-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
-
Phật Học Phổ Thông
-
- --- o0o ---
- BÀI THỨ 10
& 11
-
- X.
CHƯƠNG PHỔ GIÁC
-
1. Ngài Phổ
Giác bồ tát hỏi Phật
- Khi ấy Ngài
Phổ Giác bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu
của Phật ba vòng, kính cẩn lạy Phật và quỳ thẳng chắp tay bạch
rằng:
- -BẠch đức
đại bi Thế Tôn, Ngài đã vì chúng sanh nói các bệnh (bốn tướng)
của người tu thiền, khiến cho Ðại chúng gội sạch các mê lầm
nơi tâm và được an ổn. Ðây là một việc lợi ích lớn chưa từng
có.
- -Bạch Thế
Tôn, chúng sanh đời sau các Phật lần xa, các vị Thánh hiền lại
ẩn, tà sư ngoại đạo rất thạnh hành; vậy trên đường tu hành:
- 1. Phải cầu
bực nào để dạy bảo?
- 2. Phải y
phương pháp nào tu hành?
- 3. Phải làm
theo hạnh nào?
- 4. Phải trừ
những bịnh gì?
- 5. Phải
phát tâm như thế nào?
- Xin Phật từ
bi chỉ dạy, khiến cho những chúng sanh còn mê muội, khỏi bị
đọa tà kiến.
- NGài Phổ
Giác bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, cúi đầu kính lạy, rồi
trở về chỗ cũ.
-
- LƯỢC GIẢI
- Chữ “Phổ
Giác” là giác ngộ cùng khắp. Trên đường tu hành, hành giả
phải gặp nhiều chướng ngại. Những chướng ngại ấy đều do chấp
bốn tướng mà sanh ra. Bởi thế nên chương thứ 9, Ngài Tịnh
Chư NGhiệp Chướng bồ tát đứng thưa hỏi, để Phật chỉ bày bốn
tướng cho hành giả biết rõ đặng trừ. Khi bốn tướng trừ hết
rồi thời các nghiệp chướng được thanh tịnh.
- Song tren
đường tu hành, hành gaỉ còn bị mây Vô minh rất vi tế, tức là
bốn bịnh sau này che mặt trăng Viên giác của hành giả, làm cho
trăng Viên Giác chiếu soi không được phổ biến.
- Vì thế nên
đến chương thứ 10 này, NGài Phổ Giác bồ tát đứng lên thưa hỏi,
cầu Phật chỉ dạy thêm, để cho hành giả hiểu biết, đặng dẹp trừ
hết mây vô minh, thời trăng Viên giác kia mới được chiếu soi
phổ biến.
-
- ***
- Tóm lại,
đoạn này có 3 phần:
- 1. Trước
NGài PHổ Giác tán thán Phật đã chỉ rõ những chứng bịnh của
Thiền giả là bốn tướng vừa nói trên, để chúng sanh biết bịnh
đặng trừ, sẽ được an ổn.
- Thánh thì
ở ẩn, ngoại đạo tà sư lại thạnh hành làm cho người tu hành dễ
lạc vào tà kiến
- 3. Ngài
Phổ Giác bồ tát, cầu Phật chỉ dạy 5 điều như sau:
- a. Y theo
phương pháp nào để tu
- b.Phải làm
những hạnh gì?
- c. Phải trừ
những bịnh gì?
- d.Làm sao
để phát tâm?
-
- ***
-
2. Phật khen
ngài Phổ Giác bồ tát
- Khi ấy đức
Thế Tôn khen Ngài Phổ Giác bồ tát và dạy rằng
- -Này Thiện
nam, hay lắm và quý lắm! Ông vì chúng sanh đời sau thưa hỏi
Như Lai đường lối tu hành như t hế. Ðó là ông bố thí cho
chúng sanh đời sau con mắt đạo không sợ (đạo nhãn vô úy),
khiến cho chúng sanh đặng thành Thánh Ðạo. Vậy các công nên
chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ giáo.
