-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
-
Mục Lục Khóa Thứ
bảy
-
Triết Lý Ðạo
Phật hay là
Ðại Cương Kinh Lăng Nghiêm
-
(tiếp theo)
-
--- o0o ---
- Bài Thứ
Bốn
- Mục Lục
-
-
I.
Ngài A Nan hỏi Phật: trói cột ở chỗ nào và làm sao mở được?
-
II. Phật chỉ chỗ trói cột (gút)
-
III. A Nan hỏi: tại sao bị sanh tử
luân hồi hay được tự tại giải thoát cũng vì sáu căn?
-
IV. Phật nói bài kệ tóm lại nghĩa
trên
-
V. Vọng hết thì chơn hiện
-
-
I.
Ngài A Nan
hỏi Phật: trói cột ở chỗ nào và làm sao mở được?
- A Nan thưa:
Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy về cái nghĩa thứ hai là phải biết
rõ gốc rễ của phiền não ở chỗ nào, mới có thể trừ được. Cũng
như người mở gút, nếu không biết mối gút ở đâu thì không bao giờ
mở được.
- Bạch Thế
tôn! Chính thế, chúng con đây cũng vậy, từ vô thỉ đến nay, cùng
với các vô minh chung (đồng) sanh và chung diệt; tuy mang danh
xuất gia, học rộng nghe nhiều, thật ra cũng như người bị bệnh
rét (làm cử) cách ngày (giác thời tự ngộ, xúc cảnh hoàn mê).
- Cúi xin đức
Như Lai thương xót những kẻ trầm luân hiện tại cũng như vị lai
chỉ dạy cho ở nơi thân tâm này, chỗ nào triền phược (gút), và
làm sao mở được?
-
II. Phật chỉ chỗ
trói cột (gút)
- Khi đó Phật
cùng với mười phương chư Phật, đều thương xót A Nan và đại chúng
cùng các chúng sanh đời sau, nên trên đảnh các Ngài đồng phóng
hào quang quý báu chiếu khắp tất cả, đồng gọi A Nan cùng đại
chúng và dạy rằng:
- - Nay các ông
muốn biết cái “câu sanh vô minh” (vô minh chung cùng sanh từ vô
thỉ đến nay) để trừ, và “quả vô thượng Bồ đề” để tu chứng, vậy
nay ta sẽ chỉ rõ cho các ông.
- Này A Nan,
khiến cho các ông nhiều kiếp sanh tử luân hồi, chỉ vì sáu căn mà
làm cho các ông chứng được đạo quả Bồ đề an vui giải thoát, cũng
chỉ vì sáu căn của các ông mà thôi.
-
LƯỢC GIẢI
- Mười phương
các đức Phật, đồng phóng hào quang, đồng dạy như vậy, là để cho
A Nan và đại chúng đều biết: đây là một phương pháp duy nhứt,
không những một mình đức Thích Ca, mà cả mười phương chư Phật
cũng đồng chỉ dạy như thế.
- *
-
III. A Nan hỏi:
tại sao bị sanh tử luân hồi hay được tự tại giải thoát cũng vì
sáu căn?
-
- Ông A Nan đã
nghe Phật chỉ dạy, nhưng chưa hiểu nên kính cẩn hỏi Phật:
- - Bạch Thế
tôn, tại sao làm cho chúng con nhiều kiếp sanh tử luân hồi cũng
vì sáu căn, còn được an vui giải thoát cũng chỉ do sáu căn, chứ
không phải do vật gì khác?
- Phật dạy rằng: Căn và trần đồng
một thể (tâm), triền phược và giải thoát không hai (mê thì triền
phược, ngộ thì giải thoát). Các thức hư vọng, cũng như hoa đốm
giữa hư không.
-
LƯỢC GIẢI
- Căn trần
không lỗi mà lỗi tại vọng thức phân biệt, song thức thì hư vọng
không có thật thể như hoa đốm giữa hư không.
