-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
-
-
Mục Lục Khóa Thứ
bảy
-
Triết Lý Ðạo
Phật hay là
Ðại Cương Kinh Lăng Nghiêm
-
(tiếp theo)
- ---
o0o ---
-
- Bài Thứ
Sáu
-
-
Mục Lục
-
I. Phật bảo Ngài Văn Thù lựa pháp tu
viên thông
-
II. Ngài Văn Thù vâng lời Phật lựa
phương pháp tu
-
III.Chúng sanh ở thế giới ta bà này
nhờ có nghe pháp mới biết đường lối tu hành
-
IV. Công năng của nhĩ căn (tai nghe)
-
V. Ngài Văn Thù quở trách ông A Nan
học nhiều mà không tu
-
VI. Các vị nghe pháp được chứng ngộ
-
VII. A Nan cầu Phật chỉ dạy phương
pháp để độ chúng sanh đời sau
-
VIII. Phật dạy phải tu giới, định, huệ
-
IX. Ðây nói về đại thừa tâm giới có
bốn: dâm, sắc, đạo, vọng
-
- ---o0o---
- Bài Thứ Sáu
-
I.
Phật bảo Ngài Văn Thù lựa pháp
tu viên thông
- Khi ấy Phật
bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi:
- -
Ông đã nghe các vị đại Bồ tát và A La Hán vừa trình bày
các phương pháp tu hành được thành đạo quả. Thật ra 25 pháp tu
này, đối với các vị thánh, thì tu pháp nào cũng đều được chứng
quả cả, không có pháp nào hơn và kém. Song nay ta muốn cho A
Nan và chúng sanh đời sau, nếu muốn vào đại thừa Bồ tát thì đối
với 25 pháp tu này, ông nên lựa pháp nào tu hành để mau thành
đạo vô thượng Bồ đề.
-
II.
Ngài Văn Thù vâng lời Phật lựa
phương pháp tu
- Ngài Văn Thù
Sư Lợi vâng lời Phật dạy, đứng dậy lạy Phật, kính cẩn nói bài
kệ, khen chơn tâm nhiệm mầu sáng suốt, chỉ rõ cái “vọng” vốn
không và lựa chọn pháp tu viên thông.
- NGUYÊN VĂN
CHỮ HÁN
- Giác hải tánh trừng
viên
- Viên trừng giác
nguyên diệu
- Nguyên minh chiếu
sanh sở
- Sở lập chiếu
tánh vong
- Mê vọng hữu
hư không
- Y không lập
thế giới
- Tưởng trừng
thành quốc độ
- Trí giác nãi
chúng sanh
- Không sanh
đại giác trung
- Như hải nhứt
âu phát
- Hữu lậu vi
trần quốc
- Giai y không
sở sanh
- Âu diệt không
bổn vô
- Huống phục
chư tam hữu
- Quy nguyên
tánh vô nhị
- Phương tiện
hữu đa môn
- Thánh tánh vô
bát thông
- Thuận nghịch
giai phương tiện
- Sơ tâm nhập
tam muội
- Trì tốc bất
đồng luân
- DỊCH NGHĨA
- -
Chơn tâm thanh tịnh viên mãn lại nhiệm mầu, như biển đứng
lặng và rộng sâu. Vì vọng động chiếu soi (phân biệt) nên sanh
ra có cảnh bị chiếu (bị phân biệt). Khi năng, sở đã vọng sanh,
thì cái “tánh chơn” lại ẩn (chiếu tánh vong).
-
LƯỢC GIẢI
- Như biển đứng lặng
lóng trong, vì xao động nên thành sóng, lúc bấy giờ tánh trong
lặng của nước bị ẩn đi v.v...
- *
- Từ mê muội vọng động
cho nên có hư không, nhơn hư không mà có thế giới. Những vọng
tưởng si mê lóng lại thành ra thế giới, còn cái phân biệt hiểu
biết thì làm chúng sanh.
