-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
-
-
Mục Lục Khóa Thứ
bảy
-
Triết Lý Ðạo
Phật hay là
Ðại Cương Kinh Lăng Nghiêm
-
(tiếp theo)
--- o0o ---
- Bài thứ
nhất
-
-
I.
ÔNG PHÚ LÂU NA HỎI PHẬT HAI CÂU
QUAN TRỌNG
-
Lúc bấy giờ ông Phú Lâu Na Di Ða La Ni
Tử đứng dậy lạy Phật, chắp tay cung kính và thưa rằng: Bạch Thế
Tôn, trong hàng tứ chúng, Phật thường khen con thuyết pháp hơn
hết; ở trong hội này con lại chứng được quả Vô lậu. Thế mà hôm
nay con nghe Phật nói pháp nhiệm mầu cao thượng, hãy còn chưa
hiểu. Cũng như người điếc đứng xa một trăm bước nghe tiếng muỗi
kêu; thấy còn không được, huống chi lại nghe.
-
Bạch Thế Tôn: 1. Chơn tâm này đã vốn
thanh tịnh, tại sao lại thoạt sanh ra sơn hà đại địa và các
chúng sanh?
-
2.
Lại nữa, Phật nói “đất, nước,
gió lửa, tánh nó vắng lặng thường còn, viên dung khắp giáp pháp
giới”. Bạch Thế Tôn, nếu nước khắp tất cả, thì lửa phải tắt;
còn lửa biến khắp thời nước phải khô; tánh lửa thì nóng, tánh
nước lại lạnh, hai thứ trái nhau, tại sao đồng cùng khắp cả hư
không, mà nó không diệt nhau? Lại nữa, đất thì có hình chất,
còn hư không lại trống, tại sao hai thức đều khắp giáp cả pháp
giới, mà không có chướng ngại nhau? Cúi xin đức Như Lai vén mở
ngút mây mờ cho chúng con.
-
Thưa hỏi xong, ông Phú Lâu Na kính cẩn
trở lui, để chờ nghe lời Phật chỉ dạy.
-
LƯỢC GIẢI
-
Ðoạn này ông Phú Lạu Na hỏi Phật hai
điều:
-
1.Chơn tâm đã thanh tịnh tại sao thoạt
sanh ra có thế giới và chúng sanh?
-
2.Ðất, nước, gió, lửa, tánh nó chống
trái nhau, tại sao lại dung hòa được và biến khắp cả pháp giới?
-
Về câu hỏi trước thì trong kinh này
Phật đã trả lời rõ rồi. Còn về câu hỏi sau chúng ta cũng nên
phân biệt cho rõ: Phật nói nước, lửa v.v... biến khắp cả pháp
giới, đó là Phật chỉ về phần “bản thể” mà nói. Ông Phú Lâu Na
nghi nước, lửa v.v... trái nhau, làm sao đều biến khắp được.
Thế là ông Phú Lâu Na đứng về phần “hiện tượng” mà hỏi.
- Về
phần hiện tượng thì có chướng ngại, còn bản thể thời không bao
giờ chướng ngại.
- *
-
II.
PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI THỨ NHẤT
-
Phật day: Này Phú Lâu Na, như lời ông
hỏi: “Chơn tâm đã vốn thanh tịnh, tại sao lại sanh ra sơn hà
đại địa, thế giới và chúng sanh”.
-
Vậy ông có thường nghe ta nói: “Chơn
tâm nhiệm - mầu vắng - lặng mà thường sáng suốt chiếu soi”
không? (Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu)
-
Phú Lâu Na thưa: Bạch Thế Tôn, con có thường nghe
Phật dạy như thế.
-
Phật hỏi: Vậy chơn tâm này, ông cho nó tự có tánh
sáng suốt chiếu soi (phân biệt) hay là không có sáng suốt chiếu
soi?
-
Phú Lâu Na thưa: Vì nó sẵn có tánh sáng suốt chiếu
soi (phân biệt) nên mới gọi là tâm. Nếu nó không có tánh sáng
suốt chiếu soi (phân biệt) thì không gọi là tâm, vì nó không
phân biệt được cái gì cả.