- Cũng đồng căn
và trần này, song phàm phu vì mê, khởi vọng thức phân biệt ngã,
pháp, nên bị triền phược, gọi là kiết (gút). Thánh non cũng
đồng căn trần này, song vì giác ngộ không khởi phân biệt chấp
thật có ngã, pháp nên được giải thoát, thế gọi là (mở).
- *
- A Nan, vì có
trần cảnh, nên ở nơi căn mới khởi ra phân biệt. Vì đã có cái
năng phân biệt ở nơi căn, nên mới hiện ra cái tướng bị phân biệt
là cảnh. Căn (kiến) và cảnh (tướng) đối đãi nhau vọng hiện, chớ
không thật có (vô tánh). Cũng như hình cây lâu gác gác nhau.
-
LƯỢC GIẢI
- Vì các cây
lau gác nhau, nên ở xa xem như có hình người hay vật. Cái hgình
này không thật. Ðây là dụ cho căn trần hư huyễn không thật, vì
đối đãi nhau nên vọng hiện ra mà thôi.
- *
- - Thế nên,
khi thấy, nghe, hay, biết, mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là
gốc vô minh. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà không khởi vọng
niệm phân biệt, đó là Niết bàn. Ở trong chơn tâm thanh tịnh,
không có dung chứa vật gì cả.
-
LƯỢC GIẢI
- Ðoạn này Phật
dạy, khi sáu căn đối với sáu trần cảnh nếu khởi vọng niệm phân
biệt, đó là gốc của vô minh triền phược (trói cột). Bởi thế nên
Phật nói: “vì sáu căn làm cho các ông sanh tử luân hồi”. Trái
lại, khi sáu căn đối với sáu trần, mà không khởi vọng niệm phân
biệt đó là Niết bàn, là giải thoát (mở gút) nên Phật nói: “Làm
cho các ông được an vui giải thoát cũng vì sáu căn”.
- *
-
IV. Phật nói bài
kệ tóm lại nghĩa trên
- Khi đó Phật
muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ ý nghĩa như vầy:
- NGUYÊN VĂN
CHỮ HÁN
- Chơn tánh hữu
vi không
- Duyên sanh có
như huyễn
- Bất thật như
không hoa
- Ngôn vọng
hiển chư chơn
- Vọng, chơn
đồng nhị vọng
- Do phi chơn
phi chơn
- Vân hà kiến
sở kiến
- Trung gian vô
thật tánh
- Thị cố nhược
giao lô
- Giải kết đồng
sở nhơn
- Thánh phàm vô
nhị lộ
- Nhữ quán giao
trung tánh
- Không hữu nhị
câu phi
- Mê hối tức vô
minh
- Phát minh
tiện giải thoát
- Giải kết nhơn
thứ đệ
- Lục giải nhứt
diệc vong
- Căn tuyển
trạch Viên Thông
- Nhập lưu
thành Chánh giác
- Ðà na vi tế
thức
- Tập khí thành
bộc lưu
- Chơn phi chơn
khủng mê
- Ngã thường
bất khai diễn
- Tự tâm thủ tự
tâm
- Phi huyễn
thành huyễn pháp
- Bất thủ vô
phi huyễn
- Phi huyễn
thường bất sanh
- Huyễn pháp
vân hà lập
- Thị danh diệu
liên hoa
- Kim cang
vương bảo giác
- Như huyễn tam
ma đề
- Ðàn chĩ siêu
vô học
- Thử A tỳ đạt
ma
- Thập phương
Bạc Già phạm
- Nhứt lộ Niết
bàn môn
- DỊCH NGHĨA
BÀI KỆ
- Xứng theo
chơn tánh (chơn tâm) thì các pháp hữu vi (vọng) không thật có,
do nhơn duyên sanh, cũng như vật huyễn thuật.
- Xứng về chơn
tánh thì vô vi (chơn) cũng không thật có, vì nó không sanh diệt,
như hoa đốm giữa hư không.
