-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- --- o0o ---
-
- Bài
thứ tư
- IV.
CHƯƠNG KIM CANG TẠNG
-
-
1. Ngài Kim Cang Tạng Bồ
Tát hỏi Phật
-
2. Phật khen Ngài Kim
Cang Tạng Bồ tát
-
3. Phật dạy: “Người mê
nói ngộ, ngổ ấy thành mê”
-
4. Phật dùng thí dụ để
giải thích nghĩa trên
-
5. Các Pháp hư huyễn
không có thật sanh và diệt
-
6. Thành Phật rồi không
trở lại làm chúng sanh
-
7. Tánh Viên Giác phi
tất cả tưởng
-
8. Tánh Viên Giác không
thể nghĩ bàn
-
9. Không thể dùng tâm
chúng sanh phân biệt được cảnh Phật
-
10. Phật nói bài kệ tóm lại
các ý nghĩa trên
-
-
IV. CHƯƠNG KIM
CANG TẠNG
-
1.
Ngài Kim
Cang Tạng Bồ Tát hỏi Phật
- Khi ấy
Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát ở trong Ðại chúng đứng dậy, đi quanh
bên hữu của Phật ba vòng, và kính cẩn chắp tay, đảnh lễ dưới
chân Phật, rồi quỳ thẳng bạch rằng:
- Bạch đức Ðại bi Thế Tôn, Ngài
đã vì các vị Bồ tát nói rõ tánh “Viên Giác thanh tịnh” của Như
Lai, và chỉ dạy những phương tiện, tuần tự tu hành để nhập
tánh Viên Giác. Ngài đã vén mở mây vô minh mờ ám cho các
chúng sanh. Thỉnh chúng trong pháp hội này, nhờ lòng từ bi của
Phật khai hóa, mà mắt Trí huệ được sáng tỏ.
- Bạch đức
Thế Tôn:
- 1. Nếu các
chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay, thì tại làm sao lại
có tất cả vô minh để trở lại làm chúng sanh nữa?
- 2. Nếu
chúng sanh sẵn có các vô minh, thì do nhơn duyên gì mà đức Như
Lai lại nói: “chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay”?
- 3. Nếu 10
phương chúng sanh đã thành Phật từ xưa, về sau lại sanh ra vô
minh; vậy thì các đức Như Lai hiện nay đã thành Phật rồi,
chừng nào các NGài sanh trở lại phiền não nữa?
- Cúi xin đức Ðại bi Thế Tôn, vì
các vị Bồ tát hiện tại và tất cả chúng sanh đời sau, nhổ sạch
gốc rễ nghi lầm, khiến cho chúng sanhd dược ngộ nhập đạo vô
thượng.
-
LƯỢC GIẢI
- Ðại ý đoạn
này, Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát nghi: Có vô minh thì gọi là
chúng sanh, không vô minh mới kêu là Phật; thế mà Ðức Như Lai
lại nói: “chúng sanhd dã thành Phật từ xưa đến nay”.
- Nếu chúng
sanhd dã thành Phật từ xưa đến nay, thì phải không còn vô
minh. Nếu không còn vô minh, thì không còn gọi là chúng sanh
nữa. Tại làm sao Phật còn gọi: “Chúng sanh”?
- Lại nữa, nếu chúng sanh sẵn có
vô minh thì không thể nói “Nguyên lai thành Phật”. Tại sao
Phật lại nói: “chúng sanh nguyên lai đã thành Phật”.
- Chúngs anh
tu hành phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật. Nếu khi
được thành Phật rồi, vô minh trở lại khởi lên làm chúng sanh
nữa, thì tu biết chừng nào cho rồi! Lại nữa, chư Phật hiện
nay đã thành Phật, vậy chừng nào các Ngài nổi vô minh trở lại
làm chúng sanh nữa?
- Ðoạn này giống như trong kinh
Lăng Nghiêm, khi Ngài Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử hỏi Phật:
“chơn tâm vốn đã thanh tịnh tại sao thoạt sanh ra sơn hà đại
địa và các chúng sanh?”
-
2. Phật
khen Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát
- Khi đó đức
Thế Tôn khen Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát và dạy rằng:
- -Này Thiện
nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời
sau thưa hỏi Như Lai những đạo lý diệu huyền.