-
Phật dạy: Như lời ông nói: “Nếu nó không sáng suốt
chiếu soi (phân biệt) thì không phải là tâm, vì nó không phân
biệt được cái gì cả”. Vậy ông có hiểu chăng: nếu có chiếu soi
phân biệt, thì không phải là chơn (vì có năng phân biệt thì phải
có bị phân biệt), còn không có chiếu soi phân biệt, thì chắng
phải là tâm. Nếu tâm mà không sáng suốt thì không phải là chơn
tâm thanh tịnh rồi.
-
Ông nên hiểu: Chơn tâm vẫn sáng suốt, vì ông vọng
chấp cái “sáng suốt phân biệt” làm tâm, nên thành ra có năng
phân biệt (tâm) và bị phân biệt (cảnh).
-
Chơn tâm của ông không phải cái “bị phân biệt”,
nhưng vì ông khởi ra cái “năng phân biệt”, nên nó (chơn tâm) trở
lại thành cái “bị phân biệt” (cảnh). Ðã vọng thành cái “bị
phân biệt”, cố nhiên ở nơi ông phải vọng sanh ra cái “năng phân
biệt”.
-
Thế là ở nơi chơn tâm của ông vẫn thanh tịnh không
có năng và sở, mà thoạt nhiên thành ra có năng và sở (vô đồng dị
trung, xí nhiên thành dị)
-
LƯỢC GIẢI
-
Ðại ý đoạn này Phật chỉ cái nguyên
nhân từ chơn tâm thanh tịnh, vì vọng động nổi lên nên sanh ra có
thế giới và chúng sanh.
-
Chơn tâm thanh tịnh mỗi người đều sẵn
đủ. Nếu chấp nó “không có phân biệt” thì chẳng phải là tâm; còn
chấp nó “có phân biệt” thì chẳng phải là chơn.
-
Bởi ông Phú Lâu Na chấp cái “phân biệt
chiếu soi” làm tâm, nên đã có cái phân biệt, cố nhiên phải có
cái bị phân biệt. Thế là năng, sở vừa hiện, thì bỉ và thử rõ
ràng.
-
Ðây là Phật chỉ cái hành tướng của
vọng, từ nơi tâm của mọi người khởi lên một cách rõ ràng.
-
Một vọng niệm vừa nổi lên, thì có trăm
ngàn vọng niệm khác tiếp tục theo sanh ra, cho đến vô cùng tận.
Nhơn đó mà có hư không, thế giới và chúng sanh đồng thời hiện
ra. Cũng như người đương thức (dụ chơn tâm) bỗng chốc buồn ngủ
nổi lên, (dụ vô minh vọng động) chiêm bao thấy có núi sông, nhà
cửa các cảnh vật hiện ra (dụ hư không, thế giới và chúng sanh).
- *
-
III.
PHẬT CHỈ NGUYÊN NHÂN CHÚNG SANH
RA HƯ KHÔNG, THẾ GIỚI VÀ CHÚNG SANH
-
Từ một thể chơn tâm không khác, vì
vọng niệm phân biệt, có năng sở, bi thử sai khác, nên hiện ra có
hư không và thế giới. Nhơn có hư không thế giới nên mới có
chúng sanh. Ðã có thế giới nên mới có chúng sanh. Ðã có thế
giới và chúng sanh lăng xăng đối đãi nhau, nên khởi lên vô số
vọng tưởng phân biệt: tốt, xấu, phải, chẳng v.v... Vì thế mà
sanh ra đủ các phiền não trần lao nhiễm ô. Cái có hình tướng và
sanh diệt là thế giới, cái không hình tướng và yên tịnh là hư
không; khác với hư không, thế giới là chúng sanh vậy.
-
-
IV.
PHẬT CHỈ CHỈ NGUYÊN NHÂN RIÊNG
VÀ TUẦN TỰ SANH RA VŨ TRỤ
-
1.
NGUYÊN NHÂN SANH GIÓ
- Từ nơi
chơn tâm, do vô minh vọng động mà có hư không. Hư không mờ mịt
vì vô minh sanh. Trong “hư không” có chất động, vì là vọng.
Bởi thế nên trong hư không có gió (phong luân) để duy trì thế
giới.
-
2.
NGUYÊN NHÂN SANH RA VÀNG NGỌC
-
Nhơn hư không sanh ra gió, và vì nơi
tâm chúng sanh có tánh cố chấp phân biệt, cho nên ứng hiện ra
ngoài thế giới có những chất cứng chắc là vàng ngọc (vàng ngọc
cứng chắc là vì tâm cố chấp sanh. Nó sáng ngời là do tâm phân
biệt sanh). Ðây là nguyên nhân có chất kim khí để bảo trì thế
giới.
