-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
-
Mục Lục Khóa Thứ
bảy
-
Triết Lý Ðạo
Phật hay là
Ðại Cương Kinh Lăng Nghiêm
-
(tiếp theo)
-
--- o0o ---
- Bài Thứ Năm
-
-
Mục Lục
-
-
I. Ngài A Nan hỏi Phật pháp tu viên
thông
-
II.
Phật
hỏi hai mươi lăm vị Thánh, do tu pháp môn gì mà được chứng quả
-
III. Hai mươi lăm vị Thánh đều thuật
lại pháp tu của mình được chứng đạo quả
-
IV. Ngài Quán Âm kể lại sự kết quả
-
-
---o0o---
-
I.
Ngài A Nan hỏi Phật pháp tu
viên thông
- Ngài A Nan và
đại chúng nhờ Phật khai thị trí tuệ sáng suốt, tâm hết nghi lầm,
nên đồng lạy Phật, quỳ gối chắp tay và kính cẩn thưa rằng:
- - Bạch Thế
tôn, chúng con là kẻ phiêu linh nhiều kiếp bần cùng cô quạnh,
không biết nhờ có hạnh phúc gì mà được làm em của Phật, cũng như
đứa hài nhi mất sữa đã lâu, nay lại gặp được từ mẫu.
- - Bạch Thế tôn, hôm
nay chúng con thâm tâm đã được khai ngộ, hết những nghi ngờ,
nghe Phật chỉ dạy hiểu được cái nghĩa “sáu gút mở thì cái tên
một gút cũng không còn”. Nhưng chúng con còn chưa hiểu “tu căn
nào mới được viên thông”. Cúi xin đức Như Lai, duỗi lòng đại bi
khai thị cho chúng con lần cuối cùng, may ra ở cơ hội này, con
trở lại với bản tâm thanh tịnh của mình, được thành đạo quả.
-
II.
Phật hỏi hai mươi lăm vị Thánh, do
tu pháp môn gì mà được chứng quả
- Khi đó đức Phật hỏi
toàn thể đại chúng: Các ông là người tu hành trong đạo của ta,
vậy khi các ông mới phát tâm, đối với 18 giới (sáu căn, sáu trần
và sáu thức) do tu theo phương tiện nào mà được thành đạo quả?
-
LƯỢC GIẢI
- Tuy nói 18
giới, chớ tóm lại thì có 6 căn. Do sáu căn tu hành mà được
thành đạo quả. Nên trước kia Phật nói: “Sanh tử luân hồi hay an
vui giải thoát, cũng chỉ tại sáu căn của các ông” (vì muốn cho
độc giả hiểu qua những pháp tu của 24 vị Thánh, nên lần tái bản
quyền Ðại cương Lăng nghiêm này, chúng tôi có trích một đoạn (từ
trang 166 đến 201) trong bản kinh Lăng nghiêm do ông Tâm Minh
dịch in thêm vào đây, để giúp độc giả nghiên cứu)
- *
-
III. Hai mươi
lăm vị Thánh đều thuật lại pháp tu của mình được chứng đạo quả
- DO
THANH TRẦN CHỨNG A LA HÁN
- Ông Kiều Trần
Na trong hàng năn vị Tỳ kheo, liền từ chỗ ngồi đứng dạy bạch
Phật rằng: - Con ở nơi Lộc Uyển và Kê Viên, gặp đức Như Lai khi
mới thành đạo; nhân nghe âm thanh thuyết pháp của Phật mà tỏ ngộ
lý Tứ đế. Phật hỏi các Tỳ kheo, thì con trước hết được gọi là
“hiểu”; Như Lai ấn chứng cho con tên là A Nhã Ða. Con do nơi âm
thanh vi diệu viên mãn mà thành bực A La Hán. Nay Phật hỏi pháp
tu viên thông, thì như chỗ sở chứng của con, âm thanh là hơn cả.
-
LƯỢC GIẢI
- Viên dung
thông nhập Như lai tạng diệu chơn như tánh của các pháp nên gọi
là viên thông. Bất cứ tu pháp nào mà chứng được chơn như của
tất cả Pháp thì đều gọi pháp đó là viên thông.
- Trong các
đoạn trước, Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy: sanh tử luân hồi
do nơi sáu căn, mà được an vui diệu thường cũng do nơi sáu căn;
sáu căn tuy vọng, nhưng không thể ngoài sáu căn mà tìm cái chơn
được, vì rằng trong khi đang mê, chúng ta đem sáu căn này mà
thấy nghe cảm xúc; đến khi giác ngộ chúng ta, chúng ta cũng chỉ
đem sáu căn này mà tiếp xúc với trần cảnh. Vậy mà khi mê thì
các căn bị ràng buộc nên gọi là gút (kiết); đến khi ngộ thì sáu
căn được viên thoát nên gọi là mở.
- Vì sao mà
thành ra cột gút, và làm sao để mở gút thì trước Phật đã dùng
phương tiện cột khăn mở khăn để chỉ dạy rõ ràng. Ðồng một tánh
Như Lai tạng mà vì nguyên do mê lầm nên hiện ra sáu căn ràng
buộc. Bởi thế nên nếu nói rằng vọng, thì căn nào cũng vọng; mà
nói rằng chơn, thì căn nào cũng chơn. Nếu một căn được chơn thì
tất cả các căn đều chơn. Lúc bấy giờ các căn tự tại không còn
bị bó buộc trong phạm vi: mắt chỉ thấy sắc, tai chỉ nghe tiếng,
mũi chỉ ngưởi mùi v.v... mà trái lại sáu căn tự tại thọ dụng.
Vậy nên tu nhãn căn, không phải là tiệt, tu nhĩ căn không phải
là thắng v.v... cho đến bất luận tu một căn nào hay một món đại
nào cũng như nhau cả, không gì hơn chẳng gì kém, miễn làm sao
thấy rõ thật tánh của một pháp thì được viên ngộ viên thoát.
Ông A Nan tuy đã thâm ngộ cái ý nghĩa viên ngộ viên tu ấy, nhưng
hiện tiền chưa rõ sáu căn, căn nào thích hợp với trình độ của
mình và chúng sanh ở cõi Ta bà này, nên cầu Phật chỉ bày. Phật
liền gạn hỏi trong đại chúng, các vị Bồ tát và các vị A La Hán
đã chứng quả vô học, để xem mỗi người, khi ban sơ phát tâm, tu
theo phương tiện gì mà đặng ngộ đạo. Một điều mà chúng ta nên
chú ý là Phật gạn hỏi chỗ ngộ đạo của các bậc Thánh hiền tăng,
đây không phải để so sánh chỗ hơn kém, mà cốt để chứng minh lời
Phật đã dạy trước, để chỉ rõ lối tu viên đốn của Ðại thừa, khác
lối tu tiêm thứ của Nhị thừa, và để cho ngài A Nan nhân đó, tự
lựa căn nào viên thông thích hợp với trình độ của mình mà tu để
được giải thoát. Không riêng ông A Nan, nếu chúng ta sau khi
nghe hiểu và biết lựa lấy một pháp thích hợp để tu hành, thì sẽ
đặng ngộ nhập viên thông tam muội.
- Ông Kiều Trần
Như cùng bốn thầy Tỳ kheo (5 ông này theo Phật tu khổ hạnh và
được Phật hóa độ trước nhứt) nhân âm thanh của Phật thuyết pháp
mà ngộ lý Tứ đế, chứng viên thông; nên đối với pháp môn thích
hợp làm cho ông chứng ngộ, thì thanh trần là hơn cả. Thứ nhứt
nhờ âm thanh của Phật giảng về Tứ đế mà ngộ được lý Tứ đế (khổ,
tập, diệt, đạo). Thứ hai ông quan sát rõ thấu thật tướng của âm
thanh, mà ngộ đạo. Thật tướng của âm thanh là vô tướng, không
đọa về nhân duyên, tự nhiên, hòa hợp, phi hòa hợp như trước Phật
đã chỉ dạy; nó thường vắng lặng, cùng khắp 10 phương, theo
nghiệp cảm, theo tâm lượng của chúng sanh mà phát hiện, nên tuy
khi chúng ta không đem tâm phân biệt, mà khi ấy tiếng cũng chẳng
phải không, chẳng phải các chúng sanh khác cũng tuyệt không nghe
thấy như ta. Xưa nay chúng ta chỉ phân biệt theo giả ảnh của
thanh trần sanh diệt đối đãi với ta, nên bị thống khổ theo khi
có tiếng, hay khi không có tiếng, chứ chưa hề lắng lòng định trí
rời vọng trần để quán thật tánh của những tiếng động tịnh là từ
đâu, nên cũng chưa hề liễu nhập tánh âm thanh vốn là tánh diệu
chơn như của Như Lai tạng. Thật tướng âm thanh đã như vậy, thì
thật tướng trí do âm thanh thuyết minh cũng vậy.
- *
-
DO SẮC TRẦN CHỨNG A LA HÁN
- Ông Ưu Ba Ni
Sa Ðà liền từ chỗ ngồi đứng dây đảnh lễ chân Phật mà bạch rằng:
- - Con gặp
Phật lúc mới thành đạo, nhơn quán tướng bất tịnh, sanh tâm rất
nhàm chán xa lìa; từ tướng bất tịnh đến tướng xương trắng, vi
trần rồi tan về hư không, sắc không, không hai, ngộ thật tánh
các sắc, thành vô học đạo. Ðức Như lai ấn chứng cho con tên Ni
Sa Ðà, sắc phù trần tiêu hết, sắc diệu tánh châu mật viên dung.
Con từ sắc tướng kia mà thành bực A La Hán. Nay Phật hỏi viên
thông thì như chỗ sở chứng của con, quán sắc làm nhơn là hơn cả.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Ư Ba Ni sa Ðà
(Tàu dịch là Trần Tánh, theo chỗ ngộ mà đặt tên), nhơn quán sắc
tướng mà chứng quả. Hàng Nhị thừa thì quán bất tịnh để sanh tâm
nhàm chán diệt tham dục, cầu chứng Niết bàn. Trái lại hàng Bồ
tát quán bất tịnh để nhận rõ nhân duyên thống khổ, chỗ đảo chấp
Bất tịnh kế tịnh của chúng sanh mà hóa độ, phá trừ tâm tham đắm
sắc thân ngũ dục.