- Hư không sanh ở
trong chơn tâm rộng lớn này, cũng như chùm bọt nổi trên mặt
biển. Thế giới nhiều như vi trần đều y hư không mà sanh; khi
bọt tan cũng như hư không diệt, thì hằng sa thế giới đều tiêu
hết.
- Trở về chơn tâm thì
đồng một, nhưng trên đường tu có nhiều phương tiện. Ðối với bực
Thánh, tu pháp nào cũng đều là phương tiện cả. Còn đối với kẻ
sơ tâm tu hành lại có khó và dễ, bởi căn cơ không đồng. Hôm nay
con xét 25 pháp tu của các vị Thánh vừa trình bày, thì duy có
pháp tu nhĩ căn (tai nghe) của ngài Quán Âm mới là viên thông.
-
III
Chúng sanh ở thế giới ta bà này
nhờ có nghe pháp mới biết đường lối tu hành
- Bạch Thế Tôn,
Phật ra đời ở thế giới Ta bà này, dùng âm thanh nói pháp để giáo
hóa chúng sanh. Chúng sanh nhờ có nghe tiếng của Phật nói pháp
mới biết đường lối tu hành được thanh tịnh. Hôm nay muốn đặng
chánh định, quyết phải nhờ có nghe rồi mới tu được.
-
IV. Công
năng của nhĩ căn (tai nghe)
- Bạch Thế Tôn,
như lời Ngài Quán Thế Âm nói: “Ngài ở chỗ thanh vắng, mười
phương đồng đánh trống, nhứt thời dồng được nghe”; nên duy có
nhĩ căn (tai nghe) mới được viên thông. Mắt xem còn bị cách
ngại; miệng, mũi, thân và ý cũng không bằng, chỉ có nhĩ căn là
hơn hết. Mặc dầu bị cách vách, hay tiếng ở xa gần, tai đều nghe
được cả, nên nhĩ căn mới thật là viên thông.
- Âm thanh khi
có, khi không, còn cái nghe lúc nào cũng có. Khi không có
tiếng, thế gian nói rằng: “không nghe”; thật ra chẳng phải “cái
nghe” không có. Không tiếng, cái nghe không diệt; có tiếng, cái
nghe cũng không sanh. Bởi cái nghe không có sanh và diệt, nên
nó mới thật là thường.
- Dầu cho ở
trong chiêm bao, tâm không có suy nghĩ phân biệt, mà “cái nghe”
ấy cũng không mất (vì khi chiêm bao vẫn còn nghe tiếng chày giã
gạo). Cái nghe, nó thoát ngoài tâm niệm suy nghĩ phân biệt, nên
thân và tâm (thức thứ sáu) đều không bằng (không bằng tiếng
nghe).
-
V.
Ngài Văn Thù quở trách ông A
Nan học nhiều mà không tu
- - Nay chúng
sanh ở thế giới Ta bà này, nhờ có nghe nói chỉ dạy, nên mới hiểu
biết tu hành. Song chúng sanh vì mê cái “tánh nghe thường còn”
của mình, cứ chạy theo tiếng nói phân biệt, cho nên mới bị lưu
chuyển.
- A Nan, ông tuy học
rộng nhớ nhiều, nhưng vì chạy theo vọng trần phân biệt, nên
không khỏi đọa lạc theo tà. Nếu ông xoay cái nghe trở vào tự
tánh, thì sẽ đặng hết vọng.
- A Nan, ông nên chú ý
nghe: Tôi vâng oai thần của Phật, nói pháp môn tu hành này. Ông
đem cái nghe của ông, nghe tất cả pháp môn thâm mật của chư
Phật, nhiều như vi trần, nếu các phiền não dục lậu không trừ,
thì cái nghe càng thêm lầm lỗi. Ông biết đem cái nghe của ông,
nghe các pháp môn của chư Phật, sao ông không đem cái nghe đó,
trở lại nghe “tánh nghe” (chơn tánh) của mình.