-
3.
NGUYÊN NHÂN SANH RA LỬA
-
Trong tâm chúng sanh vì có tánh cố
chấp phân biệt nên sanh ra chất cứng chắc là kim khí, và vì có
vọng động mà thành ra gió. Rồi gió thổi kim khí, nó cọ xát mãi,
nóng lên, nên nháng sanh ra ánh sáng là lửa. Ðây là cái nguyên
nhân có lửa để nấu đốt các vật.
-
4.
NGUYÊN NHÂN SANH RA NƯỚC
-
Chất vàng ngọc vừa sáng ngời và đượm
mát. Nhơn lửa xông lên, nên có hơi nước rịn ra. Ðây là cái
nguyên nhân có nước để bao bọc cả mười phương thế giới.
-
LƯỢC GIẢI
-
Vì tâm vọng đọng nên biến hiện ra ngoài thế giới có
gió. Vì tâm cố chấp, cho nên biến hiện ra ngoài thế giới có
vàng ngọc. Vì tâm nóng nảy, nên biến hiện ra ngoài thế giới có
lửa. Vì tâm tham ái, cho nên biến hiện ra ngoài thế giới có
nước.
-
5.
NGUYÊN NHÂN SANH RA CỒN ÐẢO VÀ
BIỂN
- Vì
tánh lửa bốc lên, còn nước thì lại chảy xuống, nên có chỗ thấp
ướt là sông biển, chỗ nổi lên cao là cồn đảo. Bởi lửa và nước
dung hòa nhau, cho nên trong biển thỉnh thoảng bốc lên ánh sáng
của lửa, trong cồn đảo lại có sông rạch thường chảy ra nước.
-
LƯỢC GIẢI
-
Trong bộ Tông cảnh nói: “Vì tâm luyến ái nên ứng
hiện ra ngoài thành sông biển. Vì tâm cố chấp nên ứng hiện ra
ngoài thành cồn đảo, tâm khinh mạn thành ra gió, tâm nóng nảy,
sân hận thành lửa. Bởi thấy sắc dục sanh tâm luyến ái, nên hiện
ra ngoài thế giới: Trong cồn đảo có nước thường chảy. Ví trái
với sự thương yêu thì nổi sân, nên hiện ra ngoài thế giới: trong
biển có lửa phát lên. Tóm lại, bốn đại đều duy tâm biến hiện
(dụ như chiêm bao, nếu ban ngày nghĩ tưởng cái gì, thì ban đêm
hiện ra cảnh ấy).
- *
-
6.
NGUYÊN NHÂN SANH RA NÚI
-
Vì thế lực của nước yếu hơn lửa, nên
bị lửa bốc lên kết hành núi cao. Bởi thế nên đập đá thì có lửa,
còn đốt quá nóng, thì nó chảy ra nước.
-
LƯỢC GIẢI
-
Vì tâm giận nhiều thương ít, nên ứng
hiện ra ngoài thế giới có núi cao.
-
7.
NGUYÊN NHÂN SANH RA CỎ CÂY
-
Vì thế lực của đất yếu hơn nước, cho
nên bị nước rút lên làm cỏ cây. Bởi thế nên cỏ cây, nếu bị đốt
thì thành tro (đất) còn ép thì nó lại ra nước.
-
LƯỢC GIẢI
-
Vì tâm thương yêu nặng nề, tánh cố
chấp ít, nên ứng hiện ra ngoài thế giới thành cỏ cây.
- *
-
Tóm lại, vì ở trong tâm chúng sanh,
các vọng tưởng xen nhau phát sanh, nên ứng hiện ra ngoài thế
giới có các cảnh vật. Bởi nhân duyên này mà thế giới nối nhau
sanh mãi không dứt.
-
V.
PHẬT CHỈ NGUYÊN NHÂN CÓ CHÚNG
SANH (NHƠN SANH)
-
Ông Phú Lâu Na, cái “hư vọng phân
biệt” đó không có gì lạ, chỉ vì ông chấp cái “phân biệt chiếu
soi” làm tâm. Ðã có phân biệt, tất nhiên phải có cái “bị phân
biệt” đối đãi nhau. Vì thế nên cái “năng phân biệt” không vượt
ngoài cảnh “bị phân biệt” được. Do nhân duyên này, nên nghe
không ngoài tiếng, thấy không ngoài sắc, ngửi không ngoài mù,
nếm không ngoài vị v.v... vọng thành 6 căn và 6 trần đối nhau,
nên phân ra có: thấy, nghe, hay, biết.