- Ông Ưu Ba Ni Sa Ðà
tu theo pháp quán đó, tịnh tâm nhiếp ý, quán sát thân phần của
chúng sanh, chỉ toàn là một vật nhơ nhớp thối tha, cả từ đầu đến
chân, từ trong ra ngoài, và rõ ràng nhứt khi thân ấy đã thành
một tử thi phình trướng bầm xanh, bại hoại, máu mủ chảy ra, gân
thịt úa rửa, cầm thú rúc ăn, xương gân ly tán, chỉ còn nắm xương
khô, lần lần tiêu ra tro bụi, biến vào hư không. Các sắc thân
đã tan về hư không, đâu có phân biệt chia rẽ sai khác; chỉ vì
đem tâm phân biệt, tương đối với sắc mà gọi là không, tương đối
với không mà gọi là sắc, vậy nên sắc, không đều không tự tánh.
- *
-
DO HƯƠNG TRẦN CHỨNG A LA HÁN
- Ông Hương
Nghiêm Ðồng tử liền từ chỗ ngồi, đứng dậy đảnh lễ chân Phật mà
bạch rằng: - Con nghe đức Như Lai dạy con chín chắn quán các
tướng hữu vi. Con liền từ tạ Phật lui về nhà thanh trai yên
tịnh, trông thấy các thầy Tỳ kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương
lặng lẽ bay vào trong mũi; con quan sát mùi hương đó: chẳng phải
khói, chẳng phải lửa, đi không chỗ tới, đến không chỗ bắt đầu,
do đó vọng ý thức con tiêu diệt, phát minh tánh vô lậu. Ðức Như
lai ấn chứng cho con hiệu là Hương Nghiêm, hơi hương phù trần
thoạt diệt, hơi hương hiệu tánh được mật viên. Con do nơi hương
trần kia mà thành bực A La Hán. Nay Phật hỏi viên thông, thì
như chỗ sở chứng của con, hương nghiêm là hơn cả.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Hương
Nghiêm Ðồng tử (theo chỗ ngộ mà đặt tên) nhân quan sát cái tướng
hữu vi là hương trần mà chứng được viên thông. Thường thường
chúng ta chỉ tưởng mùi hương là một thứ sẵn có của gỗ trầm
v.v... hễ có gỗ trầm là có hương; nhưng xét kỹ thì mùi hương ấy
đâu phải chỉ do gỗ trầm mà có được; còn do không khí, do lửa đốt
và do tỷ căn của ta tiếp xúc, tỷ thức giác xúc, ý thức phân biệt
thì không thành mùi hương được. Vậy thật ra tánh chơn thật
hương trần không phải là năng tri sở tri, cũng không phải là ly
năng tri sở tri mà nó có ra, chỉ tùy theo nghiệp của mỗi chúng
sanh mà phát hiện.
- *
-
DO VỊ TRẦN CHỨNG BỒ TÁT
- Hai vị Pháp
vương tử Dược Vương và Dược Thượng cùng năm trăm Phạm thiên
trong hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật mà
bạch rằng: - Con từ vô thỉ kiếp làm lương y trong đời, miệng con
từng nếm các vị cỏ, cây, vàng, đá của thế giới Ta bà này, số đến
mười vạn tám nghìn thú; như vậy đều biết hết thảy vị của: đắng,
cay, chua, ngọt, mặn, lạt, các vị hòa hiệp, câu xanh, biến dị,
cho đến nào là lạnh, là nóng, có độc, không độc, đều biết khắp
cả. Sau con lại nhân thừa sự đức Như lai mà hiểu rõ vị tánh,
chẳng phải không, chẳng phải có, chẳng phải tức thân tâm, chẳng
phải ly thân tâm, phân biệt vị trần, mà đặng khai ngộ. Do đó,
Phật ấn chứng cho anh em con hiệu là Dược Vương Bồ tát, Dược
Thượng Bồ tát và làm pháp vương tử ở trong hội này; chúng con
nhơn vị trần mà đặng giác ngộ lên hàng Bồ tát. Nay Phật hỏi
viên thông, thì như chỗ sở chứng của con, quán vị trần làm nhơn
là hơn cả.
-
LƯỢC GIẢI
- Vị trần là
các vị cay, chua, đắng, ngọt; vị hòa hiệp như các món ăn do
nhiều thức hiệp lại; vị câu sanh như ớt sẵn cay, bồ hòn sẵn
đắng; vị biến dị là do thay đổi mà ra, như mật ông để lâu hóa
chua, rượu để lâu thì lạt...
- Ngài Dược
Vương, Dược thượng Bồ tát do phân biệt quán sát bốn nhân của vị
trần mà chứng đạo. Quán sát nguyên nhân của vị, như thế nào?
Nếu nói vị cho hư không thì sao nếm hư không, không biết ngọt,
đắng; nói rằng vị thiệt có, thì vị vốn vô hình; nói rằng vị tức
là thân tâm, thành ra nó có tánh biết; còn nói vị ly thân tâm
thì cái gì phân biệt mà biết vị. Hai vị Bồ tát quan sát như
vậy, ngộ nhập cái tánh phi tức, phi ly, phi không, phi hữu của
vị trần, nên vọng ý tiêu tan, mà giác tánh được tỏ bày vậy.
- *
-
DO XÚC TRẦN MÀ CHỨNG THÁNH
- Ông Bạt Ðà Bà
La với mười sáu người bạn Bồ tát sơ phát tâm, liền từ chỗ ngồi,
đứng dậy đảnh lễ chân Phật mà bạch rằng:
- - Kiếp trước,
lúc đức Phật Oai Âm Vương ra đời, chúng con nhân đặng gặp Phật,
nghe pháp mà xuất gia, trong ngày chúng Tăng tắm gội, con theo
thứ tự vào nhà tắm, thì thoạt nhiên ngộ biết thủy trần vốn không
rửa bụi trần hay không rửa bụi trần, tâm giác thường vắng lặng,
không có tướng gì ... do tập quán cũ ấy gia được thành bậc vô
học. Ðức Oai âm vương gọi tên con là Bạt Ðà Bà La, nhân diệu
xúc tỏ bày sáng suốt, thành vị Phật tử trụ. Nay Phật hỏi viên
thông, thì như chỗ sở chứng của con, quán xúc trần làm nhơn là
hơn cả.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Bạt Ðà Bà La
(Tàu dịch là Thiên Thủ hay Hiền Hộ) nhân quán xúc trần mà ngộ
nhập viên thông. Xúc là đụng chạm, tiếp xúc. Cảnh bị biết của
thân căn, hay nói cách khác là cảnh ứng hợp thân cần phát sanh,
nhận biết có lạnh, nóng, trơn, nhám v.v... đều là xúc trần. Như
vậy, xúc trần được phát hiện là bởi có thân căn với sắc cảnh,
thiếu một không thành, xúc trần hư dối. Vả lại như khi đối
trước một lò lửa, nếu kẻ rét thì có cảm xúc ấm, còn kẻ ấm thì
lại có cảm xúc nóng thêm. Vậy thì chỉ tùy chúng sanh mà thành
lạnh hay nóng, không có thật thể nhất định. Ðối với nước cũng
vậy, khi chúng ta dùng nước tắm gội thân thể, nước chảy trên
mình mà sinh ra cảm giác thế này thế khác, gọi là xúc trần.
Nhưng xét nghiệm kỹ thì khi ta gọi là tắm rửa, ấy là rửa thân
thể hay rửa bụi trần? Nếu nói là rửa thân thể, thì như không
bụi trần lấy gì để rửa, nếu nói là rửa bụi trần, thì như nước
chảy trên đất cũng gọi là tắm rửa đặng sao? Thế thì nước, bụi
trần, thân thể vốn thật an nhiên, nước không phải hay rửa
(năng), mà bụi trần và thân thể không phải bị rửa (sở), cho nên
xúc trần chỉ là tướng giả dối, đối đãi theo vọng nghiệp chúng
sanh không xúc mà hiện xúc, nên xúc trần đều là như huyễn: phi
hữu, phi vô. Ngộ được như vậy mà tu hành, tức thành bực vô học.
- *
-
DO PHÁP TRẦN CHỨNG A LA HÁN
- Ông Ma Ha Ca
Diếp và Tỳ kheo ni Tử Kim Quang, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ dưới chân Phật và bạch rằng: - Con nhớ kiếp trước, trong thế
giới này có nhiều đức Phật ra đời hiệu Nhựt Nguyệt Ðăng, con
được thân cận nghe pháp tu học, sau khi Phật diệt độ thì cúng
dường xá lợi, đốt đèn nối ánh sáng, lại dùng vàng tử kim sáng
chói mà thếp hình tượng của Phật. Từ đó đến nay đời đời thân con
thường được đầy đặn, ánh sáng như đồng vàng tử kim, còn Tỳ kheo
ni Tử Kim Quang này chính là quyến thuộc của con, từng đã cùng
phát tâm một lúc với con. Con xem thấy thế gian sáu trần biến
hoại, nên chỉ đem tâm không tịch tu hành, thành diệt tận định.
Thân tâm tự tại hay vượt qua trăm ngàn kiếp, dường như khảy móng
tay. Con do quán sát pháp không tịch mà thành bậc A La Hán; đức
Thế tôn cho con là người tu hạnh đầu đà bậc nhứt. Diệu pháp mở
sáng, các lậu tiêu trừ. Nay Phật hỏi viên thông, thì như chỗ sở
chứng của con, quán pháp trần làm nhơn là hơn cả.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Ma Ha Ca
Diếp nhân quán pháp trần mà ngộ nhập viên thông. Pháp trần là
tất cả ấn tượng của tiền trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, lưu
lại trong tâm ý mà làm cảnh sở duyên cho ý thức. Tất cả cảnh
giới thế gian tóm lại không ngoài sáu trần; sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp ấy. Những pháp đó luôn luôn biến chuyển hoặc âm
thầm kín đáo, hoặc rõ rệt phô bày, chứ không niệm nào yên lặng
dừng nghỉ. Vừa vị lai đã thành hiện tại, vừa hiện tại đã thành
quá khứ; như vậy hãy chỉ vào đâu mà cho là có pháp thiệt. Chỉ
vào vị lai ư? Hay chỉ vào quá khứ, hiện tại? Thiệt không thể
chỉ vào đâu được. Pháp trần đã không thiệt, pháp trần là chơn
không, thì các món thọ tưởng, hư vọng phiền não, nương pháp trần
sanh ra cũng liền tiêu diệt, phá trừ ý thức, chứng diệt tận
định. Khi ấy thân tâm tự tại, đối với không gian cũng như đối
với thời gian: không rời chỗ ngồi mà ở khắp mười phương, vượt
trăm ngàn kiếp mà dường như trong giây phút khảy móng tay,
thoát ngoài vòng chướng ngại của những sự lâu, mau, xa, gần,
hạn cuộc.
