-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
-
Mục Lục Khóa Thứ
bảy
-
Triết Lý Ðạo
Phật hay là
Ðại Cương Kinh Lăng Nghiêm
-
(tiếp theo)
-
--- o0o ---
- Bài thứ Ba
-
-
Mục Lục
-
I.
A Nan thuật lại chỗ mình đã ngộ
và thỉnh Phật chỉ dạy phương pháp tu hanh để nhập chơn tâm
-
II. Phật chỉ dạy phương pháp tu
-
III. Nghĩa quyết định thứ nhứt
-
IV. Nghĩa quyết định thứ hai
-
V. Vì vọng nổi lên nên chơn tâm bị ẩn
-
VI. Xoay vọng về chơn thì sáu căn được
tự tại
-
VII. Dẫn chứng các vị thấy, nghe, hay,
biết được tự tại, không còn bị cuộc hạn nơi căn
-
VIII. A Nan nghi: các giác quan hiện
tiền là vọng, tại sao Phật lại dây nương nơi đó làm nhơn địa tu
hành, để chứng đặng quả Phật chơn thật
-
IX. Phật bảo đánh chuông để chứng
nghiệm “tánh nghe” thường còn
-
X. Phật chỉ khi ngủ, cái “nghe” cũng
không mất
---o0o---
-
I.
A Nan thuật lại chỗ mình đã ngộ
và thỉnh Phật chỉ dạy phương pháp tu hanh để nhập chơn tâm
-
Ông A Nan và đại chúng được Phật dạy bảo rất
tường tất, nên các điều nghi lầm đã trừ hết, ngộ được chơn tâm
(thật tướng), nhưng chưa biết làm sao chứng nhập, nên các ông
cúi đầu lạy Phật, chắp tay kính cẩn thưa rằng:
-
Bạch Thế Tôn, Ngài đã dùng đủ phương tiện dẫn
dắt chúng con ra khỏi sông mê bể khổ. Hôm nay, chúng con tuy ngộ
được chơn tâm của mình, biến khắp cả mười phương thế giới, nhưng
còn bị Như Lai quở trách, học nhiều mà không tu, chẳng bẳng
người lo tu tập.
- Nay chúng con cũng
như người bần cùng vất vả, được vị Thiên Vương ban cho cái nhà
lầu tốt đẹp, song chưa biết làm sao vào nhà. Cúi xin đức Như Lai
chỉ dạy cho chúng con, được vào tri kiến của Phật
(chứng nhập chơn tâm).
-
II.
Phật chỉ dạy phương pháp tu
- Phật dạy A Nan và
đại chúng: Các ông nếu phát tâm Bồ đề, đối với các pháp môn tu
hành chí quyết tăng tấn, tâm không giải đãi thì khi mới phát
tâm, trước phải phân biệt rành rõ hai nghĩa quyết định.
-
III.
Nghĩa quyết định thứ nhứt
- Này A Nan!
Các ông muốn bỏ Tiểu thừa Thinh văn, tu theo Ðại thừa Bồ tát,
vào tri kiến của Phật, thì trước phải quan sát cái nhơn địa phát
tâm cùng với quả vị sẽ chứng là đồng hay khác?
- Nếu các ông
dùng cái vọng tâm sanh diệt làm nhơn tu hành, mà mong cầu cho
đặng quả Phật, thường còn không sanh diệt thì không thể được.
Ðây là điều quyết định thứ nhứt.
- LƯỢC GIẢI
- Ðoạn trước
Phật đã dạy: nếu dùng vọng tâm làm tu nhơn, mà muốn đặng quả
thường trụ, thì như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trải
qua bao nhiêu kiếp cũng không thể được. Hành giả phải an trụ
nơi chơn tâm làm nhơn địa tu hành, thì mới đặng quả Phật bất
sanh bất diệt.