-
Rồi theo nghiệp lực kéo dẫn, cho nên
có những loài sanh con (như người và thú) loài sanh trứng (như
chim và cá) loài sanh chỗ ẩm ướt (như vi trùng v.v...) loài hóa
sanh (như trời và địa ngục)
-
Thần thức khi đầu thai, nhơn thấy ánh
sáng (lửa dục) của cha mẹ phát ra, rồi nó khởi ra cái “tưởng”
chung chạ làm việc dục ấy. Nếu nó sẽ là trai thì ưa mẹ mà ghét
cha, còn nó sẽ là gái thì thương cha mà ghét mẹ. Vì tình lưu
luyến nơi ái dục không rời được, nên nó tự kết nạp tư tưởng của
nó với tinh huyết của cha mẹ khi giao cấu đó, kết thành ra
thai. Vì có nhân duyên với nhau và đồng nghiệp kéo dẫn, nên kết
thành thai nghén. Loài sanh thai, sanh trứng, sanh nơi ẩm thấp,
hoặc sanh đều tùy theo nghiệp của mỗi loài mà cảm ứng.
-
Loài sanh trứng là do nơi tưởng nhiều,
loài sanh thai là do nơi tình nặng, loài thấp sanh là do hiệp
với chỗ ẩm thấp, loài hóa sanh thì rời cảnh vật tự nó hóa hiện.
Bốn loài biến đổi, tùy theo nghiệp lành hay dữ mà cảm thọ quả
báo có thăng và trầm. Do nhân duyên ấy mà chúng sanh bỏ thân
này thọ thân kia, nối nhau không dứt.
-
VI.
PHẬT CHỈ NGUYÊN NHÂN CHÚNG SANH
TIẾP TỤC SANH
-
1.
Tham dục: Này Phú Lâu Na,
chúng sanh vì tình ân ái kết chặt, thương tưởng quyến luyến nhau
không rời, cho nên trong thế gian, cha mẹ, con cháu tiếp tục
sanh ra không cùng tột, gốc tại lòng tham dục vậy.
-
2.
Tham sát: Loài nào cũng thương
yêu thân mạng, muốn cho mình được sống nên tham ăn những vật bổ
dưỡng. Vì thế mà trong thế gian này, loài mạnh ăn thịt loài
yếu, loài khôn giết loài dại. Bốn loài (noãn, thai, thấp, hóa)
ăn nuốt lẫn nhau, gốc tại lòng tham sát hại.
-
3.
Tham trộm cướp: Bởi loài người
ăn thịt loài vật, loại vật trở lại ăn thịt người. Người chết
làm vật, vật chết làm người, các loài chúng sanh, sanh sanh tử
tử, nối tiếp nhau. Các ác nghiệp đã tạo ra rồi, thì cùng nhau
vay trả, cho đến nghìn đời không tột, gốc tại lòng tham lam trộm
cướp.
-
LƯỢC GIẢI
-
Loài vật, chúng nó không muốn cho người giết thân
mạng nó, mà người lại ỷ sức mạnh giết hại để ăn, thế nên phạm
tội cướp giựt. Có vay cố nhiên phải có trả; nên giết hại không
những phạm tội sát sanh, mà còn phạm cả tội cướp giựt.
- *
-
Loài này cướp giựt thân mạng loài kia,
loài kia giết hại loài này; trả vay, vay trả lẫn nhau, đến trăm
ngàn kiếp không ra khỏi sanh tử.
-
Trai mê sắc gái, gái thương tình trai, vì tình ân ái
thương yêu lẫn nhau, nên trăm ngàn kiếp bị phiền trược trong
vòng luân hồi.
-
Tóm lại, vì ba nghiệp sát, đạo, dâm làm gốc, nên
nghiệp (nhơn) và quả nối nhau, không bao giờ cùng tận.
-
Này ông Phú Lâu Na, thế giới, chúng sanh và nghiệp
quả ba món điên đảo tương tục này đều ở trong chơn tâm, vì vô
minh vọng động sanh ra “năng phân biệt” và “sở phân biệt” tương
đối, nên vọng thấy có sơn hà đại địa, thế giới và chúng sanh,
rồi tiếp tục sanh hóa, vô cùng hư vọng.