- Nói hữu vi là
vọng, để hiển vô vi kia là chơn. Vì đối đãi nhau mà có, nên
“chơn” và “vọng” cũng đồng vọng cả. Ðến lý này, còn không thể
nói là “chơn” hay “phi chơn”, thì làm sao gọi nó là cái “thấy”
(căn) hay cái “bị thấy” (trần) được. Vì nó như vật huyễn, chẳng
có thật tánh, cũng như hình cây lâu gác.
- Giải thoát
hay triền phược đồng do sáu căn. Ðược chứng Thánh hay bị đọa
phàm cũng bởi sáu căn, chớ không có con đường nào khác. Các ông
cứ xem hình cây lâu gác kia, nói có hay nói không đều không thể
được. Hễ mê muội là vô minh, còn giác ngộ thì giải thoát.
- Cột gút lại
hay mở ra, đều phải theo thứ lớp. Khi sáu gút (sáu căn) mở rồi,
thì cái tên một cũng không còn (vì không còn đối đãi, nên không
thể kêu gọi). Các ông lựa được căn viên thông tu hành, thì mau
đặng thành quả Phật.
- Thức A Ðà Na
(thức thứ tám) rất là tinh tế, các chủng tử trong thức này nó
sanh diệt rất vi tế, như giòng nước chảy mau. Ta đối với phàm
phu và tiểu thừa không hề giảng nói (thức này) vì sợ chúng mê
lầm chấp là “chơn” hay là “vọng”, đều có hại cả.
- Tự nơi tâm
các ông, trở lại chấp lấy tự tâm các ông. Chơn tâm không phải
huyện mà trở lại thành hư huyễn. Nếu đối với các “chơn” mà các
ông không sanh tâm chấp thủ: với cái “chơn” kia hãy còn không
sanh, huống chi là cái “hư huyễn” làm gì có được.
- Ðây là con
đường duy nhứt của mười phương các đức Phật tu hành đến cảnh
Niết bàn. Pháp này tên là Diệu Liên Hoa, cũng tên Kim Cang
Vương Bảo Giác và cũng tên là Như huyễn Tam ma đề. Chỉ tu trong
giây phút thì được quả vô học.
- Khi đó A Nan
và đại chúng nghe Phật nói bài kệ nghĩa lý thâm trầm, nên tâm
trí mỗi người đều trở nên sáng suốt, được lợi ích chưa từng có.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông A Nan đã
mấy lần cầu Phật chỉ dạy phương pháp nào mười phương các đức
Phật tu hành để được thành đạo chứng quả. Ðiều ấy, Phật chỉ dạy
đến đây đã tường tận.
- Từ trước đến đây là nói về phần
đốn tu và đốn chứng. Từ đây về sau Phật mới dạy về phần tiệm
tu.
- *
-
V. Vọng hết thì
chơn hiện
- - Này A Nan,
tùy ông lựa chọn sáu căn mà tu hành, nếu sự kiết phược ở nơi căn
diệt; khi các vọng đã tiêu hết, thì đó là “chơn” chứ gì nữa!
- A Nan, ông
hãy xem cái khăn đã cột sáu gút đây, có thể đồng một thời mở
được hết sáu gút được không?
- A Nan thưa:
Bạch Thế tôn, sáu gút tuy đồng một cái khăn, song khi cột, đã
tuần tự mà cột, thì khi mở cũng phải theo thứ lớp mà mở, không
thể đồng một thời mở được hết.
- Phật dạy:
Sáu căn của ông khi giải trừ cũng phải như vậy. Mở gút đầu tiên
là phá trừ ngã chấp (chấp ta) trước chứng đặng nhơn không. Tiến
đến từng thứ hai là phá trừ Phá chấp, sau mới chứng đặng pháp
không. Ngã, pháp đều không sanh, thế mới gọ là Bồ tát đặng Vô
sanh nhẫn (an nhẫn nơi nhơn, pháp đều không sanh)
--o0o--
|
|