- A Nan, cái “nghe” nó
không phải tự nhiên sanh, do có tiếng (thinh trần) nên mới gọi
rằng “nghe”. Nếu xoay cái nghe trở vào tự tánh, không chạy theo
tiếng, thế là thoát ly được cái tiếng (thinh trần) lúc bấy giờ
cái nghe này cũng không còn gọi tên là nghe nữa (vì không còn
đối đãi, nên chẳng tên kêu gọi). Một căn (lỗ tai) đã được phản
vọng trở về chơn rồi, thì cả sáu căn cũng đều được giải thoát.
- A Nan, các trí giác:
thấy, nghe, hay, biết của ông đó, đều là hư huyễn, như con mắt
bị nhặm. Còn ba cõi sum la vạn tượng đây, cũng không thật, đều
như hoa đốm giữa hư không. Khi cái thấy, nghe, hay, biết xoay
trở lại chơn rồi, thì cũng như con mắt kia hết nhặm. Khi cái
vọng trần tiêu hết, thì tâm ông được thanh tịnh.
-
LƯỢC GIẢI
- Vì vọng động cho nên
mới có thấy, nghe, hay, biết là năng phân biệt. Bởi có năng
phân biệt, nên mới có cảnh bị phân biệt là ba cõi muôn vật. Ðến
khi năng phân biệt hết, thì cảnh bị phân biệt cũng tiêu, lúc bấy
giờ chơn tánh hiện bày. Cũng như vì mắt nhặm nên mới thấy hoa
đốm, đến khi nhặm hết thì hoa đốm không còn, và chỉ còn con mắt
trong sáng.
- *
- Khi tâm hoàn toàn
thanh tịnh rồi, thí cái trí quang sáng suốt hiện ra. Lúc bấy
giờ chơn tâm ông vừa tịch tịnh lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp
cả mười phương hư không thế giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem
cảnh vật hiện tiền ở thế gian này, cũng như là việc trong chiêm
bao. Khi ông được như thế rồi thì nàng Ma đăng già ở trong mộng
kia làm gì bắt ông được!
- Sáu căn của ông cũng
thế, gốc từ nơi tâm, vì vô minh vọng động thành ra sáu căn, nếu
một căn được phản vọng về chơn rồi, thì sáu dụng kia (sáu giác
quan) đều không thành. Nếu trần cấu còn thì ông vẫn còn ở địa
vị hữu học (còn phải tu). Khi trần cấu hết, thì tâm tánh ông
được hoàn toàn sáng suốt, đó là Phật.
- A Nan, ông chỉ xoay
cái nghe của mình trở về chơn tánh, không chạy theo phân biệt
vọng trần bên ngoài, thì ông liền thành đạo vô thượng, đây thật
là pháp tu viên thông.
- Các đức Phật nhiều
như số vi trần cũng đều do một con đường này mà đến cửa Niết
bàn. Hiện tại các vị Bồ tát và những người tu hành đời sau,
đều y pháp môn này mà thành đạo. Chính tôi cũng nhờ pháp môn
này mà được chứng quả, đâu phải một mình Ngài Quán Thế Âm tu mà
thôi.
- Nay Phật dạy cho con
lựa pháp môn tu hành, để cho người đời sau tu hành mau thành đạo
quả, thì duy có pháp tu của Ngài Quán Thế Âm là hơn hết. Còn
bao nhiêu các pháp tu hành khác, đều nhờ oai thần của Phật gia
hộ mới được thành tựu. Các pháp ấy đều từ nơi sự tướng mà dẹp
trừ trần lao, nên không phải là một phương pháp trường kỳ tu
tập.
- Kính lạy đức Như
Lai, xin Ngài gia hộ cho chúng sanh đời sau, đối với pháp môn
này không còn mê lầm. Bạch Thế Tôn, phương pháp này rất là dễ
tu, mau được thành đạo quả, có thể đem dạy A Nan và chúng sanh
đời sau, y theo đây tu hành thì hơn các phương pháp khác. Ðây
là do lòng thành của con lựa chọn như thế.
-
VI.