- Sáu vị trên đây do tu sáu trần
mà được chứng quả.
- *
-
DO NHÃN CĂN CHỨNG A LA HÁN
- Ông A Na Luật
Ðà liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật và bạch rằng: -
Con mới xuất gia thường ưa ngủ nghỉ, nên bị Như Lai quở trách là
loại súc sanh. Nghe lời Phật quở, con khóc lóc tự trách, thức
suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai mắt. Ðức Thế tôn dạy cho con
phép Tam muội nhạo kiến chiếu minh kim cang. Con không do con
mắt mà vẫn xem thấy mười phương, tánh chơn rỗng suốt, như xem
cái trái trong bàn tay. Như lai ấn chứng cho con thành bực A La
Hán. Nay Phật hỏi viên thông, thì như chỗ sở chứng của con,
xoay cái thấy trở về tánh nguyên, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông A Na Luật
Ðà nhân tu về nhãn căn, xả bỏ sắc trần, xoay cái thấy (hư vọng)
trở về kiến tinh (chơn tánh) mà thành bậc vô học.
- Kiến tánh
thường diệu thường minh, nương nơi con mắt mà phát ra cái dụng
thấy sắc gọi là nhãn căn; kiến tánh vốn đã diệu minh, cho nên
kiến dụng chẳng lúc nào không minh không diệu. Chúng sanh nhiều
kiếp mê lầm không tự nhận biết, trở lại chấp rằng cái thấy chỉ
do con mắt mà có sắc trần; hễ có sắc trần thì gọi rằng có thấy;
còn không sắc trần thì gọi rằng không thấy: mở mắt là thấy, nhắm
mắt là không. Ðã đem tánh thấy viên dung cùng khắp mà khuôn khổ
một nơi, nên bị cách ngại, thấy không ngoài sống mũi, thấy không
thấu đặng hai đời. Dẫu khi nhắm mắt, khi ngủ mê không thấy đã
đành, mà khi mở mắt cũng chẳng thấy được sự thật của muôn pháp.
Trong một đoạn trước, Phật gạn hỏi ông A Nan về cái thấy là tâm
hay con mắt? Và Ngài đã bảo: Tâm thấy chớ không phải mắt thấy.
Ðây Phật chỉ cái kiến tánh này cho đến cái văn tánh, khứu tánh,
v.v... cho chúng sanh rõ. Thế nên biết rằng: Có mắt không tâm,
không thành có thấy; có tâm không mắt cũng thấy khắp mười
phương, ấy gọi là “nhạo kiến chiếu minh”. Kiến tánh bản minh
đó, xưa này không hề lay chuyển, ấy gọi là kim cang Tam muội.
-
DO TỶ CĂN MÀ CHỨNG A LA HÁN
- Ông Châu Lợi
Bàn Ðặc Ca, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật và bạch
rằng: - Con vì thiếu sự tụng trì, nên tánh tình ngu độn, khi
mới gặp Phật, nghe pháp xuất gia, chỉ tụng trì một câu kệ của
Như Lai, mà trong trăm ngày không thuộc, hễ nhớ trước thì quên
sau, nhớ sau thì quên trước; Phật thương con ngu muội, dạy pháp
an cư, điều hòa hơi thở ra vào; con liền quán hơi thở đến vi tế
cùng tột, thấy các hạnh sanh, trụ, dị, diệt từng mỗi sát na, mà
tâm được rỗng rang tự tại không chút ngăn ngại; hết các món lậu
thành A La Hán, ở dưới tòa của Phật, được ấn chứng thành vô học
đạo. Nay Phật hỏi viên thông, thì như chỗ sở chứng của con,
xoay hơi thở trở về tánh không, ấy là thứ nhất.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Châu Lợi
Bàn Ðặc Ca (là hai anh em, Tàu dịch là Ðại Lộ Biên và Tiểu Lộ
Biên. Ðây là chi ông em) nhân tu tỷ căn mà chứng nhập viên
thông.
- Kiếp xưa, ông
là một vị Ðại pháp sư vì tâm bỏn xẻn Phật pháp, không muốn nói
cho ai nghe, nên bị quả báo ngu mê thiếu tánh nghe nhiều, hiểu
rộng. Nhân đó Phật mới dạy phương pháp nhiếp tâm là điều hòa
hơi thở ra vào, đếm từ một đến trăm, từ trăm lui một; sau khi
tâm định tĩnh, xét cùng tột đến tướng vi tế của hơi thoể, thảy
đều sanh, trụ, dị, diệt từng mỗi sát na. Tâm chỉ chú vào hơi
thở, ngoài hơi thở không riêng có sự vật gì, cũng không có tướng
hơi thở nữa, bởi vì hơi thở đã từng sát na chuyển biến, hơi thở
không có thật tánh; vậy do tánh yên lặng, quán cảnh thanh tịnh,
mà được rỗng rang sáng suốt.
- *
-
DO THIỆT CĂN CHỨNG A LA HÁN
- Ông Kiều Phạm
Bác Ðề, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật mà bạch
rằng: - Con bị khẫu nghiệp nặng nề; trong kiếp quá khứ đã chê
bai vị Sa Môn, nên đời đời mắc bệnh, miệng thường nhơi như
trâu. Ðức Như Lai dạy cho pháp môn Nhứt vị thanh tịnh tâm địa;
con nhân đó mà tâm được tịch diệt vào tam ma địa, quán sát cái
tánh biết vị không phải thân, cũng không phải vật; liền trong
miệng ấy, vượt bỏ các lậu thế gian, bề trong giải thoát thân
tâm, bề ngoài không dính mắc thế giới, xa lìa ba cõi như chim ra
khỏi lồng, tiêu hết các món trần cấu, nên đặng con mắt pháp
thanh tịnh, thành A La Hán. Ðức Như Lai ấn chứng cho con thành
vô học đạo. Nay Phật hỏi viên thông, thì như chỗ sở chứng của
con, xoay về quán sát tánh biết vị ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Kiều Phạm
Bác Ðề (Tàu dịch là Ngưu từ) nhân tu thiệt căn mà chứng nhập
viên thông. Trong một kiếp quá khứ, ông từng buông lời chê bai
vị lão Tăng, nên nhiều đời mắc lấy cái tật miệng thường nhơi
suông như trâu.
- Phật thuyết
pháp lúc nào cũng tùy căn cơ, tùy tập quán của chúng sanh cả;
nên Ngài đã tùy tập quán của ông, mà dạy cho pháp môn nhứt vị
thanh tịnh tâm địa; nghĩa là quán cái tánh biết vị khắp hiện nơi
thiệt căn, vốn thường thanh tịnh không phải đối đãi giả dối,
không thay đổi theo mặn, đắng, ngọt, cay, nên gọi là nhứt vị.
Ðã vậy, thì cái tánh chẳng phải trần nên chẳng phải vô tri, mà
chẳng phải căn nên không giả dối; vì vậy, các món dục lậu, hữu
lậu, vô minh lậu, trong thế gian không thể ô nhiễm buộc ràng;
tuy ở trong ba cõi, mà vốn xa lìa ba cõi, như chim ra khỏi lồng,
thông dung tự tại, thấy biết rộng xa. Ấy gọi là Pháp nhãn thanh
tịnh thành A La Hán, không còn thọ sanh trong vòng luân hồi sanh
tử.
- *
-
DO THÂN CĂN CHỨNG A LA HÁN
- Ông Tất Lăng
Già Bà Ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu lạy chân Phật và bạch
rằng: - Lúc con mới xuất gia theo Phật nhập đạo, thường nghe
đức Như Lai dạy những điều thống khổ trong thế gian; con đi khất
thực trong thành, để tâm tư niệm pháp môn đó, bất giác giữa
đường đạp nhằm gai độc, chân bị thương, sự đau nhức khắp cùng
thân thể. Con liền nghĩ rằng: có tánh biết mới biết sự đau
nhức đó. Tánh biết ấy chính là giác tâm thanh tịnh, tuy biết
cái “biết đau” mà nó không phải bị đau. Con lại suy nghĩ: Nếu
như vậy thì một thân lẽ nào lại có hai tánh biết? Con nhiếp
niệm chưa bao lâu, thân tâm bỗng nhiên không tịnh; trong hai
mươi mốt ngày thì các lậu tập tiêu hết, thành quả A La Hán, được
Phật ấn ký, chứng bậc vô học. Nay Phật hỏi viên thông, thì như
chỗ sở chứng của con, là xả bỏ thân chấp, thuần một giác tánh,
ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Tất Lăng
già Bà Ta (Tàu dịch là Dư Tập) nhân tu thân căn mà ngộ nhập viên
thông. Giác tâm thanh tịnh vốn thường bất biến, hàm dung không
có năng sở, không có trong ngoài, không bị khổ vui làm lay động;
chúng sinh nhơn mê, khởi ra vọng tưởng phân biệt, chấp có ngoại
cảnh, có nội thân, cuộc tánh biết nơi thân căn làm nơi y chỉ, mà
lãnh nạp các cảnh thuận nghịch giữa thế gian. Vì vậy nên không
tránh khỏi các món khổ. Ông Tất Lăng Già Bà Ta nghe theo lời
Phật, quán khổ đế giữa thế gian trong khi đi khất thực, bất giác
chân đạp nhằm gai độc, đau buốt toàn thân, mà càng chứng rõ khổ
đế một cách thống thiết. Nhân đau nhức mà phát suy nghĩ: tự
mình biết mình đang đau; vậy đã có cái đau lại có cái biết đau;
đau là cái biết hư vọng nơi thân căn, tùy nhân duyên ngoại cảnh
mà phát hiện có năng có sở; chữ “biết đau” chính là chỉ giác tâm
thanh tịnh, ra ngoài có không, dù đau hay không đau cũng không
thể làm tăng giảm. Ngặt vì trong lúc tâm ngã pháp chưa tiêu,
nên tướng năng sở vẫn còn hiện tiền, cần phải nhiếp niệm vậy,
sau mới cả thân tâm, đoạn trừ năng sở, không thấy có cái tướng
đau, không thấy cái tướng bị đau, chỉ thuần một giác tâm thanh
tịnh. Lúc ấy, chứng những giác tức là giác mà mê cũng tức là
giác; tánh giác hoàn toàn viên mãn không còn bị điều chi ô
nhiễm.