- Khi ấy Ngài
Phổ Giác bồ tát và đại chúng đều hoan hỷ và lẳng lặng vâng
nghe lời Phật chỉ giáo.
-
- LƯỢC GIẢI
- Ðoạn này
Phật khen Ngài Phổ Giác vì chúng sanh, cầu Phật chỉ dạy đường
lối tu hành để cho c húng sanh đi thẳng đường đến nơi thánh
quả, không còn lo sợ đọa vào tà kiến.
- “Mắt đạo
không sơ” .- Ðối với đạo hiểu biết được rõ ràng như con mắt
thấy đường đi nên gọi là “con mắt đạo” (đạo nhãn). Trên đường
tu hành không còn lo sợ đọa vào tà kiến, nên nói “không sợ”
(vô úy)
-
- ***
-
3. Phật dạy
ngài Phổ Giác bồ tát
- -Này Thiện
nam! Chúng sanh đời sau muốn phát tâm tu đại thừa thì phải
cầu Thiện tri thức, tức là nhữn gngười hiểu biết chơn chánh
(chánh tri kiến). Những vị ấy tâm chẳng trụ ở nơi tướng phàm
phu và cũng không dính mắc nơi cảnh của Thinh văn, Duyên giác;
tuy hiện ở nơi cảnh trần lao mà tâm vẫn thường thanh tịnh. Có
khi các vị ấy thị hiện đồng ăn đồng ở với người tội lỗi (đồng
sự nhiếp), mà thường khen ngợi các hạnh thanh tịnh (phạm
hạnh), không để cho chúng sanh làm việc tội lỗi.
- Hành giả
phải cầu những người như vậy, dạy bảo tu hành, để thành tựu
quả Phật.
-
- LƯỢC GIẢI
- Ðoạn này
Phật trả lời câu hỏi thứ nhứt của Ngài PHổ Giác bồ tát hỏi:
“Phải cầu những bực nào dạy bảo?”. - Ðại ý Phật trả lời: Người
tu hành muốn được thành quả Phật, phải đủ hai điều kiện:
- 1. Bên
trong, hành giả phải phát tâm Ðại thừa làm chánh nhơn
- 2. Bên
ngoài, phải nhờ các thiện hữu tri thức, huớng dẫn đường lối tu
hành làm chánh duyên. Nếu có nội nhơn mà theiéu ngoại duyên,
hay có ngoại duyên mà thiếu nội nhơn đều không thành tựu.
- Song, cầu
thiện hữu tri thức, phải là người “chánh tri kiến”. – Làm sao
biết người “chánh tri kiến?” . – Hành giả phải dùng hai phương
diện thuận cảnh và nghịch cảnh sau đây quan sát, sẽ phân biệt
được thế nào là “chánh tri kiến”
- 1. Thuận
cảnh. – Vì thiện tri thức này, tâm không trụ nơi phước báo của
phàm phu ở cõi người hay cõi trời, vào cũngkhông trụ nơi phước
báo của phàm phu ở cõi người hay cõi Trời, vào cũng không trụ
nơi cảnh thanh nhàn yểm thế tu ích kỷ tiêu cực của Tiểu thừa
là Thanh văn và Duyên giác.
- 2. Nghịch
cảnh. – Vì thiện hữu Trí thức này, hiện thân ở trong cảnh
nhiễm ô (trần lao) để hóa độ chúng sanh, mà tâm chẳng ô nhiễm,
thật hành theo “đồng sự nhiếp” của bồ tát để hóa độ người.
- Có khi vị
này phải thị hiện làm việc lầm lỗi như người nhưng không bao
giờ dùng lý luận miễn cưỡng để bào chữa lỗi mình, trái lại
luôn luôn khen ngợi hạnh thanh tịnh và tự chỉ trích lỗi lầm
của mình.
- Ngài Như
Sơn giải nghĩa chữ “Thiện tri thức” như vậy: Thiện là hay,
khéo. Tri là biết bịnh. Thức là biết thuốc. Nghĩa là vị này
có tài biết chơn vọng, tà chánh, biết tâm bịnh của chúng sanh,
biết pháp dược của Phật để đối trị.
