêm" .
- b.- Y theo
chơn tâm này mà khởi tu lục độ muôn hạnh của Bồ Tát, thì chính
là nơi ta có "Chư Bồ Tát vạn hạnh".
- c.- Y theo
chơn tâm mà tu, và cũng y theo chơn tâm này mà chứng, tu chứng
như thế mới là rốt ráo, nên gọi là "tu chứng liễu nghĩa".
- d.- Chúng ta
y chơn tâm này làm nhân địa tu hành, sẽ được thành Phật, nên gọi
là "Như-lai mật nhơn".
- đ.- Chơn tâm
này rất quý báu, những hàng phàm phu , Tiểu-thừa và quyền thừa
Bồ Tát không ngộ nhập được, nên dụ như "vô kiến đảnh tướng" của
Phật. Chơn tâm chúng ta bao trùm cả vũ trụ, muôn sự muôn vật
không ngoài chơn tâm ta, đó là nghĩa chữ "kinh".
- Mười chính
chữ đầu đề của kinh này: "Đại Phật đảnh, Như-lai mật nhơn, tu
chứng liễu nghĩa, chư Bồ Tát vạn hạnh, Thủ Lăng-Nghiêm", đã bao
hàm toàn bộ kinh, nào là giáo, lý, , hạnh, quả, thể đại, tướng
đại và dụng đại, nhơn địa tu chứng đều trùm cả, mà rốt cuộc chỉ
ở nơi tự tâm chúng ta sẳn đủ. Bởi ngộ được lý này, nên đức
Lục-tổ Huệ-năng nói rằng:
- Không ngờ tâm
mình vốn sẳn thanh tịnh
- Không ngờ tâm
mình vốn không sanh diệt
- Không ngờ tâm
mình sẳn đủ các pháp
- Không ngờ tâm
mình vốn không lay động
- Không ngờ tâm
mình hay sanh muôn pháp.
- Đọc đề mục
kinh chỉ có 19 chữ, chúng ta thấy đã vui thú rồi, vì chính nơi
ta sẳn có kinh "Đại Phật đảnh, Như-lai mật nhơn, tu chứng liễu
nghĩa, chư Bồ Tát vạn hạnh, thủ Lăng-Nghiêm". Chỉ vì chúng ta mê
muội nên chẳng nhận được kinh Lăng Nghiêm của mình. Song nó cũng
không mất, khi ngộ được thì sẽ thành Phật.
-
2.- NỘI DUNG KINH LĂNG NGHIÊM[^]
- Nội dung của kinh Lăng-Nghiêm là
Phật chỉ dạy cho chúng ta ngộ được chơn tâm. Chúng ta vì không
ngộ được chơn tâm nên phải vĩnh kiếp làm chúng sanh, trầm luân
trong biển sanh tử, chịu không biết bao nhiêu khổ sở. Còn như
Phật thoát ly sanh tử luân hồi, được tự do giải thoát, thần
thông tự tại, trí huệ vô ngại v.v....đều do các Ngài đã ngộ chơn
tâm, nên mới được như thế.
- Nói cho dể
hiểu: Phật với chúng sanh vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng
các Ngài đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy, nên mới thành
Phật. Trái lại, chúng sanh vì mê muội thể tánh chơn tâm, nên
phải bị sanh tử luân hồi. Nếu chúng sanh giác ngộ chơn tâm, thì
sẽ được như Phật.
- Ông A-nan cầu
Phật chỉ dạy phương pháp nào mà mười phương các Đức Phật đã tu
hành và đều được chứng quả, thì Phật chỉ dạy, phải ngộ "Chơn
tâm" mà thôi. Nếu ngộ được chơn tâm này thì thành Phật. Ngộ được
chơn tâm, như người còn ngủ chiêm bao. Đây là phương pháp duy
nhứt mà mười phương chư Phật tu hành đã được thành đạo chứng
quả.
--o0o--
|
|