-
VII.
PHÚ LÂU NA HỎI TIẾP: CHƯ PHẬT
ÐÃ CHỨNG ÐƯỢC CHƠN TÂM THANH TỊNH RỒI, VẬY CHỪNG NÀO NỔI VỌNG
TRỞ LẠI
-
Ông Phú Lâu Na hỏi Phật: Bạch Thế
Tôn, cái chơn tâm của con đã cùng với Phật không khác, vốn thanh
tịnh không tăng không giảm; bỗng nhiên vọng động nổi lên, sanh
ra thế giới và chúng sanh. Vậy các đức Như Lai đã chứng được
chơn tâm ấy rồi, chừng nào vô minh vọng động nổi lên, sanh trở
lại thế giới và chúng sanh nữa?
-
VIII.
PHẬT DÙNG BA THÍ DỤ ÐỂ GIẢI
THÍCH
-
1.
DỤ NHƯ NGƯỜI LẦM PHƯƠNG HƯỚNG
ÐỂ CHỈ RÕ NGỘ RỒI KHÔNG MÊ TRỞ LẠI
-
Phật dạy rằng: Này Phú Lâu Na, như
người lầm phương hướng, tưởng phía
Nam
là phía Bắc. Ông nghĩ sao, cái “mê lầm” ấy nhơn mê mà có, hay
nhơn ngộ mà sanh? Này Phú Lâu Na, không phải nhơn ngộ, mà cũng
không phải nhơn mê. Vì sao? Cái mê không có căn nguyên, thì
làm sao nói nhơn mê mà có. Còn ngộ không thể sanh ra mê được
thì sao lại nói nhơn cái ngộ mà sanh.
-
Phú Lâu Na, người kia đương lúc đi lầm
đường, nếu có người biết đường chỉ lại cho họ: đây là phía Nam,
kia là phía Bắc v.v... Vậy từ đó về sau học còn lầm lộn nữa
không?
-
Phú Lâu Na thưa: Bạch Thế Tôn, người
kia không còn lầm lộn nữa.
- Phật
dạy: Này Phú Lâu Na, mười phương các đức Như Lai cũng vậy, khi
ngộ được chơn tâm thành Phật rồi, thì không bao giờ mê trở lại
làm chúng sanh nữa. Vì cái mê lầm không thật, rốt ráo chẳng có
gốc rễ. Trước kia vốn không mê, nhưng in tuồng có cái trong cái
ngộ (như đám mây che mặt nhựt). Ðến khi giác ngộ được cái mê,
thì cái mê kia tự diệt; cái “giác ngộ” ấy không sanh trở lại cái
mê nữa.
-
2.
DỤ NHƯ HOA ÐỐM GIỮA HƯ KHÔNG
KHI DIỆT RỒI KHÔNG CÒN SANH TRỞ LẠI
-
Lại nữa, cũng như người bị nhặm con
mắt, thấy có đốm hoa lăng xăng giữa hư không. Ðến khi hết nhặm
rồi thì hoa kia tự hết. Nếu người ấy còn nhìn lại chỗ các hoa
đốm diệt ở nơi hư không kia để trông mong cho hoa sanh trở lại,
nếu như ông thử nghĩ, người đó khôn hay dại?
-
Phú Lâu Na thưa: Hư không không có
hoa đốm, mà vọng thấy có hoa đốm sanh diệt, thế đã là điên đảo
rồi, huống nữa, trông mong nó sanh trở lại, thật người ấy điên
đảo lắm, không còn nói dại hay khôn nữa được.
-
Phật nói: Ông đã hiểu như vậy, tại
sao còn hỏi: “Như Lai đã ngộ được chơn tâm thanh tịnh rồi, vậy
chừng nào nổi vọng trở lại, sanh ra sơn hà đại địa nữa?”
-
3.
DỤ NHƯ VÀNG VÀ CỦI
-
Cũng như vàng trong mỏ, khi đào lên đã
lọc hết khoáng thành vàng ròng rồi, lúc bấy giờ không còn trở
lại làm khoáng nữa. Và cũng như cây đốt thành tro, không thể
trở lại thành cây nữa được.
-
Chư Phật cũng thế, khi chứng được Bồ
đề Niết Bàn rồi, không còn vọng động trở lại làm chúng sanh
nữa.