-
- ***
- -Này THiện
nam! Chúng sanh đời sau nếu gặp vị Thiện hữ tri thức như thế,
phải hết lòng cung dường, không tiếc thân mạng. Vị thiện tri
thức này khi giữ bốn oai nghi thanh tịnh, hành giả cung kính
đã đành, mà khi thị hiện lẫn lộn với chúng sanh làm các tội
lỗi để giáo hóa chúng sanh (đồng sự nhiếp), hành giả cũng chớ
nên sanh tâm khinh dễ.
- -Này thiện
nam! Ðối với thiện hữu tri thức này, mà hành giả không khởi
một niệm khinh thường, thì hoa lòng (Tâm hoa) sẽ được rộng mở,
chiếu sáng khắp cả mười phương thế giới và thành tựu qủa Phật.
-
- LƯỢC GIẢI
- Ðại ý đoạn
này Phật dạy: “y pháp bất y nhơn”. Trong luận Trí Ðộ nói:
“nếu vị thiện tri thức kia, có thể giải thích các nghĩa lý sâu
xa của Phật, dẫn dắt hành giả tu theo chánh Ðạo, được lợi
ích, thì hànhg iả phải hết lòng cung kính, như tôn kính Phật,
chẳng nên nghĩ những việc lỗi lầm của thiện hữu tri thức. Thí
như cái đãy xấu đựng ngọc, chớ nên vì đãy xấu mà bỏ vật báu.
NGười có ghẻ lát cầm đuốc đưa hành giả qua con đường nguy hiểm
trong lúc ban đêm, chớ nên chê người lát mà không dùng đuốc
sáng. NGười cầu dạo cũng thế: khi tìm được thiện hữu tri thức
có thể dẫn dắt hành giả đi trên đưòng tu hành, thì hành giả
phải trước sau một lòng tôn kính. Khi thiện tri thức giữ giới
thanht ịnh, hành giả cung kính đã đành, mà khi NGài vì chúng
sanh thực hành theo hạnh “đồng sự nhiếp” của bồ tát, người cầu
đạo không nên thấy thế mà sanh tâm chấp nhứt và khinh thường.
Ðược như thế, mới chứng được Phật đạo.
-
- ***
-
4. Phật nói
bốn định
- -Này thiện
nam! Vị thiện tri thức kia,d dã chứng được diệu pháp và rời
cả bốn bịnh sau đây:
- a. Bịnh tác
(làm các việc lành)
- Như có
người chấp như thế này: Bản tâm của tôi, vì muốn cầu Viên
giác, nên làm tất cả các hạnh”. Song tánh Viên giác kia, không
phải do làm mà được. Bởi hành giả lấy cái “làm” để cầu Viên
giác, nên gọi là “bịnh tác” (bịnh làm).
-
- LƯỢC GIẢI
- CHữ “Tác”,
nghĩa là làm. Tánh Viên Giác đâu có phải do “làm” mà được.
Cũng như mặt trăng kia đâu phải do vẹt mây mới có. Bởi thế
nên hành giả chấp: “phải là các hạnh lành để cầu nhập Viên
giác”, thì không có thể được. Vì tánh Viên giác là thanht ịnh,
vô vi và vô lậu mà hành giả lại dùng pháp hữu vi để cầu cảnh
giới vô vi thanh tịnh, thì không thể được, nên gọi là “bịnh
làm”.
- Ðọc đến
đoạn này, độc giả không sao khỏi thắc mắc: tại sao bài trước
Phật lại nói: “... Tánh Viên giác không phải do làm các h ạnh
lành mà được, nếu chấp do làm mà được, thì thành ra bệnh “Tác”
v.v.. >ời nói của Phật trưóc sao in tuồng mâu thuẫn. Nếu
không suy nghĩa kỹ thì độc giả sẽ không hiểu.