Các vị nghe pháp được chứng ngộ
- A Nan và đại
chúng nghe ngài Văn Thù nói bài kệ rồi thì tâm tánh đều được
khai ngộ, đối với quả Phật Bồ đề và đại Niết bàn hiểu rất rành
rõ, cũng như người đi xa quê hương, đã biết rõ con đường về nhà,
nhưng chưa có dịp trở về. Trong đại hội có vô số Thiên, Long,
Bát bộ, các hàng nhị thừa hữu học và các vị Bồ tát mới phát tâm,
đều được xa lìa trần cấu, ngộ được chơn tâm. Bà Tánh Tỳ kheo ni
nghe bài kệ này rồi, đặng thánh A La Hán và vô lượng chúng sanh
đều phát Bồ đề tâm.
-
- _______________________
- LƯU Ý: Từ trước đến
đây là nói về phần y ngộ đốn tu
- Từ đây về sau là nói phần tiệm
tu
-
-
VII. A Nan cầu
Phật chỉ dạy phương pháp để độ chúng sanh đời sau
- A Nan cúi đầu
lạy Phật kính cẩn thưa rằng: -Bạch Thế Tôn, con nay đã hiểu
pháp môn tu hành để thành Phật rồi; trên đường tu hành con không
lầm lạc nữa. Nhưng con thường nghe Phật
- dạy:
- “Người chưa
được ngộ mà muốn độ người, đó là tâm Bồ tát. Còn người đã được
giác ngộ hoàn toàn, rồi giác ngộ cho người, đó là việc làm của
Như Lai”. Nay con chưa được độ tất cả chúng sanh đời sau.
- Bạch Thế Tôn, tất
cả chúng sanh đời sau cách Phật càng xa, lại gặp chúng tà sư
ngoại đạo nói pháp nhiều như cát bụi. Vậy nếu có chúng sanh
phát tâm tu hành, thì làm sao để tránh xa các ma chướng, đối với
con đường với con đường Bồ đề, tâm không thối lui?
-
VIII.
Phật dạy phải tu giới, định,
huệ
- Phật khen A
Nan và dạy rằng: -Ông hỏi phương pháp tu hành để độ chúng sanh
trầm luân đời sau, vậy ông nên chú ý nghe, ta sẽ vì ông chỉ dạy.
- - Này A Nan,
ông đã thường nghe ta dạy, người tu hành quyết định phải đủ ba
điều cần yếu:
- Dùng giới
luật nhiếp phục tự tâm
- Nhơn giữ
giới, tâm mới sanh định
- Nhơn định,
tâm phát huệ
- Ðây gọi là ba
món tu vô lậu.
- (Vì tu ba
phép này, thì không còn sa đọa)
-
LƯỢC GIẢI
- Ngài An Pháp
sư nói: “Giới, định, huệ là cái cửa của người và đạo, cũng là
cái ải trọng yếu để vào thành Niết bàn”.
- Ngài La Thập
Pháp sư nói: “Trì giới mới hay chiết phục được phiền não làm
cho phiền não yếu thế. Thiền định như bốn cái núi để ngăn giòng
nước phiền não. Trí huệ diệt được hết phiền não”.
- Trong kinh
Niết bàn nói: “Có phiền não thì không trí huệ, có trí huệ thì
không phiền não”.
- *
-
IX. Ðây nói về
đại thừa tâm giới có bốn: dâm, sắc, đạo, vọng
- A. Trước đoạn
lòng dâm: -A Nan, tại sao dùng giới luật để nhiếp phục tự
tâm?
- - Này A Nan,
nếu các chúng sanh trong tâm không còn nghĩ đến việcx dâm dục
nữa, thì sẽ ra khỏi sanh tử luân hồi.
- Ông tu hành quyết cầu ra khỏi
trần lao, nếu tâm dâm dục không trừ, thì cảnh trần lao không bao
giờ ra khỏi. Dầu cho ông hiện tiền đặng nhiều trí huệ và thiền
định, cũng sẽ đọa vào ma đạo. Thượng phẩm làm ma chúa, trung
phẩm làm ma dân, hạ phẩm làm ma nữ. Các loài ma kia cũng đều có
đồ đệ và tự xưng đã thành đạo vô thượng Bồ đề.