-
IX.
PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI THỨ HAI
-
Phật nói: Phú Lâu Na, như lời ông
hỏi: “nước và lửa tại sao chẳng diệt nhau, trái lại được dung
hòa cùng nhau và đều biến khắp cả vũ trụ? Hư không với đất tánh
chất không đồng, tại sao dung biến được?”
-
Này Phú Lâu Na! Tất cả các pháp xem
về tướng (hiện tượng) của nó, nguyên là hư vọng, không thể chỉ
bày cái gì thật là cái gì được. Nó đã hư vọng không thật mà ông
lại còn hỏi “tại sao nó chẳng diệt nhau”. Như thế chẳng khác
nào người ngồi trông đợi cho cái hoa đốm giữa hư không kia kết
đậu thành ra trái, thì làm sao mà kết đậu cho được!
-
LƯỢC GIẢI
-
Như cá hình chớp bóng chiếu trên miếng vải trắng,
bởi nó không thật, nên không cái nào ngại cái nào cả.
- *
-
Còn xem về tánh (bản thể) của các pháp, thì nguyên
nó là chơn. Duy có một thể chơn tâm, nguyên không phải đất,
nước, gió, lửa, thì sao lại chẳng dung hòa nhau được.
-
X.
PHẬT CHỈ CHƠN TÂM TÙY DUYÊN
BIẾN HIỆN
-
Phú Lâu Na! Chơn tâm của ông như thế,
nếu ông phân biệt hư không thì có hư không hiện ra, phân biệt
đất, nước, gió, lửa, thì đều có đất, nước, gió, lửa hiện ra.
-
Cũng như hai người đồng xem một mặt
trăng dưới nước. Rồi một người đi qua phía đông và một người đi
qua phía tây, thì hai người đều thấy có mặt trăng đi theo mình
cả, không có chuẩn định.
-
Ông không thể hỏi: “Mặt trăng chỉ
một, tại sao đi theo cả hai người”; hay là nói “hai người đi
riêng đều thấy có hai mặt trăng, tại sao hiện nay chỉ thấy có
một” (Khi hai người đứng chung một chỗ).
-
Phú Lâu Na! Ông nên biết: Vì các
pháp hư huyễn, không thể lấy đâu làm bằng cứ được.
-
XI.
CHÚNG SANH TRÁI VỚI CHƠN TÂM
SÁNG SUỐT VÀ HIỆP THEO VỌNG TRẦN
-
Phú Lâu Na! Các ông vì trái với chơn
tâm sáng suốt, mê muội hiệp theo vọng trần, nên chơn tâm tùy
duyên biến hiện ra có hư không thế giới, các thứ trần lao trong
thế gian, cùng khắp cả pháp giới. Vì thế nên ông thấy có gió
động, hư không lặng, mặt nhựt sáng, mây mờ, sắc tướng và hư
không lấn nhau, nước và lửa diệt nhau v.v...
-
XII.
PHẬT HIỆP VỚI CHƠN TÂM SÁNG
SUỐT
-
Còn ta (Phật) thì trái với vọng trần,
hiệp với chơn tâm thường trụ bất sanh bất diệt, biến khắp cả
pháp giới. Cho nên ta mới được tự tại vô ngại: Ở trong một
hiện ra vô lượng, vô lượng hiệp làm một, trong nhỏ hiện lớn,
trong lớn hiện nhỏ; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười
phương thế giới. Thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận.
Trên đầu một mảy lông hiện ra các cõi nước; ngồi trong hạt bụi,
mà chuyển đại pháp luân. Vì ta diệt hết vọng trần, trở lại với
bản tâm thanh tịnh sáng suốt, nên mới được như vậy.
-
LƯỢC GIẢI
-
Vì Phật đã ngộ chơn tâm thanh tịnh,
nên mới được tự tại vô ngại, không còn bị các vật lớn, nhỏ,
nhiều, ít v.v... làm chướng ngại.
-
Trái lại, chúng sanh vì mê chơn tâm,
hiệp theo vọng trần nên thấy có các vật lớn, nhỏ, rộng, hẹp
chướng ngại.
-
Bởi tâm có chướng ngại (vọng phân
biệt) nên thấy ngoài trần cảnh có chướng ngại. Nếu trong tâm
hết chướng ngại (không vọng) thì không còn thấy có một vật gì
làm chướng ngại cả.
--o0o--
|
|