- Nay ta vì
các ông nói giáo pháp Ðại thừa, nghĩa lý rốt ráo và cao
thượng, khiến cho các vị Bồ tát tu học trong mười phương, và
tất cả chúng sanh đời sau, đều đoạn trừ hết các điều nghi ngờ,
đặng tín tâm chắc chắn. Vậy các ông nên chăm chú nghe lời ta
chỉ dạy.
- Khi đó Ngài Kim Cang Tạng Bồ
tát và Ðại chúng đều vui mừng, kính cẩn vâng nghe lời Phật chỉ
giáo.
-
LƯỢC GIẢI
- Kim Cang là
chất ngọc quý, cứng rắng nhứt trong loại ngọc. Nó đã cứng mà
lại bén (sắc), hay phá hoại các vật, mà các vật không phá hoại
được nó.
- Ðoạn này Ngài Kim Cang Tạng Bồ
Tát đứng lên thưa hỏi những chỗ khó khăn, là tiêu biểu phải
dùng Kim cang trí mới phá trừ nổi những mê lầm(vô minh) sâu
sắc.
- Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát cũng
là một vị Thượng thủ trong hàng Bồ tát.
-
3. Phật
dạy: Người mê nói ngộ, Ngộ ấy thành mê
- -Này Thiện
nam! TẤt cả các pháp, có thủy chung, sanh diệt, tiền hậu, hữu
vô, nào tụ tán, khởi dừng, xoay vần, qua lại, các món thủ xả,
mỗi niệm nối luôn. Những loại kể trên đều là luân hồi cả.
Người chưa ra khỏi luân hồi mà nghĩ bàn đến Viên Giác, thì
tánh “viên giác” đó cũng trở thành luân hồi (vị xuất luân hồi
nhi biện Viên giác, bĩ Viên Giác tánht ức đồng lưu chuyển) Nếu
người ra khỏi luân hồi (hết mê vọng rồi) thì không còn thấy có
các việc hư vọng ấy nữa.
-
LƯỢC GIẢI
- Ðại ý đoạn
này Phật nói: Người còn ở trong vòng “mê” mà nói việc “ngộ”
thì cái “nộ’ a cũng thành “mê”. Dùng tâm chúng sanh nghĩ bàn
đến cảnh giới Phật, thì cảnh giới Phật cũng thành chúng sanh.
Dùng tâm luân hồi mà nghĩ bàn đến tánh Viên Giác, thì tánh
“viên giác” cũng trở thành luân hồi.
- Phật bảo
Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát: Nếu ông đứng trong vòng hư vọng,
tương đối, có thánh có phàm, có chúng sanh, có Phật v.v.. mà
luận đến cảnh giới tuyệt đối, bất tư nghị của chư Phật thì
không thể được. Bởi thế nên người muốn hiểu chỗ cao siêu của
đạo Phật thì cần phải tu, chớ không thể nói suông mà hiểu
được.
-
4. Phật
dùng thí dụ để giải thích nghĩa trên
- -Này Thiện
nam! Thí như: vì con mắt nháy mà thấy nước dợn sóng; vì mắt
xem không kịp mà thấy thành vòng lửa; nhơn mây bay mà thấy mặt
trăng chạy; vì thuyền đi mà thấy bờ trôi. Trong lúc các vật
đây động, như mắt nháy, mây bay, thuyền chạy v.v.. mà các vật
yên tịnh kia như nước đứng, lửa đốm, trăng dừng, còn thấy c
huyển động thay, huống chi ông dùng tâm cấu nhiễm sanh tử luân
hồi mà quan sát tánh Viên giác thanh tịnh của Như Lai, thì
tánh Viên giác này làm sao chẳng cấu nhiễm. Thế nên ông mới
sanh ra ba điều nghi vấn trên.
-
LƯỢC GIẢI
- Trong đoạn
này, Phật dùng những việc tầm thường trong đời làm thí dụ, như
mắt nháy, may bay, thuyền đi v.v.. mà thấy nước dợn, trăng
bay, bờ chạy v..v... để chỉ rõ: vì dùng tâm cấu nhiễm mê vọng
của chúng sanh mà quan sát nghĩ ngợi đến cảnh giới của Phật,
nên cảnh Phật trở thành tương đối mê vọng.