-
DO Ý CĂN MÀ CHỨNG A LA HÁN
- Ông Tu Bồ Ðề
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu lạy chân Phật và bạch rằng: -
Nhiều kiếp lại đây, tâm con rỗng rang không ngại, nhớ lại kiếp
thọ sanh nhiều như số cát sông Hằng, lúc còn ở trong thai liền
biết muôn pháp không tịch, như thế cho đến thấy cả mười phương
toàn không, và giáo khóa khiến cho chúng sanh chứng đặng không
tánh. Nhờ đức Như Lai phát minh tánh chơn không của bản giác
tánh “không” viên mãn sáng suốt, chứng A La Hán, liền vào biển
giác không tịch sáng suốt tôn quý của Như Lai, đồng tánh tri
kiến với Phật, nên được ấn chứng thành bực vô học. Con do tánh
không mà giải thoát, không ai sánh bằng. Nay Phật hỏi viên
thông thì như chỗ sở chứng của con, là đem các tướng quy vào phi
tướng, mà năng phi sở phi cũng diệt, xoay tánh biết nơi ý căn về
không vô, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Tu Bồ Ðề
(Tàu dịch là Không Sanh) nhân tiêu trừ ý căn mà chứng nhập Viên
thông. Ý căn là tánh hay hiểu biết tất cả pháp trần, hễ có pháp
trần thì có ý căn, mà ý căn tiêu trừ thì pháp trần không tịch.
Pháp pháp đều không tịch cả, dù sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn,
hành uẩn tất cả đều không; ở trong thân tâm chánh báo không, ở
ngoài thế giới y báo cũng không, nên tâm đặng tự tại không bị
năm uẩn ngăn che, không bị cái hôn mê cách ấm, khi ở trong thai
cũng như ra khỏi thai, chỉ là tùy tưởng thọ sanh mà vẫn không bị
sắc thân chướng cách. Tuy vậy, mặc dù ngộ được không lý, nhưng
chưa ngộ tánh chân như của Như Lai tạng là tức nơi không mà tùy
duyên hiện hữu, tức nơi diệt hữu mà vốn không, cái không ấy mới
thiệt là cái tánh chân không của đệ nhất nghĩa, của nhất chân
pháp giới; vậy nên nhất thời đốn ngộ tánh cah6n không, ấy tức
đồng một tánh thấy biết cùng khắp như chư Phật, không có sai
khác.
- Năm vị trên
đây do tu năm căn mà chứng đạo quả.
- *
-
DO NHÃN THỨC MÀ CHỨNG A LA HÁN
- Ông Xá Lợi
Phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch rằng:
-Con nhiều kiếp lại đây, tâm thấy rất tanh tịnh, như vậy trong
nhiều đời thọ sanh như số cát sông Hằng, mà đối với các pháp
biến hóa của thế gian, xuất thế gian, hệ một phen thấy liền
thông suốt không bị ngăn ngại. Một hôm, nhân ở giữa đường con
gặp đặng hai anh em ông Ca Diếp Ba cùng đi với nhau, tuyên nói
kệ nhân duyên mà ngộ biết tự tâm vốn không ngằn mé. Con theo
Phật đi xuất gia, tánh thấy biết viên mãn sáng suốt, được sức vô
ýy thành A La Hán làm trưởng tử của Phật, từ miệng Phật mà có,
do pháp Phật mà hóa sanh. Nay Phật hỏi viên thông, thì như chỗ
sở chứng của con là do tâm thấy pháp sáng, sáng cùng tột các
pháp sở tri, sở kiến, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Xá Lợi
Phất (Tàu dịchlà Thu Tử)do tu nhãn thức mà chứng nhập Viên
thông. Do nhãn thức thanh tịnh nên tất cả pháp tướng của thế
gian đều thấy thông suốt cả; nhận thấy thông suốt các pháp biến
hóa ấy nên đến khi nghe thấy bài kệ nhân duyên, liền ngộ đặng
thật tướng trung đạo, ngộ Tạng tâm cùng khắp pháp giới, không
phải lớn nhỏ, không có ngằn mé trong ngoài. Bài kệ nhân duyên
theo Ðại thừa nghĩa là:
-
“Các pháp nhân duyên sanh
-
Tôi nói nó là không
-
Gọi nó là giả danh
- Cũng gọi
nghĩa trung đạo”
- (Nhân duyên
sở sanh pháp, ngã thuyết tức thị không, diệc danh thị giả danh,
diệc danh trung đạo nghĩa). Các pháp do nhân duyên hòa hiệp
sanh, không có thật tánh tức là không; tuy không nhưng đã tùy
vọng nghiệp cơ cảm của chúng sanh, chẳng phải không có giả tướng
phát hiện; ngoài giả không thể có không, ngoài không không thể
có giả, không và giả không hai, ấy tức là thật tướng trung đạo
của các pháp. Ðã ngộ lý trung đạo tức là ngộ được Tạng tâm tùy
duyên bất biến, bất biến tùy duyên, không phải giả, không phải
không, nhưng không chỗ nào không có, không pháp nào không do
Tạng tâm, tùy duyên biến hiện, mà thấy biết cùng tận tất cả pháp
không chúg ngăn che sợ hãi.
- *
-
DO NHĨ THỨC MÀ CHỨNG BỒ TÁT
- Ông Phổ Hiền
Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch
rằng: - Con đã từng làm vị Pháp vương tử với hằng sa đức Như
Lai. Mười phương các đức Như Lai mỗi khi dạy hàng đệ tử có căn
cơ Bồ tát, tu hạnh Phổ Hiền, thảy đều lấy tên con mà đặt tên.
Bạch Thế tôn! Con dùng tâm mà nghe và phân biệt mọi niệm lự,
tri kiến của chúng sanh; nếu ở phương nào khác, ngoài hằng sa
cõi nước, có một chúng sanh phát tâm tu niệm hạnh Phổ Hiền, thì
trong khiấy, con liền cỡi voi trắng sáu ngà, phân hóa trăm ngàn
thân đến khắp các nơi ấy; dầu choc húng sanh đó nghiệp chướng
sâu dày không thể thấy con, thì con nhân trong khi tối tăm lấy
tay rờ đầu, gia hộ an ủi khiến đặng thành công đức. Nay Phật
hỏi viên thông, như bổn nhân chứng ngộ của con, là phát minh
tánh nghe, phân biệt tự tại, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Phổ Hiền
Bồ tát (hạnh độ sanh cùng pháp giới là Phổ, gần địa vị cực thánh
là Hiền) nhân tu nhĩ thức mà chứng nhập viên thông. Phổ Hiền có
ba vị khác nhau:
- 1.
Vị Tiền Phổ Hiền tức là hai vị Tư lương và Gia hạnh.
- 2.
Ðương vị Phổ Hiền tức Sơ địa cho đến Ðẳng giác, Diệu
giác.
- 3.
Vị hậu Phổ Hiền, tức là khi chứng Phật quả rồi, nhưng
khkông quyến luyến cái vui nơi cảnh Niết bàn, chỉ vì nguyện đại
bi luôn luôn trở lại độ sanh tế vật, như Ngài Văn Thù, Quán Âm,
Phổ Hiền v.v... Vậy biết Ngài Phổ Hiền là vị Ðại Bồ tát đã thành
Phật mà trở lại độ sanh. Chính trong nhân địa, Ngài đã phát 10
lời đại nguyện: Từ “lễ kỉnh chư Phật” cho đến “Phổ giai hồi
hướng”. Ngài đã phát minh tánh nghe chơn thật của bản tâm thanh
tịnh, không còn tùy tùng theo cái nghe hư vọng của nhĩ căn và
nhĩ thức, nên không bị điều chi cách ngại; nên hễ có mỗi một
chúng sanh nào cách xa hằng sa thế giới mà phát tâm tu hành Phổ
Hiền, thì Ngài liền quán biết rõ ràng, phân vô số thân, cỡi voi
trắng sáu ngà (biểu 6 độ của Bồ tát) đến tận nơi mà tìm cách an
ủi, khuyên lơn, tán thán, gia hộ khiến chúng sanh ấy mau thành
tựu như Ngài. Các vị muốn tu Bồ tát thừa sau khi thấy rõ chơn
tâm, phát minh căn bản trí, đều phải khởi sai biệt trí, tùy nghi
phương tiện mà giáo hóa độ sanh mới thành tựu viên mãn Phật quả;
nếu thiếu hạnh Phổ Hiền tế độ quần sanh thì hạnh giác tha bị
thiếu, nên Phật dạy các Bồ tát tu hạnh lợi tha đều nên tu theo
hạnh đức Phổ Hiền và cũng lấy tên ấy mà làm tên của mình.
- *
-
DO TỶ THỨC MÀ CHỨNG A LA HÁN
- Ông Tôn Ðà La
Nan Ðà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch
rằng: - Con lúc đầu xuất iga theo Phật nhập đạo, tuy đối với
giới luật (giới) giữ gìn đầy đủ, mà đối với pháp Tam ma địa
(định) thì tâm thường loạn động, nên chưa thành vô lậu. Ðức Thế
Tôn dạy con cùng ông Câu Thi La quán tướng trắng trên chót sống
mũi. Lúc đầu quán kỹ, trải qua 21 ngày thấy hơi trong mũi ra
vào như khói, thân tâm thế giới trong ngoài rỗng suốt, khắp đều
trong sạch như ngọc Lưu ly. Rồi dần dần tướng khói tiêu tan mà
hơi thở lại biến thành sắc trắng, tâm đặng khai ngộ; các lậu
tiêu trừ, hơi thở ra vào hóa thành ánh quang minh, soi cùng mười
phương thế giới, chứng quả A La Hán. Ðức Thế Tôn thọ ký cho
con, tương lai chứng đặng Bồ đề. Nay Phật hỏi viên thông, con
do tiêu trừ hơi thở; hơi thở tiêu nên tâm phát sáng, sáng càng
viên mãn, các lậu dứt trừ, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Tôn Ðà La
Nan Ðà nhân tu về tỷ thức mà ngộ nhập Viên thông; trên đường tu
hành chơn chánh đến kết quả vô thượng Bồ đề là phải đủ ba điều
kiện cần yếu: giới luật, thiền định và trí tuệ. Giới để ngăn
ngừa tội lỗi, Ðịnh để đón dẹp vọng tưởng tán loạn, Huệ để phá vô
minh thấu rõ thật lý. Bởi vậy mặc dầu giữ gìn giới luật hoàn
toàn mà tâm thiếu thiền quán, bị tán loạn, thì bao nhiêu hoặc
lậu vô minh vẫn còn tương tục ngăn che thánh quả vô lậu. Thiền
quán cốt tại buộc tâm vào một chỗ hay một pháp môn để quán sát.