- Chúng tôi
thường ví dụ: muốn cho lớp học được yên tịnh, thời phải làm
sao trong lớp đừng có tiếng động, nếu có tiếng động thi lớp
học chẳng được yên tịnh. CŨng như muốn đặng t1nh Viên giác vô
vi thanh tịnh, thì không thể dùng pháp hữu vi vọng động mà
cầu. Nếu dùng hữu vi vọng động mà cầu thì không bao giờ đặng
Viên giác vô vi thanh tịnh.
- Mặc dù như
thế, song người muốn nhập Viên giác quyết định phải trải qua
hai giai đoạn:
- 1. Gia
đoạn đầu tiên, người muốn nhập Viên giác thanh tịnh, phải có
học tu, bỏ các việc dữ, làm các việc lành v.v... Cũng như các
ông thầy giáo, thấy học trò làm ồn, muốn cho lớp học được yên
tịnh, giai đoạn đầu tiên, phải dùn gtiếng ồn để trị ồn. NGhĩa
là ông thầy giáo phải gõ thước trước trên bảng cho lớn, thì
các học trò mới hết làm ồn. Cũng như người đời nói: dùng độc
trị độc, trong Ðạo nói : lấy vọng để trừ vọng.
- Ðến khi học
trò đã iml ặng rồi, mà thầy giáo vẫn gõ hoài trên bảng để mong
cho lớp học được yên tịnh, thì không thể được. Vì tiếng gõ là
tiếng động, rất trái với tịnh, làm sao lấy cái “động”, để cầu
cái “tịnh” cho được. Cũng như người dùng cái tạo tác hữu vi,
để cầu Viên giác vô vi thanh tịnh, không thể được.
- 2. Vì thế
nên bước qua giai đoạn thứ hai: Thầy giáo phải thôi gõ bảng
thì lớp học mới hoàn toàn yên tịnh. Cũng như hành giả, phải
trừ cái bịnh “làm”, mới đặng Viên giác thanh tịnh.
- NGười muốn
đến bờ giải thoát, trước hết phải dùng cái bè tu học để qua
sông mê. Song khi đã đến bờ rồi, mà cứ ôm cái bè mãi thì làm
sao lên bờ được.
- Tóm lại,
hành giả muốn nhập Viên giác thanh tịnh, phải trải qua hai
giai đoạn:
- 1. Giai
đoạn đầu tiên, hành giả dùng cái bè tu học, bỏ dữ làm lành để
qua sông mê. Hay nói một cách khác là dùng tiếng gõ bảnh của
thầy giáo, để trừ tiếng ồn của học trò.
- 2. Ðến
giai đoạn tối hậu, hành giả phải bỏ cái bè hữu vị tu học, mới
mong lên bờ giải thoát vô vi kia được. Hay đổi lại cách nói:
ông thầy giáo phải thôi gõ bảng thì trong lớp mới đặng yên
tịnh.
- Cũng ý này,
trong kinh “tứ thập nhị chương” Phật dạy: “... tu vô tu tu,
chứng vô chứng chứng...” NGhĩa là: tu đến chỗ vô tu mới thật
tu, chứng đến chỗ vô chứng mới thật là chứng v..v...
- Bởi thế nên
cổ nhơn có dạy rằng: “hữu vi tuy ngụy, xả chi tắt Phật đạo nan
thành”: CÁc việc tu hành về hữu vi tuy rằng hư nguy chẳn
gnhằm chi, nhưng nếu hành giả bỏ đi, thì Ðạo Phật vô vi khó
thành. Hay là câu: “thật tế l1y địa bắt thọ nhứt trần, vạn sự
môn trung bất xả nhứt pháp”: Ðành rằng chỗ lý tánh chơn thật
(viên giác) không thọ một mảy trần, nhưng về sự tướng tu hành
thì muôn điều không bỏ một việc lành nào.
- b. Bịnh
nhậm (mặc kệ, không tu hành)
- -Này thiện
nam! như có ngưòi chấp như thế này: “Tôi nay không cần đoạn
sanh tử và cũng không cầu niết bàn. Người muốn cầu Viên giác,
chớ nên móng niệm diệt sanht ử hay cầu niết bàn, mặc tình cho
sanh tử hay niết bàn, tùy pháp tánh mà sanh hay diệt”.