- *
- A Nan! Ông
hãy xét coi: trong thế gian những vật gì có làm ra, đều phải
hoại diệt, chứ chưa từng nghe cái hư không có hoại diệt bao giờ,
vì hư không không phải là vật bị làm ra vậy (hư không dụ chơn
tâm, các vật là dụ vọng tâm có sanh diệt)
- Xét lại trong thân ông, những
vật cứng dẻo (da, thịt, gân, xương) là đất; nhug vật đượm ướt
(máu, huyết, mồ hôi, mỡ) là nước; chất ấm, nóng trong người
thuộc về lửa; những vật lưu động (hơi thở ra vào) là thuộc về
gió. Do bốn món này nó phiền phược và phân chia cái chơn tâm
của ông, thành ra có thấy, nghe, hay, biết, từ thì chí chung năm
lớp ngầu đục (ngũ trược).
- Tỷ dụ như
nước trong sạch có người lấy bụi đất quăng vào, thì đất sẽ mất
chất cứng, còn nước mất chất trong sạch, trở thành ngầu đục, nên
gọi là ô trược.
- A Nan! Nay
ông muốn cho cái thấy, nghe, hay, biết (các giác quan) trở lại
để hiệp với bốn đức Niết bàn của Như Lai: thường, lạc, ngã,
tịnh, thì trước ông phải lựa ra cái gốc rễ sanh tử (vọng tâm) và
y theo chơn tâm thanh tịnh viên mãn bất sanh bất diệt làm nhơn
địa tu hành.
- LƯỢC GIẢI
- Vì còn ở
trong vòng mê nên gọi là các giác quan: thấy, nghe, hay, biết;
đến khi ngộ rồi thì các giác quan này trở lại thành bốn đức Niết
bàn: thường, lạc, ngã, tịnh.
- Chúng ta cũng
nên phân biệt cho rõ nghĩa: 1. chơn tâm, 2. các giác quan, 3.
vọng niệm phân biệt. Như nước biển trong veo, (dụ chơn tâm)
chảy vào các sông ngòi lẫn lộn bùng đục (dụ cho chơn tâm lưu lộ
nơi các căn, thành các giác quan; “đục” là dụ còn ở nơi mé) nổi
sóng ba đào (dụ cho vọng niệm phân biệt)
- *
- Các ông hãy
xoay cái hư vọng sanh diệt trở lại chơn tâm thanh tịnh không
sanh diệt; phải lấy chơn tâm không sanh diệt này làm nhơn địa tu
hành, thì sau mới chứng được quả Phật thường trụ.
- Cách tu hành
cũng như lóng nước. Nước đục để yên tịnh trong một cái bình, để
lâu thì những bụi cát từ từ chìm lặn, mà nước trong hiện ra; hễ
càng yên ti6nh thì nước càng trong. Ðây là dụ cho giai đoạn thứ
nhứt, khi mới hành phục được phiền não khách trần (phiền não vừa
lặng). Ðến chừng lọc bỏ cặn đục chỉ còn toàn là nước trong, là
dụ cho giai đoạn thứ hai, khi đã đoạn trừ căn bản vô minh.
- Ðến khi chỉ
còn hoàn toàn là nước trong, thì dù lắc cho mấy nó cũng vẫn
trong. Còn khi đoạn được căn bản vô minh, chỉ còn chơn tâm
thanh tịnh hiện tiền, lúc bấy giờ dầu có tạo tác thi vi làm đủ
mọi việc, song cũng đều là chơn, vẫn hiệp với đức tánh thanh
ti6nh mầu nhiệm của Niết bàn, không còn bị phiền não nhiễu loạn.
- LƯỢC GIẢI
- Ðoạn này hay
lắm; Phật dạy lối tu rất rõ ràng và thật tế. Hiệp với đoạn
trước Phật dạy: “khi đối cảnh không khởi phân biệt, thì vọng
niệm chẳng sanh. Vọng niệm không sanh thời chơn tâm tự hiện”.