- Vì ngài Kim
Cang Tạng Bồ tát dùng tâm phân biệt đối đãi có không, sanh
diệt, thánh phàm v.v... nên thấy có chúng sanh chưa thành Phật
và có Phật đã thành. Bởi thế nên NGài sanh ra ba điều nghi
ngờ trên. Nếu Ngài nhập được tánh Viên giác thanh tịnh rồi
thì những tướng tốt đối đãi như thánh phàm nhiễm tịnh, sanh tử
và Niết bàn, chúng sanh và Phật đều không còn. Lúc bấy giờ
NGài không còn nghi ngờ như trên nữa. Vì vậy nên đoạn sau
Phật quở: “.. những lời ông thưa hỏi đó, chẳng có đúng đắn...”
-
- ****
-
5. Phật dạy: các Pháp hư huyễn, không có thật sanh và thật
diệt
- -Này Thiện
nam! Thí như người bịnh lòa mắt, trông noi hư không vọng thấy
có các hoa đốm lăng xăng. Ðến khi bịnh lòa nhặm hết rồi, thì
hoa đốm kia tự diệt. Lúc bấy giờ, người ấy không nên hỏi:
“Cái bịnh lòa nhặm này đã diệt rồi, vậy chừng nào sanh trở lại
nữa?” - Tại sao thế? – Vì cái lòa nhặm nó vọng huyễn không có
thật thể vậy.
- Và, cũng
không nên hỏi: “Những chỗ hoa đốm diệt ở nơi hư không kia, vậy
chừng nào hoa đốm ấy sanh trở lại nữa?” - Tại sao thế? – Vì
trong hư không vốn không có hoa đốm, cho nên nó không có sanh
ra hoa đốm hay diệt hoa đốm vậy.
- Sanh tử và niết bàn đối với
tánh Viên giác, cũng dồng như hoa đốm sanh diệt trong hư
không. Tánh Viên Giác vẫn nhiệm mầu viên mãn, yên lặng chiếu
soi, lìa cái nhặm vô minh và cảnh giới hoa đốm.
- Này Thiện
nam! Nên biết hư không kia còn không phải tạm có và tạm
không, huống chi tánh Viên Giác của Như Lai là bản tánh của hư
không, nó bình đẳng tùy thuận các duyên, mà lại tạm có và tạm
không hay sao.
-
LƯỢC GIẢI
- Ðại ý đoạn
này nói: Vô minh và các vọng cảnh, đều hư huyễn không thật,
cũng như hoa đốm và mắt nhặm. Vì hoa đốm với nhặm, đều không
phải thật vật, cho nên nó không thật có sanh và diêt. Bởi
thế, khi hết nhặm rồi, không nên hỏi: “chừng nào nhặm trở lại
nữa?” Hay hoa đốm đã diệt rồi, cũng không nên hỏi: “Chừng nào
nó sanh trở lại nữa?”
- Hoa đốm và
bịnh nhặm, mặc tình nó vọng sanh vọng diệt, mà hư hông lúc nào
cũng vẫn thanh tịnh và yên lặng. Cũng như Vô minh và vọng
cảnh, mặc tình vọng khởi và vọng diệt, mà tánh Viên giác vẫn
thanh tịnh viên mãn và xa lìa các vô minh cùng Vọng cảnh.
- Tánh hư
không bình đẳng tùy thuận các đồ vật, mà hiện ra có tướng
Vuông và Tròn. Cũng như tánh Viên Giác bình đẳng, tùy thuận
các duyên mà hiện ra tất cả Pháp.
- Hư không,
không phải nhơn lúc hoa đốm diệt mà nó tạm có, cũng không phải
nhơn lúc hoa đốm sanh am2 nó tạm không; bởi tánh hư không
thường có và bình đẳng, tùy hoa đốm mặc tình sanh diệt, nhưng
hư không vẫn không thay đổi.
- Cũng thế,
tánh Viên giác thanh tịnh của Như Lai, thường còn bình đẳng
và tùy thuận các Pháp. Không phải nhơn lúc Vô minh diệt mà nó
tạm có, hay Vô minh sanh mà nó tạm không, nó tùy thuận tất cả,
không có chướng ngại.