- Hành giả chấp như thế, là bị
bịnh nhậm (mặc kệ); vì tánh Viên giác kia, đâu có phải để mặc
kệ (nhậm) như vậy mà nhập được.
-
- LƯỢC GIẢI
- Chữ nhậm là
mạc kệ. Bịnh này do hành giả chấp: “Tánh viên giác không phải
do tu hành, làm các hạnh lành v.v.. mà nhập được”. Nên hành
giả để mặc cho nghiệp lực xoay chuyển, chẳng sợ tôị lỗi, khôn
gham phước lành, sanh tử không chê, niết bàn cũng chẳng quý;
vì thế nên không nhập được Viên giác.
- c. Bịnh chỉ (dứt
các vọng niệm)
- -Này thiện
nam! Như có người chấp như thế này: “Tôi nay muốn cầu Viên
giác, nên phải dứt hết các vọng niệm, đặng tất cả pháp bình
đẳng vắng lặng”.
- Chấp như thế, là bị bịnh
“chỉ”; vì tánh Viên giác kia, đâu có phải do “dừng chỉ” các
vọng mà nhập được.
-
- LƯỢC GIẢI
- Chữ “chỉ”
là dứt các vọng niệm. Bởi hành giả thấy bịnh “tác” làm cho
tâm khởi động bịnh “Nhậm” (mặc kệ) làm tâm phóng túng cả hai
đều không nhập Viên giác được, nên hành giả xoay trở về nơi
“chỉ” (dừng đứng)
- Vì vọng
niệm mà thấy các pháp sai khác, không được bình đẳng, cho nên
hành giả tu “chỉ” để dứt vọng niệm. Ðâu biết rằng: tánh viên
giác không có “niệm”, nếu khởi niệm thì trái, Viên giác không
có “Chỉ”, nếu hành giả lại “chỉ”, thì làm sao nhập được viên
giác.
- d. Bịnh diệt (diệt
các phiền não)
- -Này Thiện
nam! Như có người chấp như thế này: “Tôi nay muốn cầu Viên
giác, nên vĩnh viễn đoạn các phiền não, nào thân tâm nào cảnh
vật, tất cả đều hư vọng không thật có, rốt ráo vắng lặng”.
Dùng cái “diệt” (vắng lặng) mà cầu Viên giác như thế là mắc
bịnh diệt; vì tánh Viên giác đâu có phải chỉ vắng lặng.
-
- LƯỢC GIẢI
- Chữ “diệt”
là dứt các phiền não, tâm và cảnh đều vắn glặng. Song tánh
Viên giác vừa tịch (vắng lặng) lại vừa chiếu (linh tri). Tịch
và Chiếu không hai. Hành giả chỉ chấp một bên “tịch” thì
không hợp với tánh Viên giác.
-
- ***
- -Tóm lại, người cầu đạo phải
rời bốn bịnh trên, mới được nhập Viên giác thanh tịnh. Người
quán sát để trừ bốn bịnh như thế, là Chánh quán; nếu trái lại,
là tà quán.
-
- LƯỢC GIẢI
- Ðoạn này
tóm lại bốn bịnh trên. Chữ “Tác” là làm; “nhậm” là không làm,
để mặc kệ; “chỉ” là dùng chỉ các vọng niệm đương sanh và sẽ
sanh; “diệt” là dứt các phiền não đã sanh. Bởi tánh Viên giác
bất sanh bất diệt, bất cầu bất tịnh, bất tăng bất giảm, vô vi
vô lậu, mà hànhg giả dùng Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt v.v.. để cầu,
thì không hiệp với tánh Viên giác.
- Ngài Như
Sơn nói: Ðem bốn bịnh “Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt” mà chiêm nghiệm
lại tâm tư của mình, nếu còn một món nào thì cũng đều là bịnh
cả; phải trừ hết bốn bịnh này, mới được nhập viên giác thanh
tịnh
-
- ***
-
5. Phật trả
lời câu hỏi thứ ba: “phải làm những hạnh gì?”