- Cũng như nước
đứng trong, thì cặn cáu lóng chìm. Lóng càng lâu thì nước càng
trong. Ðến khi dứt sạch căn bản vô minh, chỉ còn toàn thể chơn
tâm, thì hành động thi vi chi cũng đều là thanh tịnh. Nên kinh
nói: “Như Lai án túc hải ấn phát quang v.v..” (Phật vừa để chơn,
thì biển trogn in ánh sáng). Như nước đã lọc bõ cặn rồi thì lắc
mấy cũng vẫn trong. Ðoạn này cũng chỉ rõ cái nghĩa “thành Phật
rồi không trở lại làm chúng sanh”.
- Các đạo khác tu hành dẫu cao
siêu cho mấy, chẳng qua cũng như nước lóng mà chưa lọc bỏ được
cặn. Lâu lâu phiền não nổi lên, thì phải đọa trở lại, nên gọi
là hữu lậu (còn sa rớt).
- *
-
IV.
Nghĩa quyết định thứ hai
- A Nan, các
ông phát tâm dõng mãnh, quyết định dẹp trừ các tướng hữu vi, cầu
quả đại thừa, thì cần phải xét rõ gốc rễ của phiền não: từ vô
thỉ đến nay, cái nào là phát nghiệp vô minh (bất giác vọng động)
cái nào nhuận sanh vô minh (ái, thủ) cái gì tạo (lục thức), cái
gì lãnh thọ (bát thức). Ðây là nghĩa quyết định thứ hai.
- Các ông tu
đạo Bồ đề, nếu không xét rõ gốc rễ của phiền não, thì đối với
căn và trần hư vọng này, không thể biết được cái “điên đảo” ở
chỗ nào. Cái chỗ ở còn không biết thời làm sao hàng phục được
giặc phiền não để chứng quả Phật.
- Các ông hãy
xem trong thế gian, những người mở gút, nếu họ chẳng thấy được
mối, thì không mong gì mở được. Chưa từng nghe cái hư không bị
ai mở được, vì hư không vô hình chẳng có gút và mở vậy (hư không
dụ cho chơn tâm).
- Ông nên hiểu:
hiện tiền sáu căn của ông đây: mắt, tai, ũi, lưỡi, thân và ý,
chúng làm mai mối cho sáu giặc (sáu thức), đến cướp giựt của báu
nhà ông. Bởi thế nên các ông cùng tất cả chúng sanh, từ vô thie
đến nay bị triền phược trong vòng luân hồi, không vượt ra ngoài
ba cõi được.
- LƯỢC GIẢI
- Vì sáu căn
làm mai mối, dẫn chúng sanh ra sáu thức là lục tặc, cướp hại
chơn tánh. Nghĩa là vì căn đối với cảnh, khởi vọng niệm phân
biệt, nên chơn tâm phải bị mờ. Cũng như gió xao động, cặn cáu
nổi lên, nên tánh nước trong phải ẩn.
-
*
-
V.
Vì vọng nổi lên nên chơn tâm bị
ẩn
- Này A Nan,
sáu căn của ông như vậy, do vô minh vọng động nổi lên, nên chơn
tâm bị ẩn. Từ đây về sau, mỗi khi chiếu soi thì gồm cả vọng đều
phát.
- Bởi thế nên
rời tối và sáng, thời mắt ông không thấy, rồi động và tịnh thì
tai ông không nghe, rồi thông và nghẹt thì mũi ông không ngửi,
rồi các vị ra thời lưỡi ông không nếm, rời các xúc trần thì thân
ông không biết, rời cả pháp trần thì ý ông không phân biệt.
-
VI.
Xoay vọng về chơn thì sáu căn
được tự tại
- Chỉ sáu căn
của ông không theo sáu trần cảnh khởi vọng niệm phân biệt, tùy
ông mở gút (vọng nhiễm) được một căn nào thì các căn đều được
giải thoát. Nghĩa là ngoài không cùng với trần cảnh gút chặt,
trong thâu phục phiền não trở lại với chơn tâm sáng suốt, thì
năm căn bị gút chặt kia cũng đều được hoàn toàn giải thoát. Lúc
bấy giờ sáu căn tự tại, thay nhau cần dùng, các giác quan: thấy,
nghe, hay, biết, không còn bị cuộc hạn nơi các căn: mắt, ai,
mũi, lưỡi v.v... chỉ nương các căn phát ra tác dụng; không cần
có trần cảnh đối chiếu mà cũng vẫn thấy, nghe, hay, biết.