Như Phật dạy ông Tôn Ðà La Nan Ðà Câu Thi La chuyên tâm quán
tướng trắng đầu chót sống mũi; hễ quán tâm lần sâu xa, thì cảnh
sở quán lần thanh tịnh, nên thấy hơi thở có khi như hơi khói, có
khi thành trắng đến khi hóa ra ánh sáng, đều do quán tâm sâu cạn
mà ra cả. Cảnh sở quán đã sáng suốt, tâm năng quán cũng viên
minh, thì thân tâm thế giới mười phương, thảy đều trong suốt như
chất lưu ly, không nhơ bợn, không ngăn cách, ấy là dứt nhân sanh
tử, được Phật thọ ký chứng quả Bồ đề.
- *
-
DO THIỆT THỨC MÀ CHỨNG A LA HÁN
- Ông Phú Lâu
Na Di Ða La Ni Tử, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật
và bạch rằng: - Con từ nhiều kiếp lại đây, biện tài vô ngại,
tuyên nói các pháp khổ, không đạt cùng thật tướng; như vậy cho
đến tất cả pháp môn bí mật của hằng sa Như Lai, con đều đem giải
bày rất rõ ràng, vi diệu ra giữa đại chúng không chút sợ sệt.
Ðức Thế Tôn biết con có tài hùng biện, nên dùng âm thanh tuyên
nói pháp luân dạy con đem ra truyền bá. Con ở trước Phật dùng
tiếng thuyết pháp như sư tử rống, để giúp Phật chuyển pháp luân,
đặng thành A La Hán. Ðức Thế Tôn ấn chứng con là người thuyết
pháp không ai bằng. Nay Phật hỏi viên thông, con do pháp âm,
hàng phục lũ ma oán, tiêu diệt các lậu, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Phú Lâu
Na Di Ða La Ni Tử, nhân tu thiệt thức mà ngộ nhập viên thông.
Thiệt thức có công năng biết vị và thuyết pháp. Phật vì muốn
cứu chúng sanh khỏi vòng điên đảo, chấp mọi sự vật là thường, là
lạc, là ngã, là tịnh, nên truyền dạy Pháp vô thường, khổ, vô
ngã, bất tịnh. Nhân đó mà hàng Nhị thừa giải thoát phần đoạn
sanh tử, chứng Vô dư y Niết bàn và đem giáo hóa dẫn đạo chúng
sanh. Thật ra trong khi Phật dạy lý vô thường, khổ, bốn điều ấy
nhận thấu thật tướng, bình đẳng thường, lạc, ngã, tịnh, của tất
cả các pháp. Vì thật tướng ấy mới là pháp môn bí mật của hằng
sa đức Như Lai, là chỗ muốn chỉ cho âm thanh luân của Phật tuyên
nói khổ không, để điều nhiếp chúng sanh, hàng phục ma ngoại
-
DO THÂN THỨC MÀ CHỨNG A LA HÁN
- Ông Ưu Ba Ly
liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật mà bạch rằng: - Con
thân hành theo Phật, thấy Ngài vượt thành xuất gia, chính con
quán thấy đức Như Lai, 6 năm tu khổ hạnh, hàng phục loài ma, uốn
dẹp ngoại đạo, giải thoát các tham dục thế gian; lại được thừa
lãnh giáo giới của Phật chế; như thế cho đến 3000 oai nghi,
80000 hạnh vi tế, nào tánh nghiệp, nào giá nghiệp, con đều gìn
giữ thanh tịnh, thân tâm vắng lặng, thành bậc A La Hán. Con là
giềng mối trong chúng đệ tử của Như Lai. Phật ấn chứng tâm con,
giữ giới tu thân, chúng suy tôn là bậc thượng thủ. Nay Phật hỏi
viên thông thì con trước do chấp giữ thân, thân đặng tự tại; sau
lại do chấp giữ tâm, tâm đặng thông suốt. Vậy sau tất cả thân
tâm thảy đều thông lợi, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Ưu Ba Ly
nhân tu thân thức mà ngộ nhập Viên thông. Ông là một người hầu
cận của Phật trong khi Ngài còn làm Thái tử, nên thấy rõ hành
động của Phật khi xuất gia, khi tu khổ hạnh cho đến khi thuyết
phục tà ma, thành đạo quả và thiết chế giới luật, lại là vị đệ
tử trì luật thứ nhứt, lãnh thọ giới luật, thanh tịnh tu trì.
Nào những điều thể tánh vốn ác như sát, đạo, dâm, vọng, gọi là
tánh nghiệp; những điều thể tánh tuy không ác nhưng vì hay mở
đường tội lỗi như rượu v.v... mà Phật chế ngăn gọi là giá
nghiệp, cho đến 3000 oai nghi (250 giới đều có 4 cử động là đi,
đứng, ngồi, nằm, 250x4 = 1000; 1000 đối với 3 tụ giới thành ra
3000). 84000 tế hạnh (3000 oai nghi đem phối với bảy chi: sát,
đạo, dâm, lưỡng thiệt, vọng ngôn, ác khẩu, ỷ ngữ, thành 21000;
lại phối với 4 phần phiền não là đa tham, đa sân, đa si, tham si
đồng phần, thành ra 84000) thảy đều giữ gìn, không giới nào
khuyết phạm, thân thường ở trong giới, toàn thân tức là giới,
khi giới đã thanh tịnh, thì thân ấy là thân tịch diệt, mà tâm ấy
là tâm chơn thường diệu giác, mặc dù ở trong thế gian uế ác mà
không bao giờ ô nhiễm như diệu liên hoa vậy.
- *
-
DO Ý THỨC MÀ CHỨNG A LA HÁN
- Ông Ðại Mục
Kiền Liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch
rằng: - Lúc trước con đi khất thực, giữa đường gặp ba anh em
ông Ca Diếp Ba, là Ông Ưu Lầu Tần Loa, ông Già Da và ông Na đề
tuyên nói nghĩa nhân duyên sâu xa của Như Lai; con liền phát
tâm, thấu suốt rộng lớn, đức Như Lai cho con mặc y ca sa, râu
tóc con tự rụng hết. Con dạo đi cùng mười phương, không bị ngăn
ngại, phát minh thần thông, được chúng suy tôn con là hơn hết và
thành A La Hán. Ðâu chỉ một mình Thế Tôn, mà mười phương Như
Lai củng đều khen thần lực con, tròn sáng thanh tịnh, tự tại
không e sợ. Nay Phật hỏi viên thông, con xoay ý thức về tánh
viên trạm, tam quang mở bày, ví như lắng dòng nước đục, lâu ngày
thành trong suốt, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Ðại Mục
Kiền Liên nhân tu ý thức mà ngộ nhập viên thông. Sau khi nghe
ba anh em ông Ca Diếp Ba nói lý nhân duyên của Phật, liền ngộ
đặng nhân duyên thâm nghĩa, không phải như nghĩa thông thường,
nói các pháp có ra là do nghiều cái họp lại; hơn nữa các pháp
nhơn duyên sanh tức không thiệt có, tức là như huyện, tức là
trung đạo thật tướng; chính nơi các pháp đối đãi sanh diệt. Vậy
nên dầu gần dầu xa, dầu lớn dầu nhỏ, không còn chút già ngăn
ngại, xứng ý thật tướng, phát hiện thần thông để độ chúng sanh
và phụng thờ chư Phật. Vì được như vậy nên ông Mục Kiền Liên
mới được gọi là thần thông bực nhứt.
- Sáu vị trên
đây là do tu sáu thức mà được viên thông.
-
DO LỬA MÀ CHỨNG A LA HÁN
- Ông Ô Sô Sắc
Ma ở trước Như Lai chắp tay cúi đầu đảnh lễ chân Phật và bạch
rằng: - Con thường nhớ lại nhiều kiếp xa xôi về trước, tánh
nhiều tham dục. Có đức Phật ra đời hiệu là Không Vương. Ngài
dạy: người nhiều dâm tánh là thành đống lửa hãi hùng, lại dạy
con quán khắp 100 hài 4 vóc, các khí lạnh, nóng và tinh thần bề
trong mà được ngưng tịnh, hóa tâm đa dâm thành ra lửa trí huệ.
Từ đó chư Phật đều gọi con là Hỏa dầu. Con do sức hỏa quang tam
muội mà thành A La Hán, tâm phát nguyện lớn: “Hễ chư Phật thành
đạo thì con làm người lực sĩ hầu cận, uốn dẹp lũ ma oán”. Nay
Phật hỏi viên thông, con do quán sát cái xúc nóng nơi thân tâm,
rỗng suốt không ngại, các lậu tiêu trừ, phát sanh lửa trí huệ
lớn báu, lên bậc vô thượng giác, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Ô Sô Sắc
Ma nhân tu về Hỏa đại mà ngộ nhập viên thông. Chỉ vì còn vọng
tưởng nên còn tánh tham dâm; do tánh tham dâm mới kết thành lửa
nghiệp hẩy hừng đốt cháy thân tâm, lu mờ ánh sáng trí huệ.
Nhưng vọng tưởng chỉ là tâm, tham dâm chỉ là tâm, mà trí huệ
cũng chỉ là tâm; nếu tâm vọng tưởng tham dâm ngừng tiêu, thì lửa
trí huệ phát hiện. Ông Ô Sô Sắc Ma vốn người nhiều dâm dục; sau
khi nghe đức Phật Không Vương dạy cho biết người đa dâm biến
thành đống lửa dữ, mới chuyên tâm quán sát toàn thân tứ đại vốn
không chủ tể; 100 hài và 4 vóc, khi lạnh khi nóng v.v.. đều
thuộc về tứ đại; tâm đa dâm vốn không tự tánh, tất cả đều do
vọng tưởng mà ra; bởi tạng tâm tùy duyên biến hiện, ngộ được tất
cả vô tánh, tức thành định lực hỏa quang tam muội đốt cháy hết
thảy thế gian và oán ma sanh tử.