- -Này thiện
nam! CHúng sanh đời sau muốn tu hành, suốt đời phải kính
trọng cúng dường Thiện hữu tri thức. Khi thiện hữu tri thức ở
gần gũi, hành giả chớ nên khinh lờn. Khi thiện hữu tri thức
đi xa, hànhg iả chớ nên hờn giận.
- Khi thiện
hữu tri thức hiện ra cảnh thuận hay nghịch, tâm hành giả pah3i
như hư không, chớ nên thay đổi. Hành giả phải rõ biết: thân
tâm minh cùng thầy bạn và các chúng sanh, đồngmột bản thể bình
đẳng rốt ráo không khác. Hành giả phải tu hành như thế, mới
nhập được viên giác.
-
- LƯỢC GIẢI
- Ðoạn này
Phật trả lời câu hỏi thứ ba: “phải làm những hạnh gì?”
- Hạnh bồ tát
rất nhiều, nhưng việc thờ Thầy là điều rất cần thiết. Vì đời
mạt pháp nhược ma cường, nếu khôngc ó Minh sư chỉ dẫn, thì
hành giả không sao khỏi bị lạc vào đường tà. Bởi thế nên hành
giả phải suốt đời cung kính phục sự Thầy. Dù cho thiện tri
thức làm những điều thuận ý hay nghịch lòng, hành giả cũng
phải giữ một niềm tôn kính, tâm như hư không chớ nên thay đổi.
- Hànhg iả
phải quán sát: Thầy bạn cùng chúng sanh và mình đều đồng một
thể viên giác, không riêng khác. Do đó hành giả mới bỏ được
tánh kiêu mạn của mình để thờ Thầy, quên bản ngã để độ sanh.
Phải tu hạnh như thế, mới nhập được Viên giác.
-
- ***
-
6. Phật trả
lời câu hỏi thứ tư: “Phải trừ bỏ bịnh gì?”
- -Này thiện
nam! CHúng sanhd dời sau, không đuợc thành Ðạo, đều do tất cả
hạt gióng thương ghét, nhơn ngã, từ vô thỉ đến giờ. Vì thế
nên chẳng được giải thoát.
- Nếu người
xem những kẻ oan gia cũn gnhư cha mẹ không khác, đối với các
pháp tâm cũng không thương ghét, phân b iệt tự tha, thì người
ấy sẽ trừ được các bịnh.
-
- LƯỢC GIẢI
- Ðoạn trước
Ngài Phổ Giác bồ tát hỏi PHật: “phải trừ những bịnh gì?” -
Ðoạn này Phật trả lời: “phải trừ thương ghét”
- Ðành rằng
trong bài số 9, Phật đã dạy trừ thương ghét, nhưng chỉ nói về
phần thô (hiện hành). Ðến đoạn này Phật dạy trừ về phần vi tế
của thương ghét tức là chủng tử. Nếu còn một chút ít thương
ghét ngấm ngầm bên torng làm chướng ngại, thì hành gaỉ không
thể nhập được Viên giác thanh tịnh.
- Bao giờ
hành gaỉ đối với kẻ oan gia, xem cũng như cha mẹ, bình đẳng
không khác, xem sanht ử và Niết bàn chẳng hai, thì hành giả
mới đoạn được chủng tử của thương ghét và mới có thể nhập viên
giác thanh tịnh.
-
- ***
-
7. Phật trả
lời câu hỏi thứ năm: “phải phát tâm thế nào?”
- -Này thiện
nam! chúng sanh đời sau muốn cầu Viên giác thì phải phát tâm
như thế này: “tôi nguyện độ tất cả chúng sanh khắp cả hư
không, đếu được rốt ráo vào Viên giác; người được viên giác
không chấp ở nơi viên giác; trừ hết các tướng Nhơn và Ngã
v.v..” - Phải phát tâm như vậy mới khỏi đọa vào tà kiến.