-
- ******
-
-
6. Phật dùng thí dụ, để chỉ rõ khi thành Phật rồi, không trở lại
làm chúng sanh
- -Này Thiện
nam! Thí như chất kim khoáng, sau khi được nấu lọc, bỏ hết
quặng rồi, thì chỉ còn vàng y. Chất vàng này không phải do
nấu lọc mới sanh, vì nó có sẵn từ trước kia rồi, và khi đã
thành vàng y, cũng không bao giờ trở lại thành quặng nữa, dầu
trải qua bao nhiêu năm, nó cũng không hư hoại.
- Tánh Viên
Giác thanh tịnh của Như Lai cũng thế.
-
LƯỢC GIẢI
- Phật dùng
vàng để thí dụ tánh Viên Giác, dùng khaỏng dụ chúng sanh. Khi
vàng còn ở trong khoáng, cũng như Phật tánh (Viên giác) ở
trong cái vỏ chúng sanh. Vì y nơi Phật tánh sẵn có, nên Phật
nói: “chúng sanh đã thành Phật”.
- Khi chất
kim khoáng được đem ra nấu luyện, lọc bỏ hết quặng chỉ còn
vàng y, thì vàng này không còn trở lại làm khoáng nữa.
- Cũng như
chúng sanh, sau khi trải qua thời gian tu luyện, gạn lọc hết
vô minh, phiềnnão, tánh Viên giác hiện ra, được thành Phật
rồi; lúc bấy giờ không còn khởi vô minh phiền não trở lại làm
chúng sanh nữa.
- Dầu chưa
được nấu luyện, lọc bỏ quặng ra, lúc ấy chất vàng vẫn sẵn có.
Ðến kh nấu luyện, lọc bỏ hết quặng thành vàng y rồi, không
phải lúc bấy giờ vàng mới có. Tánh Viên giác cũng thế, khi
làm chúng sanh, nó vẫn sẵn có, nên nói: “chúng sanh đã thành
Phật”. Trải qua thời gian tu luyện trừ hết Vô minh phiền não,
tánh Viên Giác hiện ra, không phải lúc bấy giờ nó mới sanh.
- KHi tánh Viên Giác đã hoàn
toàn hiện rồi, thì vô minh phiền não không còn sanh trở lại
nữa, nên nói: “Thành Phật rồi, không còn trở lại làm chúng
sanh”.
-
- ****
-
-
7. Tánh Viên Giác phi tất cả tướng
- -Này THiện
nam! Tánh Viên giác mầu nhiệm của Như Lai vốn không có Bồ đề,
và Niết bàn, không có thành Phật và chẳng thành Phật, cũng
không có luân hồi và phi luân hồi.
-
LƯỢC GIẢI
- Ðứng về
phương diện tương đối mà nói: Vì có phiền não nên có Bồ đề, có
sanh tử nên có Niết bàn, có luân hồi nên mới có giải thoát, có
chúng sanh mới có Phật.
- Song đứng
về phương diện lý tánh tuyệt đối, tức là tâm Viên Giác mầu
nhiệm của như Lai mà nói, thì phiền não đã không, nên Bồ đề
chẳng có, sanh tử đã không, nên Niết bàn chẳng có, cho đến
chúng sanh đã không, nên Phật cũng chẳng có.
- Ðến cảnh
giới này, thì nói năng không trúng, suy nghĩ cũng chẳng nhằm.
Hành giả phải tự chứng nhập.
-
- ******
-
8. Tánh Viên Giác không thể nghĩ bàn
- -Này Thiên
nam! Rất dỗi như cảnh giới Niết bàn thân tâm đoạn diệt của
Thinh Văn (1) Tiểu thừa kia, còn không thể dùng tâm
phân biệt mà thân chứng được, huống chi cảnh giới Viên giác
thanh tịnh của Như Lai mà lại dùng tâm suy nghĩ so đo của
chúng sanh, làm sao nhập được.
- Cũng như
người dùng lửa đom đốm, để đốt núi Tu di, làm sao đốt được.
Người dùng tâm luân hồi, sanh vọng chấp luân hồi, mà muốn vào
biển Niết bàn tịch tịnh của Như Lai thì không thể được.
- Thế nên ta
dạy: Tất cả các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, trước phải
đoạn hết căn bản sanh tử luân hồi từ vô thỉ.