- Sau khi ta nhập diệt rồi, vào
đời mạt pháp, chúng ma này rất thạnh hành trong thế gian, ưa làm
việc tham dục, xưng là thiện tri thức của chúng sanh, khiến cho
chúng sanh đọa vào hầm tà kiến, mất con đường Bồ đề.
- A Nan, ông tu
thiền định, nếu không đoạn lòng dâm, thì cũng như người nấu cát
muốn cho thành cơm, dầu trải bao nhiêu kiếp cũng không thể thành
cơm được.
- Ông đem tâm dâm dục để cầu quả
Phật, dầu cho ông có được diệu ngộ đi nữa, cũng không ra khỏi
tam giới, vì gốc của nó là dâm thì làm sao ra khỏi sanh tử luân
hồi được; huốn chi quả Niết bàn của Phật, ông làm sao chứng
được.
- Nên quyết định phải đoạn trừ dâm
cơ: trong tâm ngoài thân đều đoạn, cho đến cái biết đoạn cũng
không còn, được như thế thì đối với quả Phật Bồ đề, ông mới có
hy vọng!
- Vậy ông nên
dạy người tu hành, điều thứ nhứt là quyết định phải đoạn trừ
lòng dâm, đây là lời chỉ dạy sáng suốt trong sạch của ta và của
các đức Phật quá khứ. Như lời ta dạy đây mới gọi là Phật nói,
trái lại là Thiên Ma Ba tuần nói.
-
LƯỢC GIẢI
- Ðây là Ðại
thừa giới, cao siêu và khó hơn Tiểu thừa giới nhiều. Nếu tâm
còn nghĩ tưởng đến dâm, sắc, đạo và vọng, thế là phạm giới rồi.
- Tổ Ðơn Hà
dạy: “Nếu người chưa tỏ ngộ được chơn tâm thanh tịnh của mình,
thì hột giống dâm còn ẩn núp”. Nói cho dễ hiểu, nếu còn vô
minh, thì chơn tâm sáng suốt chẳng hiện, thế là giới thể chưa
thanh tịnh.
- Phật tử đọc
đến đoạn này, chớ nên t hấy khó mà nản lòng. Phải biết rằng
việc tu hành cũng như lóng nước để lâu quyết định sẽ trong, và
cũng như lột bẹ chuối, lột mãi sẽ đến lỏi.
- Người tu hành
cũng thế, trước đoạn phần thô thiển ngoài thân, sau dần dần trừ
đến phần tế nhị trong tâm, lâu ngày thành tánh quen, thì quyết
định có ngày sẽ được thanh tịnh. Ðiều cốt yếu là nên nhớ lời
Phật dạy có bốn chữ “bất tùy phân biệt”. Nghĩa là khi đối cảnh
không khởi vọng niệm phân biệt, thì tham, sân, si không khởi.
Tham, sân, si không khởi thì sát, đạo, dâm chẳng sanh. Ðây là
lối tu tắt của Ðại thừa, để trở lại với chơn tâm thanh tịnh.
- *
- B.
Ðoạn lòng sát hại: A Nan, nếu các chúng sanh
trong tâm không nghĩ tưởng đến việc sát hại, thì không còn bị
sanh tử luân hồi nữa. Ông tu hành quyết cầu ra khỏi trần lao,
nếu ông không đoạn trừ tâm sát hại, thì cảnh trần lao không bao
giờ ra khỏi. Dầu cho hiện tiền ông được nhiều trí huệ hay thiền
định, nếu không đoạn tâm sát hại, thì ông chỉ đọa vào thần đạo.
Bực thượng làm Ðại lực quỷ, bực trung làm Phi hành dạ xoa và các
loài quỷ soái, bực hạ làm Ðịa hành La sát và các quỷ thần. Các
loài quỷ thần này cũng có đồ đệ, đều tự cho mình thành đạo vô
thượng.