-
VII.
Dẫn chứng các vị thấy, nghe,
hay, biết được tự tại, không còn bị cuộc hạn nơi căn
- A Nan! Ông
đã thấy trong hội này, như ông A Na Luật Ðà không có con mắt mà
vẫn thấy. Rồng Bạt Nan Ðà không lỗ tai mà vẫn nghe. Thần nữa
Căn đà không lỗ mũi mà ngửi được mùi. Ông Kiều Phạm Bác Ðề cái
lưỡi không phải lưỡi người, mà biết được các món ăn của người.
Ông Thần Thuấn Nhã Ða không có thân mà vẫn biết xúc. Ông Ma Ha
Ca Diếp tu diệt tận định, dứt trừ ý căn đã lâu, mà vẫn phân biệt
được rõ ràng.
- A Nan! Hiện nay các
căn của ông nếu hoàn toàn gỡ hết cái gút chặt nơi trần cảnh
(không theo trần cảnh phân biệt) trong chinh phục được phiền
não, trở về với chơn tâm rồi thì hiện tiền thân căn và thế giới
đây đều không còn; cũng như nước nóng băng tan, ông liền chứng
được quả Phật.
- A Nan! Như người
thế gian, cái thấy của họ chỉ gom ở con mắt. Nếu bảo họ nhắm
mắt lại, thì hiện tiền tối đên, sáu căn mờ mịt, đầu chân in
nhau. Người kia lấy tay rờ khắp cả thân thể, tuy mắt họ không
thấy, mà cũng vẫn biết đâu là đầu và đâu là chân; cái hiểu biết
đồng nhau (đây cũng là một bằng chứng: các giác quan chẳng bị
cuộc hạn nơi căn và trần).
- A Nan, nhơn sáng mới
thấy, nếu tối thời không thấy. Nay không cần sáng mà cũng thấy
biết, như thế thì cái tối kia không thể làm mờ (mất) cái “thấy
biết” của ông được. Căn và trần các vọng đã tiêu rồi, thì liền
trở lại với chơn tánh.
-
VIII.
A Nan nghi: các giác quan hiện
tiền là vọng, tại sao Phật lại dây nương nơi đó làm nhơn địa tu
hành, để chứng đặng quả Phật chơn thật
- A Nan thưa:
Bạch Thế tôn, như lời Phật dạy: “Muốn câu quả Phật thường còn,
thì cái nhơn địa phát tâm tu hành phải chơn thật, mới chứng được
quả vị chơn thật”.
- Bạch Thế
tôn! Bồ đề, Niết bàn, Chơn như, Pháp tánh, Yêm ma la thức,
Không Như Lai tạng và Ðại viên cảnh trí, bảy danh từ tuy khác,
chớ cũng đồng một quả Phật thanh tịnh thường còn không hoại.
- Còn cái thấy, nghe,
hay, biết, các giác quan của con đây, nếu rời các trần cảnh hiện
tiền: tối, sáng, động, tịnh, v.v…, thời không còn thấy, nghe,
hay, biết nữa. Quanh quẩn tới lui, chín chắn suy tìm, thì cái
tâm của con hoàn toàn không chơn thật. Tại làm sao Phật dạy lấy
cái hư vọng đoạn diệt này làm nhơn tu, để cầu quả Phật thường
còn không sanh - diệt cho được. Vậy thì lời nói của Phật trước
sau trái nhau, làm sao gọi là “Như Lai nói thật”, xin đức Từ
tôn, từ bi vén mở chỗ mê mờ cho chúng con.