-
LƯỢC GIẢI
- Cảnh giới
Niết bàn của Thinh Văn là cảnh giới Tiểu thừa (trầm không thú
tịch khôi thân diệt trí) mà còn không thể nghĩ ngợi được,
huống chi cảnh giới của Phật cao siêu tột bực, mà lại dùng cái
vọng tâm sanh tử luân hồi của phàm phu và trí của Tiểu thừa để
suy nghĩ phân biệt cảnh giới Viên giác của Như Lai, thì quyết
không thể hiểu được (dĩ luân hồi tâm, sanh luân hồi kiến, nhập
ư Như Lai đại tịch diệt hải, chung bất năng chí) cũng như
người dùng lửa của con đom đốm để đốt núi Tu Di thì không thể
được.
- Bởi thế nên
Phật dạy: “trước phải đoạn hết căn bản sanh tử luân hồi từ vô
thỉ”, tức là diệt vọng tâm phân biệt. Cũng như trong kinh
Lăng Nghiêm, Phật dạy rành rõ hai món căn bản là:
- 1. Phải
đoạn căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm
- 2. Phải
y trụ nơi căn bản
- ***
-
(1) Thân tâm đoạn diệt của
Thinh Văn – Hàng Thinh Văn Tiểu thừa rất sợ việc hoá đạo độ
sanh, vì sợ gặp những nghịch cảnh rồi vô minh phiền não nổi
lên, mà phải bị thối chuyển. Bởi thế nên các NGài cứ lo tu
giải thoát một mình. Từ đời này cho đến kiếp nọ, ưa ở chỗ
thanh vắng tịch mịch, say đắm cảnh Niết bàn của Tiểu thừa, giữ
tâm yên tịnh luôn không dám khởi niệm, say mê với cảnh thiền,
thân không lay độngcũng như tro nguội, nên nói: “Thân tâm đoạn
diệt”. Chỗ khác gọi rằng: “Trầm không thú tịch khôi thân diệt
trí”, nghĩa là: say sưa với cảnh không, thích thú nơi tịch
mịch, thân yên lặng như tro nguội, tâm trí diêt, không móng
niệm.
-
Bởi thế nên Phật quở hàng Tiểu
thừa là loại giống khô, mộng héo (tiêu nha bại chủng), nghĩa
là thứ giống khô rụi, không thể nứt mộng sanh chồi nữa được.
-
Phật lại dạy rằng: Không ai đem
giống gieo trồng trên hư không được, mà phải gieo trồng trên
mặt đất. Giống Bồ đề cũng thế, không thể gieo trồng nơi chỗ
trống không được, mà phải gieo trồng nơi đất chúng sanh. Bởi
thế nên muốn thành quả Phật Bồ đề thì phải hóa độ chúng sanh.
-
9. Không thể dùng tâm chúng sanh, phân biệt được cảnh Phật
- -Này Thiện
nam! Nếu có suy nghĩ phân biệt là từ vọng tâm (thức) khởi, nên
tất cả suy nghĩ, đều là cái vọng tưởng phân biệt duyên theo
bóng dáng của sáu trần. Nó hư vọng như hoa đốm trong hư không,
chẳng phải là chơn tâm. Nếu ông dùng cái vọng tâm suy nghĩ
này, mà suy nghĩ cảnh giới của chư Phật, thì cảnh giới ấy cũng
lẩn quẩn trong vòng vọng tưởng của chúng sanh mà thôi. Cũng
như người ngồi trong đợi cho hoa đốm giữa hư không kết thành
ra quả, thì không có thể được.
- Này Thiện
nam! ông dùng tâm hư vọng thô phù, sanh ra các lối chấp xảo
quyệt, (chấp càng) cho nên ông không thể nhập được cảnh Viên
Giác chơn thật của Như Lai. Bởi thế, nên những lời ông hỏi
trên, đều là hư vọng phân biệt, không phải lời hỏi đúng đắn
chơn thật.
-
LƯỢC GIẢI
- Ðức Thế
Tôn, sau khi trải qua thời gian ba vô số kiếp tu hành, được
thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni rồi, Ngài dạy rằng: “Nói
thành Phật thật ra không thành cái chi khác, mà chỉ trở lại
với tánh Phật sẵn có đó thôi”. Trong kin nói: “Thành mà vẫn
không thành”, hay câu: “Ngộ liễu đồng vị ngộ, vô pháp diệc vô
tâm”. (Giác ngộ rồi cũng đồng như khi chưa giác ngộ, vì không
có pháp và cũng không có Tâm gì khác).