- *
-
DO ÐẤT MÀ ÐƯỢC CHỨNG BỒ TÁT
- Ông Trì Ðịa
Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch
rằng: - Con nhớ kiếp xưa thuở đức Phổ Quang Như Lai hiện thân
ra đời. Con làm thầy Tỳ kheo thường đi đến các nẻo đường, bến
đò, ruộng đất hiểm trở, hoặc làm cầu cống, hoặc gánh cát, đất,
siêng năng khổ nhọc như vậy, trải qua vô lượng đức Phật ra đời.
Hoặc có chúng sanh ở chỗ chợ búa, cần người chuyển vật, con vì
họ trước hơn ai cả, chuyển đi đến nơi tận chỗ để đổ vật xuống,
liền đi ngay, chứ không nhận lấy tiền thuê. Trong khoảng đức
Phật Tỳ Xá Phù ra đời, ở thế gian, phần nhiều bị đói thiếu,
conlàm người chuyên chở không kể gần xa, chỉ lấy lấy thuê một
tiền; nếu có xe trâu mắc phải bùn lầy thì con đem sức lực vì
chúng đẩy xe, cứu vớt sự khổ não. Vị quốc vương thuở ấy, mời
Phật thết trai cúng dường; bấy giờ con sửa sang đất đai bằng
phẳng chờ Phật đi qua. Ðức Tỳ Xá Như Lai khi đi ngang qua, xoa
đầu con và bảo: “Hãy bình tâm địa thì thế giới đại địa cả đều
bình”. Tâm con liền đặng mở mang, thấy rõ vi trần tạo thành ra
thế giới, bình đẳng không khác; tự tánh của vi trần không chạm
lẫn nhau, cho đến đao binh cũng chẳng hề đụng chạm; trong các
pháp tự tánh, ngộ được vô sanh nhẫn, thành bực A La Hán. Xoay
tâm tiểu thừa này vào trong vị Bồ tát, nghe các Như Lai nói chỗ
tri kiến Phật như Diệu Liên Hoa; con đặng chứng tỏ lần đầu tiên
mà làm vị thượng chủ. Nay Phật hỏi viên thông, con do chỗ đế
quán hai thứ vi trần của căn thân và thế giới bình đẳng như
nhau, vốn từ Như Lai tạng hư vọng phát sinh trần cấu, trần cấu
tiêu rồi thí trí viên mãn, thành Bồ tát, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ngài Trì Ðịa
Bồ tát nhân nơi địa đại mà chứng ngộ viên thông. Phàm những vị
phát tâm hướng cầu Bồ đề mà tu Bồ tát hạnh, thường xem việc lợi
tha làm trọng, lợi kỷ làm khinh, lắm khi vì xả kỷ để mà lợi nhân
cũng không tiếc. Nhưng phương tiện thực hành Bồ tát hạnh sai
khác nhau, có vị dùng lời nói dịu dàng thuyết pháp để lợi ích
chúng sanh, có vị đem tiền tài của cải bố thí để lợi ích chúng
sanh v..v... còn như ngài Trì Ðịa thì thường đem thân lực mạnh
khỏa mà giúp ích nhiếp hóa chúng sanh; từ kiếp đức Phật Phổ
Quang xuất thế, mãi về sau vô lượng kiếp Ngài thường đi qua các
nẻo đường, bến đò, và bất cứ nơi nào hiểm trở lầy lội, phương
ngại người đi, ngài đều ra công tự gánh đất cát sửa sang bằng
phẳng, xây dựng cầu cống hoặc gánh gồng mang chở vật nặng giúp
người về tận nơi chỗ mà không lấy tiền thuê, cho đến đẩy dùm xe
trâu bùn lầy tự đi không nổi v.v... Sau nhân gặp đức Tỳ Xá Như
Lai dạy một câu rằng: “Nên bình tâm địa thì đại địa thế giới
tất cả đều bình”. Tâm liền khai ngộ, Ngài chứng quả vô sanh.
Câu ấy nghĩa là tất cả đại địa vi trần từ trong thân đến ngoài
thế giới đều giả dối, không có tự tánh, chỉ do nhất tâm biến
hiện. Chúng sanh vì mê không ngộ cảnh sở hiện ấy toàn là duy
tâm, vốn không trong ngoài, năng sở cao thấp, nên mới thấy tướng
bất bình; nếu gạt bỏ hết các vọng tưởng đảo điên, mà bình được
tâm địa nơi mình thì đại địa ở ngoài thế giới tự nhiên bằng
phẳng, xem thấy các vi trần hiệp thành nơi thân, vi trần hiệp
thành ngoại giới vốn đồng một tâm, tâm đồng một tánh, bình đẳng
như như, không ngăn ngại nhau thì dù dao cắt vào thân thể như
rạch vào hư không; vi trần không diệt cũng như băng tiêu tức
thành nước, chỉ băng diệt chứ không bị mất. Pháp tánh vốn tự
viên dung, chẳng có gì thêm, bớt, sanh, diệt. Nếu ngộ pháp tánh
ấy tức là nhập chỗ tri kiến của Phật.
- *
-
DO NƯỚC MÀ ÐƯỢC CHỨNG BỒ TÁT
- Ông Nguyệt
Quang Ðồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật
và bạch rằng: - Con nhớ hằng hà sa số kiếp về trước, có đức
Phật ra đời hiệu là Thủy Thiên, dạy các vị Bồ tát tu phép quán
nước, chứng nhập chánh định. Quán nước ở trong thân, tánh nó
không cướp đoạt nhau. Ðầu tiên quán từ nước miếng, rồi đến mồ
hôi, tinh huyết, đại tiện, tiểu tiện xoay vần trong thân mà vẫn
đồng một tánh nước. Quán thấy nước ở trong thân cùng nước biển
hương thủy nơi cõi phù tràng vương ngoài thế giới bình đẳng
không sai khác. Lúc con mới thành pháp quán nước, thì chỉ trong
thấy nước mà chưa được không thân (nghĩa còn chấp có thân này).
Ðang lúc còn làm Tỳ kheo yên lặng tu thiền ở trong nhà, thì có
người đệ tử từ nơi cửa sổ ngó vào, chỉ thấy nước trong khắp đầy
cả nhà, không thấy gì khác, nó trẻ dại không biết, liền lấy một
viên ngói quăng vào trong nước quấy nước lên tiếng, ngó quanh
quẩn rồi bỏ đi; sau khi con xuất định, liền cảm nghe đau bụng,
giống như ông Xá Lợi Phất gặp phải nạn quỷ vi hại. Con tự suy
nghĩ: Nay ta đã được quả A La Hán, khỏi bịnh duyên lâu ngày, vì
sao nay bỗng phát sinh đau bụng, chừng bị thối thất chăng! Bấy
giờ đứa nhỏ thẳng đến trước con, nói lại việc như trên; con liền
bảo: “Hễ ngươi trông thấy nước lại, thì nên liền mở cửa vào
lượm viên ngói quăng đi”. Ðứa nhỏ vâng lời, lúc sau con nhập
định, nó trở lại thấy nước và viên ngói rõ ràng, liền mở cửa
lượm ra. Ðến khi con xuất định, thần thể lại y như cũ. Gặp vô
lượng Phật, như vậy đến đời đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như
Lai, con được vong thân, thân cùng nước biển hương thủy khắp
mười phương hiệp một tánh chơn không, không hai không khác.
Ngày nay đối trước Như Lai được danh hiệu Ðồng Chơn, dự hội Bồ
tát. Nay Phật hỏi viên thông con do thủy tánh, một vị lưu
thông, chứng được phép vô sanh nhẫn, viên mãn đạo Bồ đề, ấy là
thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Nguyệt
Quang đồng tử nhân quán thủy đại mà ngộ nhập viên thông. Thủy
đại là chỉ tất cả nước trong biển cả, nước lưu hành trong thân
v.v.. thuy thấy in tuồng có trong có ngoài, mà vốn dung thông.
Quán thủy đại dung thông cùng khắp thế giới, không chỗ nào không
phải nước, toàn một tướng nước mà thôi, thì tâm phân biệt tiêu
diệt, chân trí vô phân biệt hiện ra. Nhưng đây ông Nguyệt Quang
lúc đầu vì chưa chứng được chơn tự tánh; tánh thủy tức là chơn
không, tánh thân tức là chơn không, tất cả đều chơn, tất cả đều
không; nên ông thấy còn có thân, còn đem thân nhập định, dụng
tâm quán nước, chứ chưa phải tâm tức là định, định tức là tâm,
tâm tức là nước, nước tức là tâm. Vậy nên khi nhập định quán
nước, có tướng nước hiện tiền, đứa đồng tử thấy nước quăng ngói
vào trong, đến khi xuất định tướng nước không còn, lại nghe tâm
đau; về sau gặp đời đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương xuất thế mới
được vong thân; thân đã vong, pháp cũng diệt, thì cùng mười
phương đồng một tánh thủy chơn không, không hai không khác,
chẳng nhập định xuất định, mà tự nhiên chứng được vô sanh pháp
nhẫn.
- *
-
DO GIÓ MÀ CHỨNG THÁNH QUẢ
- Ông Lưu Ly
Quang Pháp vương tử, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân
Phật và bạch rằng: - Con còn nhớ trải qua hằng hà sa số kiếp
trước, có đức Phật ra đời hiệu Vô Lượng thanh, khai thị tánh Bổn
giác diệu minh cho các hàng Bồ tát, quán thế giới này và các
thân chúng sanh, đều bởi sức gió nhân duyên hư vọng chuyển biến
ra. Lúc bấy giờ con quán cõi nước đứng yên, quán thời gian qua
lại, quán thân phần đi đứng, quán tâm niệm động lay, tất cả các
thứ động không hai, như nhau không sai khác.