-
- LƯỢC GIẢI
- Ðoạn này
Phật trả lời câu hỏi thứ 5 mà ngài PHổ Giác bồ tát đã hỏi
Phật: “Phải phát tâm thế nào?”
- Phật trả
lời phải phát tâm như vầy, mới khỏi đoạ vào tà kiến:
- 1. Phát
tâm quảng đại: nguyện độ tất cả chúng sanh (noãn, thai, thấp,
hóa) trong mười phương.
- 2. Phát
tâm rốt ráo: độ chúng sanh nhập viên giác cứu kính.
- 3. Phát
tâm chơn thường: ở trong viên gaíc mà không khởi vọng chấp
nơi viên giác.
- 4. Phát
tâm không điên đảo: Không khởi vọng tưởng điên đảo chấp các
tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng và tướng độ sanh.
- Hai món
phát tâm trước là đại bi, hai món phát tâm sau là đại trí. Bi
và Trí được iên dung là do phát bốn món tâm trên được tròn.
CÂu hỏi của ngài PHổ giác giống như trong kinh Kim Cang, câu
hỏi của Ngài Tu Bồ Ðề: “Vân hà ưng trụ?” (Phải trụ tâm như thế
nào?_
- Ðoạn này
nói chữ “phát tâm”, nghĩa là tâm phát nguyện. Như nguời đời
nói “lập chí”. Nhờ phát nguyện hay lập chí mà người đời tu
hành vượt qua bao nhiêu trở lực khó khăn và thúc đẩy sự tu
hành mau được thành công. NẾu “nguyện” rất thiết, thì hạnh
mới chuyên cần. Do đó mà mau đuợc kết quả. Các đức Phật cũng
nhờ phát nguyện rồi y theo nguyện đó tu hành mà được thành đạo
chứng quả.
- Hành giả
nếu không có “nguyện lực” của mình làm động cơ thúc đẩy trên
trường tu hành, thì quả Phật khó mà đạt được.
-
- ***
-
8. Phật nói
bài kệ, tóm lại các nghĩa trên
- KHi ấy đức
Thế Tôn muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
-
- LƯỢC GIẢI
- Ðại ý bài
kệ này nói tóm tắt lại các nghĩa trên: Các chúng sanh đời sau
muốn cầu thiện tri thức, phải tìm người chánh kiến. Làm sao
biết chánh kiến? – Là đã trừ bốn bịnh và xa lia tư tưởng Nhị
thừa
- Cách đối xử
với thiện tri thức: khi thân cận chớ nên khinh lờn, khi xa
cách chớ nên sầu hận. Khi thấy thiện tri thức hiện ra, cảnh
thuận hay nghịch, hành giả chớ nên vì thấy thế mà đổi tâm tâm,
phải lấy làm hy hữu và kính như Phật ra đời. Hành giả phải
giữ giới hạnh thanh tịnh, không phạm các tội lỗi và độ các
chúng sanh, rốt ráo vào viên giác.
- Hành giả phải y trí huệ chơn
chánh, trừ các tướng Ngã, Nhơn mới khỏi đọa tà kiến và được
nhập viên giác hay chứng quả niết bàn.
-
- BÀI THỨ
MƯỜI MỘT
-
XI. CHƯƠNG
VIÊN GIÁC
-
1. Ngài Viên
Giác bồ tát hỏi Phật
-
Khi
ấy Ngài Viên Giác bồ tát ở trong Ðại chúng đứng dậy, đi quanh
bên hữu của Phật 3 vòng rồi lạy Phật và chắp tay quỳ thẳng
bạch rằng:
-
-Bạch Ðức đại bi Thế Tôn! NGài đã vì chúng con rộng nói các
phương tiện để nhập Viên giác thanh tịnh, khiến cho chúng sanh
đời sau đặng lợi ích lớn
-
Bạch Thế Tôn! Chúng con ngày nay đã được khai ngộ rồi. Nếu
sau khi Phật nhập diệt, chúng sanh đời sau chưa được khai ngộ,
thì làm sao an cư để tu tập cảnh giới Viên giác thanh tịnh
này? VÀ ba pháp quan1 thanh tịnh trong Viên giác đây, phải tu
pháp nào trước?