- Sau khi ta
diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, các loài quỷ thần này rất thạnh
hành trong thế gian, và tuyên bố rằng “Ăn thịt cũng được Bồ
đề”. A Nan, trước kia ta cho các ông ăn ngũ tịnh nhục, là vì ở
nhằm địa phương đất chai, nhiều đá sỏi, không trồng rau cải
đưọc, nên ta tạm cho các ông dùng. Sau khi ta diệt độ rồi, tại
sao những người ăn thịt chúng sanh, mà cũng xưng là tăng lữ.
-
LƯỢC GIẢI
- Trong kinh
Lăng Già, Phật dạy Ngài Ðại Huệ Bồ tát: “Ta trước kia phương
tiện cho các ông ăn năm thứ thịt hoặc mười thứ, hôm nay tất cả
đều cấm tuyệt”.
- *
- A Nan, những
người ăn thịt, dầu cho có đặng tâm trí khai ngộ, cũng thành quỷ
Ðại la sát, đến khi mãn kiếp quỷ La sát rồi, quyết định phải
trầm luân trong biển khổ sanh tử. Giết hại ăn thịt lẫn nhau,
thì làm sao ra khỏi sanh tử luân hồi được.
- A Nan, ông tu
thiền định, nếu không trừ tâm sát hại mà muốn cầu được đạo, thì
cũng như người tự bịt hai lỗ tai của mình, la tiếng thiệt lớn,
mà muốn cho mọi người không nghe, thì không thể được.
- Ðây là lời
sáng suốt trong sạch của ta cũng là lời các đức Phật quá khứ đã
chỉ dạy. Như lời ta dạy đây mới gọi là Phật nói, trái lại là
Thiên Ma Ba Tuần nói.
- C.
Ðoạn trừ trộm cướp: A Nan, nếu các chúng sanh,
trong tâm không nghĩ tưởng đến đến việc (tham lam) trộm cướp,
thì không còn sanh tử luân hồi nữa. Các ông tu hành quyết cầu
ra khỏi cảnh trần lao, nếu tâm (tham lam) trộm cướp không trừ,
thì không bao giờ ra khỏi.
- Dầu cho hiện
tiền ông đặng nhiều trí huệ hay thiền định, nếu không đoạn tâm
(tham lam) trộm cướp thì quyết định đọa vào tà đạo, bực thượng
làm loài tinh linh, bực trung làm loài yêu mỵ, bực hạ làm người
tà, bị các loài tinh yêu này nhập (dựa). Bọn ngày cũng có đồ
đệ, đều tự xưng rằng đặng đạo vô thượng.
- Sau khi ta
diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, chúng tinh yêu tà mị này rất
thạnh hành trong đời, tự xưng là thiện trí thức, dối gạt phỉnh
phờ người, khiến cho người mất tâm chánh tính; chúng nó đi đến
đâu thì làm cho người tiêu hao tài sản đến đó.
- A nan, ông tu
thiền định, nếu không đoạn trừ tâm trộm cướp, mà muốn cầu cho
được đạo quả, thì cũng như người rót vào chén bể, mà muốn cho
đầy, dầu trải bao nhiêu kiếp cũng không thể đầy được. Ông nên
dạy người tu hành, điều t hứ ba là quyết định phải đoạn trừ tâm
trộm cướp. Ðây là lời nói sáng suốt trong sạch của ta cũng như
của các đức Phật quá khứ. Ðúng như lời ta dạy gọi là Phật nói,
trái lại là Thiên Ma Ba Tuần nói.
- *
- D.
Ðoạn trừ vọng ngữ: A Nan, nếu các chúng sanh, đã giữ
hoàn toàn ba hạnh trên là không sát, đạo, dâm rồi mà còn đại
vọng ngữ, thì tâm cũng không thanh tịnh, mất hột giống Phật,
thành ma ái kiến. Thế nào là đại vọng ngữ? Nghĩa là chưa đặng
đạo nói mình đặng đạo, chưa chứng quả nói mình chứng quả. Ðối
với người đời, nói: “Ta đã chứng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát
và Phật”, để trông cầu người lạy cúng. Những người nói dối như
thế, làm tiêu diêu hột giống Phật, sẽ đọa vào trong biể khổ.