- Con hiểu biết
rằng tánh c ủa các món động ấy, đến thì không có chỗ ban đầu, đi
không nơi cùng tột; chúng sanh điên đảo số như vi trần trong
mười phương, đều đồng một tánh hư vọng cả. Như vậy cho đến
những loại chúng sanh ở trong một Tam thiên đại thiên thế giới,
chẳng khác nào trong một cái đồ chứa hàng trăm mòng muỗi vo vo
loạn lạc, ở trong phân tấc nổi sanh cuồng náo, gặp Phật chưa bao
lâu mà chứng vô sanh nhẫn; bây giờ tâm địa mở mang, trông thấy
phương đông cõi Phật bất động, làm con đấng Pháp vương (Phật),
kính thờ mười phương Phật, thân tâm phát sáng, rỗng suốt không
ngăn ngại. Nay Phật hỏi viên thông, con do quán sát phong lực
giả dối không chỗ nương, ngộ tâm Bồ đề chứng nhập tam ma địa,
hiệp với mười phương Phật, toàn một diệu giác tâm, ấy là thứ
nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ông Lưu Ly
Quang pháp vương tử do phong đại mà ngộ nhập viên thông. Tánh
bổn giác diệu minh thường không diêu động, nhân xem thấy sự
chuyển lay gọi là phong đại hay phong lực. Ông Lưu ly Quang
thường quán tất cả thân tâm thế giới đều nhơn phong lực chuyển
biến, nào sự thành lập phương cõi, sự qua lại của thời gian; sự
động chỉ nơi thân, sự động niệm nơi tâm, thảy đều không tự tánh,
đều do sức gió hư vọng phát sanh, không thật có đến có đi, hay
có sanh diệt; chúng sanh không nhận biết, chỉ do một tánh hư
vọng như thế, nên cuộc chấp nơi thân phần bé nhỏ, thân lại ràng
buộc vào thế giới; rồi tự chịu lấy sự sanh tử luân hồi rất là
đảo điên oan uổng; không khác nào trăm ngàn con mòng muỗi vô tri
ở trong đồ hẹp bé gang tấc, tự kêu la inh ỏi, diêu động lăng
xăng, mà thật ra gió hư vọng không chỗ nương, chỉ nương Bồ đề
bổn giác. Như sóng nổi từ nước, hễ gió hư vọng tiêu, tức Bồ đề
hiển lộ thông suốt không ngại. Mười phương chư Phật đều lấy cái
đó làm tâm; hết thảy chúng sanh cũng lấy đó làm tâm, chỉ một
điệu tâm vô nhị ấy; nhưng mà chứng nhập được là phải diệt hết mê
lầm.
- *
-
DO HƯ KHÔNG MÀ CHỨNG BỒ TÁT
- Ông Hư Không
Tạng Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch
rằng: - Con với đức Như Lai cùng ở thời đức Phật Ðịnh Quang
(Phật Nhiên Ðăng) chứng được vô biên thân, lúc ấy tay cẩm 4 viên
bảo châu lớn, chiếu sáng mười phương cõi Phật số như vi trần,
đều hóa thành hư không. Lại nơi tự tâm hiện ra cái gương tròn
lớn, từ gương phóng ra mười ánh sáng vi diệu quý báu; trong ánh
sáng lưu xuất mười phương các cõi nước khắp hư không, rồi trở
lại vào trong gương và lần vào thân con. Thân đồng như hư
không, chẳng còn sợ ngăn ngại, nên có thể khéo léo hiện thân vào
các quốc độ số như vi trần, rộng làm Phật sự, được công đức tùy
thuận rộng lớn.
- Ðạt thần lực
như thế ấy là con chín chắn quán sát tứ đại không chỗ nướng,
sanh diệt theo vọng tưởng; hư không không hai và cõi Phật vốn
đồng, phát minh tới chỗ đồng, chứng đặng vô sanh nhẫn. Nay Phật
hỏi viên thông, con do quán sát hư không không ngằn, ngộ nhập
Tam ma địa, diệu lực viên mãn sáng suốt, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ngài Hư Không
Tạng Bồ tát nhân tu không đại mà chứng nhập viên thông.
- Quán sát 4
món đại là giả dối, như huyễn đều do vọng tưởng của chúng sanh
phát hiện; mà vọng tưởng không có thiệt tánh, y nơi nhứt tâm;
khi đã ngộ lý duy tâm triệt để thì cả 4 đại sắc không, bổn lai
bịnh đẳng như hư không. Như bài kệ nói:
- Hư không chẳng phải cao, th ấp
cũng không thể có; các pháp cũng như vậy, tánh vốn không cao
thấp. Bồ tát Hư Không Tạng, đặng kho tàng hư không. Ðầy đủ cho
hữu tình, thức ấy không cùng tận.
- Ðem thức tâm
hư không vô tận ấy mà ấn nhập tất cả pháp, thì pháp nào cũng vô
tận, toàn tâm là sắc, vậy nên tất cả pháp đều duy tâm sở hiện
duy tâm không có trong ngoài.
- Trong bài
này, ngọc châu là tiêu biểu sắc pháp, gương sáng là tiêu biểu
tâm pháp. Toàn sắc là tâm không phân chia chủ bạn, nên hay soi
chiếu mười phương vi trần cõi Phật hóa thành hư không. Toàn tâm
là sắc, không phải xa rồi nơi bổn tế. Nên hay phóng quang hiện
phương cõi, đều vào trong gương, trong thân không chút nào ngăn
ngại; chính nơi thân mà hiện độ, nơi độ mà hiện thân, để hoằng
pháp độ sanh, tiếp nối Phật chủng mà không bao giờ trái với tánh
bình đẳng thanh tịnh của pháp thân, nên gọi là đức tùy thuận
rộng lớn.
- *
-
DO THỨC ÐẠI MÀ CHỨNG THÁNH QUẢ
- Ngài Di Lặc
Bồ tát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch
rằng: - Con nhớ trải qua vi trần số kiếp về trước, có đức Phật
ra đời là Nhựt Nguyệt Ðăng Minh. Từ đức Phật ấy, con được xuất
gia, nhưng tâm con còn nặng nề thế danh, ưa giao du với các
giòng quyền quý. Lúc ấy đức Thế Tôn dạy con tu tập pháp định
duy tâm thức mà ngộ nhập Tam ma địa. Nhiều kiếp lại đây, do sức
Tam muội ấy, con kính thờ hằng hà sa số Phật và tâm ham chuộng
thế danh kia nay đã hết. Ðến kiếp đức Phật Nhiên Ðăng ra đời,
con mới được chứng pháp vô thượng diệu viênt hức tâm tam muội,
thấy khắp hư không các cõi nước dù uế, tịnh, có, không, thảy đều
do tâm thức con biến hóa hiện ra. Bạch Thế Tôn! Bởi con liễu
chứng duy tâm thức tánh như vậy, từ thức tánh xuất hiện vô lượng
Như lai, nên nay đặng Phật thọ ký sẽ bổ xứ làm Phật. Nay Phật
hỏi viên thông, con do chín chắn quán sát mười phương đều là duy
thức, thức tâm viên mãn sáng suốt, chứng nhập tánh viên thành
thật, xa lìa tánh y tha và biến kế chấp, ngộ vô sanh nhẫn, ấy là
thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Ðức Di Lặc Bồ
tát nhân tu duy thức mà ngộ viên thông.
- Ngột tất cả
vạn Pháp đều do nơi thức biến hiện thì cảnh nào cũng là tánh
cảnh, cũng là tánh viên thành thật. Không ngộ tất cả vạn pháp
do nơi thức biến hiện, in tuồng sanh mà không thật sanh, in
tuồng diệt mà không thật diệt; nếu chấp thiệt có sanh diệt,
thành pháp y tha. Các pháp do y tha (nhân duyên) sanh khởi mà
không nhận là y tha, lại so đo sai làm, chấp có ngã, ngã sở, cho
nên thường bị danh tướng thế gian ràng buộc. Tam còn ham chuộng
thế danh, vì còn cho thế gian là thiệt. Trái lại, sau khi ngài
Di Lặc tu tập phép duy tâm, duy thức, quán sát tất cả danh là
giả, tất cả tưởng là giả, không vì duyên gì còn làm sanh trưởng
tâm ham mê danh vị được nữa. Lần lần chứng được vô thượng diệu
viên thức tâm tam muội (chơn duy thức tánh) chẳng những không
thấy thiệt có tướng duy thức; vì mười phương Như Lai, quốc độ,
sắc không v.v... đều không món nào ra ngoài thức tánh ấy mà tự
có. Các pháp đã là thức tánh, thì pháp pháp đều là tự tánh viên
mãn, thành tựu chân thật, nơi tánh viên thành, sanh vốn vô
sanh. Cho nên xa lìa y tha như huyễn, nơi tánh viên thành không
thiệt có ngã và ngã sở, xa lìa biến kế sai lầm, chứng pháp vô
sanh nhẫn.
- *
-
DO
KIẾN ÐẠI MÀ CHỨNG THÁNH QUẢ
- Ngài Ðại Thế
Chí pháp vương tử cùng các Bồ tát đồng hàng là năm mươi hai vị,
liền từ chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật và bạch rằng: - Con nhớ hằng
sa số kiếp trước, có đức Phật ra đời hiệu Vô Lượng Quang. Nội
trong một kiếp ấy, mười hai đấng Như Lai kế nhau ra đòi. Vị
Phật sau hết hiệu là Siêu Nhựt Nguyệt Quang. Ngài dạy con tu
phép Niệm Phật Tam muội. Ví như có hai người, một đàng chuyên
nhớ, một đàng chuyên quên, thì hai người ấy hoặc gặp nhau cũng
như chẳng gặp, dù thấy nhau cũng như không thấy; nếu cả hai
người nhớ nhau, hai mối nhớ càng ăn sau thì dù đời này cho đến
trải qua đời khác, cũng luôn luôn như bóng với hình, không bao
giờ trái xa.
- Mười phương
các đức Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con
trốn tránh, tuy mẹ nhớ cũng chẳng có ích gì; nếu con nhớ mẹ như
mẹ nhớ con, thì mẹ con đời đời không xa cách nhau. Nếu chúng
sanh đem tâm nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tại hay tương lai chắc
chắn thấy Phật, cách Phật không xa, chẳng cần tu hành phương
tiện nào khác mà tự nhiên tâm được khai ngộ. Cũng như người ướp
hương mà thân có hương như thế gọi là dùng hương quan để trang
nghiêm vậy. Chỗ bổn nhơn tu hành của con là do tâm niệm Phật mà
ngộ vô sanh nhẫn, nguyện ở cõi này để nhiếp hóa mọi người niệm
Phật vãng sanh Tịnh độ. Nay Phật hỏi viên thông, con vốn không
lựa chọn, chuyên thâu nhiếp cả sáu căn, khiến cho Tịnh niệm nối
luôn, được vào Tam ma địa, ấy là thứ nhứt.