-
IX. Phật bảo
đánh chuông để chứng nghiệm “tánh nghe” thường còn
- Phật dạy: A Nan, ông
tuy học rộng, nghe nhiều, nhưng các phiền não hữu lậu (mê lầm)
chưa hết, nên ông chỉ biết suông cái tên “điên đảo”. Ðến lúc cái
“điên đảo” thật hiện tiền, thì ông lại không biết. Như thế thì
sự tin hiểu của ông chưa được chắc chắn. Tôi nay đem những việc
thường trong đời, để trừ các nghi lầm cho ông.
- Khi đó Phật liền bảo
ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A Nan rằng:
- -Ông có nghe không?
- A Nan thưa: Nghe.
- Ðến lúc chuông hết
ngân, Phật lại hỏi:
- Ông có nghe không?
- A Nan thưa: Không
nghe.
- Phật lại bảo ông La
Hầu La đánh một tiếng chuông nữa và hỏi: Ông có nghe không?
- A Nan đáp: Nghe.
- Phật hỏi: Thế nào là
nghe và thế nào là không nghe?
- A Nan thưa: Vì đánh
chuông có tiếng ngân, nên con nghe, đến khi tiếng chuông hết
ngân thì con không nghe.
- Phật dạy: A Nan! Khi
tiếng chuông hết ngân, ông nói rằng: “không nghe”; nếu ông that
không có “cái nghe” thì ông đồng như cây đá, tại sao khi đánh
tiếng chuông thứ hai, ông lại có nghe?
- Vậy cho biết: cái
“tiếng” (cảnh) khi có khi không, chớ cái “nghe” (tâm) của ông
lúc nào cũng có. Nếu cái “nghe” của ông thật không, thì cái gì
biết được “không nghe” đó?
- Thế nên ông phải
biết: cái “tiếng” đối với cái “tiếng” nó tự sanh và diệt, chớ ở
cái “nghe” (tâm) của ông, không phải vì tiếng sanh mà nó “có”,
tiếng diệt mà nó “không”. Tại ông điên đảo hôn mê, nhận cái
“thường” (tánh nghe) làm đaọn diệt (tiếng), chớ không phải rời
sáu trần cảnh: sắc, thinh, hương, v.v... mà các giác quan thấy,
nghe, hay, biết của ông không có.
- LƯỢC GIẢI
- Ðây là lần thứ bảy,
Phật chỉ rất rõ ràng các giác quan: thấy, nghe v.v... là tâm và
thường còn.
- *
-
X.
Phật chỉ khi ngủ, cái “nghe”
cũng không mất
- Bằng chứng
thứ hai: Như người đang ngủ, nằm trên giường chõng, trong nhà có
người giã gạo, khi đó người ngủ kia mơ màng, tưởng là tiếng
trống hoặc tiếng chuông, đến chừng thức dậy rồi mới nhận rõ đó
là tiếng chày giã gạo.
- A Nan! Người
ngủ kia, mặc dù đối với cảnh vật hiện tiền, họ không thấy biết,
mà cái “nghe” của họ cũng không mất.
- Dù cho thân
thể ông đến khi già chết tiêu tan, mà cái “tánh nghe” này cũng
không vì ông già, chết đó mà tiêu diệt. Bởi chúng sanh từ vô
thỉ đến giờ, cứ theo các trần cảnh, khởi vọng niệm phân biệt
lăng xăng, chưa từng ngộ được chơn, tâm thường còn của mình
- Vì cứ nương theo vọng niệm phân
biệt, chẳng nương theo chơn tâm thường trụ, cho nên đời đời
nhiễm ô, trôi lăn trong vòng sanh tử. Vậy các ông phải bỏ cái
vọng niệm sanh diệt, theo về với chơn tâm thường trụ. Khi chơn
tâm thanh tịnh sáng suốt hiện tiền rồi, thì căn thân, trần cảnh
và vọng trần và tâm cấu nhiễm đã tiêu rồi, lúc bấy giờ lo gì
chẳng thành quả Phật vô thượng.
--o0o--
|
|