Cũng như cây Ða la khi bị chặt đứt đọt rồi (như cây cau xứ ta)
thì không thể mọc chồi đâm tược được.
- A Nan, ta có
dạy các vị Bồ tát và A La Hán: “Sau khi ta diệt độ rồi, các ông
phải thị hiện thân hình, trong đời mạt pháp để cứu độ các chúng
sanh đang trầm luân, làm thầy sa môn, cư sĩ, vua, quan, đồng
nam, đồng nữ, cho đến hiện đàn bà góa, kẻ dâm nữ, người gian
giảo, kẻ trộm cướp, người hàng thịt, kẻ buôn bán, để lẫn lộn
trong từng lớp người, chung một nghề nghiệp, đặng giáo hóa chúng
sanh trở về chánh đạo”.
- Nhưng các vị
ấy quyết chẳng bao giờ nói: “Ta đây thật là Bồ tát hoặc A La Hán
v.v.” hay tỏ ra một vài cử chỉ gì làm tiết lộ sự bí mật, để cho
người ta biết mình là Thánh nhơn thị hiện. Chỉ trừ sau khi mạng
chung rồi, các vị ấy mới âm thầm để lại một vài di tích cho
người biết thôi.
-
LƯỢC GIÁI
- Các Phật tử
đọc đến đoạn này nên chú ý: Phật và Bồ tát thị hiện, chúng ta
không thể biết được; nếu chúng ta biết được thì đó không phải
thiệt Phật hay Bồ tát. Chỉ trừ khi nào các vị ấy cởi bỏ xác
phàm, mới lưu lại một vài di tích, lúc bấy giờ chúng ta mới biết
được. Nhưng khi biết, thì không gặp các Ngài nữa.
- Như Tổ Ðạt Ma
hiện thân đến Trung Quốc, vua Lương Võ Ðế không biết; đến khi
biết được Ngài là Thánh thì không còn thấy được Ngài.
- Vậy hiện nay
những người tự xưng mình là Phật hay Bồ tát v.v... giáng thế,
thì căn cứ vào đoạn kinh này, chúng ta thấy rõ ràng và chắc chắn
không phải thiệt Phật hay Bồ tát rồi, chớ nên tin mà bị hại.
- *
- A Nan, chính
thật Bồ tát hay A La Hán thị hiện, mà còn không cho người biết,
tại sao những người phàm phu lại dám mạo xưng là Phật, Bồ tát,
v.v... Cũng như người cùng đinh, mà mạo xưng mình là Ðế vương,
thì sẽ bị tội tru diệt.
- A Nan, nếu
người tu hành, không đoạn trừ đại vọng ngữ, mà muốn được đạo,
thì cũng như người lấy đồ hôi tanh, tô đắp thành cái hình chiên
đàn, muốn cho thơm chừng nào lại càng hôi chừng nấy. Cái nhơn
đã chẳng ngay, thì kết quả phải cong vậy. Những người như thế
mà cầu quả Phật Bồ đề, thì cũng như người muốn tự cắn rún của
mình, làm sao cắn được.
- A Nan, ông
nên dạy người tu hành điều thứ tư là quyết định phải đoạn trừ
đại vọng ngữ. Ðây là lời nói sáng suốt trong sạch của ta, và
các đức Phật quá khứ chỉ dạy. Ðúng như lời ta dạy đây thì gọi
là Phật nói, trái lại là Thiên Ma Ba Tuần nói.
-
LƯỢC GIẢI
- Bốn đoạn trên Phật ân cần nhắc
nhở, nói đi lặp lại nhiều lần. Phật tử chúng ta nên ghi
xương tạc dạ những lời vàng ngọc chỉ dạy rất thống thiết của đức
Từ phụ
--o0o--
|
|