-
LƯỢC GIẢI
- Kiến đại cũng
tức là căn đại; trước thức đại thuộc về thức, đây kiến đại thuộc
về căn. Ngài Ðại Thế Chí Pháp vương tử, nhơn tu kiến đại mà ngộ
nhập viên thông.
- Không như các
viên thông trước, chỉ lựa chọn từng căn để hạ thủ công phu, mà
trái lại ở đây, ngài Ðại Thế Chí nhân pháp niệm Phật Tam muội
nhiếp phục cả 6 căn, quy cả 6 căn đều thâu về nơi nhứt niệm niệm
Phật, khôn để tán loạn dong ruổi theo ngoại duyên. Tịnh niệm
thường nối luôn, không xen một niệm gì khác, thì quyết nhiên
chứng đặng niệm Phật tam muội, thường thương xót tưởng niệm
chúng sanh, như nhớ con dại; nếu chúng sanh chuyên tâm nhớ Phật,
niệm Phật như con biết nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, thì hiện tiền
hoặc tương lai, quyết định gặp Phật, thấy Phật, vì nhân nào quả
nấy mảy mún không sai. Trái lại, Phật tuy nhớ chúng sanh, mà
chúng sanh cứ trốn tránh không biết nhớ Phật; cũng như hai
người, một bên chuyên nhớ, còn một bên chuyên quên, thì gặp cũng
như không gặp, thấy cũng như không thấy, chẳng ích gì.
- Vả chăng, tâm
mê ngộ của chúng sanh cũng như mẹ và con vậy. Tâm ngộ như mẹ
tâm mê như con, ngộ luôn luôn có trong mê, ví như mẹ thương nhớ
con, mà mê thì không biết tự nhận, niệm niệm chuyển dời trái
tánh giác, hiệp trần lao, ví như con trốn tránh không nhớ nghĩ
đến mẹ, bởi vậy mà uổng chịu luân hồi sanh tử. Nếu biết phản
quán, đem tâm niệm Phật giác ngộ nơi tự tâm, thì mỗi phút, mê
hóa thành giác, năng sở đều chứng nhập tánh pháp giới bình đẳng,
không ly đương độ mà nhiếp hóa những chúng sanh niệm Phật đồng
vãng sanh Tịnh độ.
- Bảy vị trên
đây do tu bảy đại mà chứng đạo quả.
- *
-
DO NHĨ CĂN MÀ ÐƯỢC NGỘ ÐẠO
- Khi đó, đức
Quán Thế Âm Bồ tát đứng dậy cung kính lạy Phật và thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn, con nhớ từ hằng hà sa số kiếp về trước,
có Phật ra đời, tên là Quán Âm. Con đối với trước Phật Quán Âm
phát tâm Bồ đề. Ngài dạy con từ nơi nghe rồi nhớ và tu mà được
vào chánh định (văn, tư, tu là điều cần yếu của người tu hành).
- Khi mới nghe
tiếng, không chạy theo thinh trần, xoay cái nghe trở vào chơn
tánh (nhập lưu vong sở). Vì chỗ vào (chơn tánh) đã yên lặng, nên
độ và tịnh hai món trần cảnh không sanh.
-
LƯỢC GIẢI
- Ðại ý đoạn
này nói: Khi cái nghe đối với tiếng, không khởi vọng niệm phân
biệt theo tiếng, do xoay cái nghe trở lại tự tánh, nên tâm yên,
cảnh tịch. Ðây mới giai đoạn thứ nhứt.
- *
- Như thế lần
lần lần tăng tấn đến cái nghe (năng) và cảnh bị nghe (sở) cũng
hết (đoạn trên nói thinh trần yên tịnh, song còn cái nghe; đoạn
này nói “cái nghe” và “trần bị nghe” đều hết).
- Cũng không an
trụ ở chỗ hết nghe. Cái biết hết và cái bị biết củng không còn
(đoạn trên nói “cái nghe với cái bị nghe hết”, nhưng còn chấp ở
nơi “cái hết”. Ðoạn này nói cũng không chấp ở nơi “cái hết”.
Ðoạn này nói cũng không chấp ở nơi chỗ hết. Song sợ e còn “cái
biết hết”, nên nói tiếp: cái biết và cái bị biết cũng không).
- “Cái biết” và
“cái bị biết” cả hai đều không, đến chỗ cùng tột viên mãn. Song
hãy còn cái “không”, phải tiến lên một từng nữa là cái “không”
với cái “bị không” cả hai đều diệt hết. Khi các cái sanh và
diệt đã diệt hết, thì cái chơn tâm tịch diệt hiện tiền.
- *
-
LƯỢC GIẢI
- Cách tu hành
của Ngài Quán Thế Âm Bồ tát là:
- 1.
Bắt đầu từ khi cái nghe đối với thinh trần, không khởi
phân biệt theo thinh trần, nên thinh trần tự vắng lặng; song còn
cái “nghe”.
- 2.
Ðến giai đoạn thứ hai cái nghe (năng, sở) cũng hết, song
còn cái “hết”.
- 3.
Ðến từng thứ ba không chấp ở nơi hết, song còn cái “biết
hết”.
- 4.
Ðến từng thứ tư là “cái biết” đó cũng không, song còn cái
“không”.
- 5.
Lên đến từng thứ năm là cái “không” đó cũng không còn.
Lúc bấy giờ các cái vọng niệm phân biệt chấp trước đều hết, thì
chơn tâm thanh tịnh tự hiện bày; cũng như các cặn đục đã hết,
thì tánh nước trong tự hiện. Mười phương các đức Phật hay các
vị đại Bồ tát tu hành, chỉ có một con đường duy nhứt là trừ hết
“vọng” thì “chơn” hiện bày, như lau gương sạch bụi, thì ánh sáng
tự hiện, thế gọi là thành Phật, hay là chứng đại Niết bàn.
- *
-
IV. Ngài Quán
Âm kể lại sự kết quả
- (Ðoạn trên là
Ngài ngộ được chơn tâm, từ đây về sau là chơn tâm khởi ra diệu
dụng)
- - Bạch Thế
Tôn, do con tu như vậy, nên vượt ra khỏi thế gian, và xuất thế
gian. Vì đã được chơn tâm thanh tịnh sáng suốt viên mãn khắp cả
mười phương cùng với chư Phật và chúng sanh đồng một thể tánh
ấy, nên con được hai điều thù thắng:
- a. Hiệp với
đức “từ độ sanh” của chư Phật.
- b. Hiệp vời
lòng “bi ngưỡng mộ” của tất cả chúng sanh. Và được các món diệu
dụng như sau:
-
A. HIỆN RA 32 ỨNG THÂN ÐỂ HÓA ÐỘ TẤT
CẢ CHÚNG SANH
- - Bạch Thế
Tôn, con nhờ chứng được chỗ đồng thể đó, nên cùng với chư Phật
hiệp đức từ, hiện ra 32 ứng thân để tùy thuận theo các chúng
sanh mà hóa độ.
- 1. Hiện thân
Phật
- 2. Hiện
thân Ðộc giác
- 3. Hiện thân
Duyên giác
- 4. Hiện thân
Thinh văn
- 5. Hiện thân
Phạm vương
- 6. Hiện thân
Ðế thích
- 7. Hiện thân
Trời tự tại
- 8. Hiện thân
Trời đại tự tại
- 9. Hiện thân
Ðại tướng quân
- 10.Hiện thân
Tứ thiên vươong
- 11. Hiện thân
Thái tử
- 12. Hiện thân
vua
- 13. Hiện thân
trưởng giả
- 14. Hiện thân
cư sĩ
- 15. Hiện thân
tể quan
- 16. Hiện thân
Bà la môn
- 17. Hiện thân
Tỳ kheo
- 18. Hiện thân
Tỳ kheo ni
- 19. Hiện thân
Ưu bà tắc
- 20. Hiện thân
Ưu bà di
- 21. Hiện thân
bà Chúa
- 22. Hiện thân
đồng nam
- 23. Hiện thân
đồng nữ
- 24. Hiện thân
Trời
- 25. Hiện thân
Rồng
- 26. Hiện thân
Dược xoa
- 27. Hiện thân
Càn thát bà
- 28. Hiện thân
A tu la
- 29. Hiện thân
Khẩn na la
- 30. Hiện thân
Ma hầu la đà
- 31. Hiện thân
người
- 32. Hiện thân
các chúng sanh
-
B. ÐƯỢC 14 MÓN KHÔNG SỢ
- - Bạch Thế
Tôn, con nhờ tu pháp này, chứng được chỗ đồng thể với chúng
sanh, nên cùng với chúng sanh đồng một lòng bi ngưỡng mộ. Vì
thế nên con khiến cho các chúng sanh đặng 14 món không sợ
- 1. Chúng
sanh khổ não quán tiếng tăm được giải thoát
- 2. Vào lửa
không cháy
- 3. Vào nước
không chìm
- 4. Quỷ không
hại được
- 5. Dao chặt
không đứt
- 6. Quỷ không
thể thấy được
- 7. Không ai
trói cột được
- 8. Không ai
trộm cướp được
- 9. Lìa tâm
dâm dục
- 10. Lìa nóng
giận
- 11. Lìa si mê
- 12. Cầu nam
đặng nam
- 13. Cầu nữ
đặng nữ
- 14. Niệm danh
hiệu Quán Thế Âm công đức bằng niệm danh hiệu của hằng sa Bồ tát
-
C. ÐƯỢC 4 MÓN KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
- - Bạch Thế
Tôn, con nhờ tu pháp môn này mà đặng bốn món thần diệu không thể
nghĩ bàn:
- 1. Hiện
nhiều đầu, nhiều tay và nhiều mắt
- 2. Hiện hình
nói thần chú
- 3. Chúng
sanh hy sinh tài sản cầu con thương xót
- 4. Chúng
sanh cầu chi được nấy
- - Bạch Thế
Tôn, do đó mà đức Phật Quán Âm thọ ký cho con tên là Quán Thế
Âm.
--o0o--
|
|