- Tánh Phật
này, không riêng gì một mình Ngài có, mà tất cả chúng sanh đều
có sẵn có. Vì căn cứ theo Phật tánh sẵn có này, nên Ngài nói:
“Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật” hay torng kinh Hoa Nghiêm
nói: “Tất cả chúng sanh đều sẵn có đầy đủ trí huệ đức tướng
của Như Lai”. )nhứt thế chúgn sanh cụ hữu Như Lai trí huệ đức
tướng). Bởi thế nên Ngài nói: “Chúng sanh đã thành Phật từ
lâu”.
- Vậy, người
muốn hiểu đến lý này, phải nhập cảnh giới Phật, trình độ phải
gần như Phật mới hiểu được. NẾu chỉ dùng tâm cấu nhiễm thô phù
phân biệt của chúng sanh, mà so tính đến cảnh giới Phật, thì
làm sao hiểu được. Cũng như người muốn hiểu câu nói của cụ
già tám muơi, ít nhất trình độ cũng gần như cụ già mới hiểu.
Nếu dùng trí non nớt của trẻ con năm, mười tuổi, mà suy nghĩ
câu nói của cụ già thì làm sao hiểu được. Bởi thế nên Phật
nói: “những lời ông hỏi trên đêù là hư vọng phân biệt, không
phải lời hỏi chơn thật.
-
- ***
-
-
10. Phật nói bài kệ để tóm lại các nghĩa trên
- Khi ấy đức
Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói kệ rằng:
- Kim Cang
Tạng! Nên biết:
- Như Lai
tành vắng lặng,
- Chưa
từng có chung thỉ,
- Nếu dùng
tâm luân hồi,
- Suy nghĩ
cảnh giới Phật,
- Cảnh
Phật thành luân hồi.
- Người ở
bờ luân hồi,
- Không
thể vào biển Phật.
- Phật
tánh tuy sẵn có,
- Phải tu
mới hiển nhiên.
- Cũng như
vàng sẵn có,
- Phải lọc
quặng mới thành.
- Khi đã
thành vàng y,
- Không
trở lại làm quặng.
- Sanh tử
và Niết bàn,
- Phàm phu
cùng chư Phật,
- Thảy đều
như hoa đốm.
- Tâm suy
nghĩ đã huyễn,
- Làm sao
nhập được chơn.
- Nếu rõ
được tâm nầy,
- Mới cầu
được Viên Giác.
-
LƯỢC GIẢI
- Bài kệ này
tóm lại các nghĩa trên. Ðại ý nói: Tánh Viên Giác của Phật
thanh tịnh vắng lặng, không có thánh phàm, chúng sanh và Phật
v.v... Nếu dùng tâm phân biệt của chúng sanh mà phân biệt cảnh
giới PHật, thì cảnh Phật cũng thành cảnh chúng sanh.
- Chúng sanh tuy sẵn có Phật
tánh, nhưng phải nhờ có tu mới hiển. Cũng như chất vàng tuy
sẵn có trogn khoáng, nhưng phải nhờ lọc hết quặng mới thành
vàng y. Khi đã thành vàng y rồi thì không còn trở lại làm
quặng nữa. Cũng như khi đã thành Phật rồi không còn trở lại
làm chúng sanh.
- Bởi đứng
trong vòng vọng nhiễm tương đối, nên thấy có sanh tử và Niết
bàn, chúng sanh và Phật; chớ đứng về tánh Viên giác thanh tịnh
của Như Lai, thì các pháp trên đây đều như hoa đốm giữa hư
không.
- Ngài Kim
Cang Tạng Bồ tát vì muốn đại diện cho phàm phu, nên đã dùng
tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà suy nghĩ so đo, thấy có chúng
sanh và Phật, và giả thốt ra các lời hỏi hư vọng ấy. Những
lời hỏi này, đối với cảnh Viên giác chơn thật của Như Lai, thì
chẳng nhằm chi cả. Bởi thế nên Phật quở rằng: “Những lời ông
hỏi đều không chơn chánh”.
- Vậy nên,
hành giả phải rời các vọng niệm phân biệt, mới hiểu được tánh
Viên Giác.
--o0o--
|
|