-
Cúi xin đức Ðại bi vì đại chúng và chúng sanh đời sau, bố thí
cho chúng con được lợi ích lớn.
-
Ngài
Viên Giác bồ tát thưa thỉnh như vậy 3 lần, kính lạy dưới chân
Phật rồi trở lui.
-
-
LƯỢC GIẢI
-
Ðoạn
này NGài Viên Giác Bồ tát hỏi Phật có hai câu:
-
1.Làm
sao an cư tu Viên giác thanh tịnh?
-
2.Ba
môn quán thanh tịnh nên tu pháp nào trước?
-
Chữ
“Viên giác bồ tát” – Viên Giác là Giác viên mãn. Từ trước đến
đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ
Vô minh và chứng nhập Viên giác. Nhưng đứng về phương diện tu
hành, không phải tu nhứt thời mà chứng được Viên giác; phải
lần lượt như người lau guơng lau nhiều bụi mới sạch. Bụi càng
sạch thì gương càng sáng; sáng, sạch đến chỗ hoàn toàn là dụ
cho Viên giác.
-
Xin
nhắc lại, trước về chương “tịnh chư Nghiệp chướng” là dạy hành
giả chưa được phổ biến. Ðến chương “Phổ Giác”, bồ tát cầu
Phật chỉ dạy phương pháp tu hành để cho Giác tánh được phổ
biến, nhưng chưa Viên. Ðến chương “Viên Giác” là nói Giác
tánh Viên mãn. Chương này bồ tát hỏi Phật về việc an cư và tu
3 pháp quán, toàn chú trọng về sự tướng tu trì. Cho biết: Sự
chưa tròn là Lý chưa Viên. Lý Viên là nhờ sự tròn. Thí như
người tu đức từ bi, nếu chưa phổ cập đến loài vi tế côn trùng
(hộ mạng côn trùng) thì lòng từ bi chưa tròn.
-
- ***
-
2. Phật khen
ngài Viên Giác Bồ tát
-
Khi
ấy đức Thế Tôn khen ngài Viên Giác bồ tát và bảo rằng:
-
-Này Thiện nam, hay lắm và quý lắm! Ông thưa hỏi Như Lai nhữn
gphương tiện tu hành, thế là ông bố thí cho chúng sanh lợi ích
rất lớn. VẬy các ông nên lóng nghe, ta sẽ vì các ông mà chỉ
giáo.
-
giáo.
-
-
3. Phật dạy
pháp an cư
-
-Này Thiện nam! Khi Phật còn tại thế hoặc nhập diệt rồi, hay
đời mạt pháp(1) nếu chúng sanh nào có đủ căn tính
Ðại thừa, tin cái tâm Viên giác của Phật, phát tâm tu hành;
như ở Già Lam (chùa) thì phải lo xếp đặt chúng TĂng, hoặc có
những duyên sự khác không thể chuyên tu tập được, thì tùy phận
của Hành giả, tư duy và quán các pháp môn mà ta đã dạy trước.
-
Nếu không có nhơn duyên khác, thì hành giả phải lập đạo tràng
và định thời kỳ tu tập. Nếu thời gian đài thì 120 ngày, vừa
thì 100 ngày, ngắn thì 80 ngày.
-
CÁch bài trí trong tịnh thất, phải treo tràng phan và đủ cả
hương hoa. Như Phật còn tại thế thì nên chánh suy nghĩ. Nếu
Phật nhập diệt rồi thì an trí hình tượng Phật, mắt nhìn tâm
tưởng nhớ, kính đồng như Phật còn tại thế
-
-
LƯỢC GIẢI
-
Ðoạn
này Phật dạy hai cách:
-
nhập
đạo tràng chuyên tu được, thì hành giả nên quán sát các pháp
môn của Phật dạy, như trong chương Phổ Nhãn v.v..
-
2.
Nếu không có duyên sự gì bận rộn, thì hành giả nên lập đạo
tràng và phân kỳ mà tu tập. Trường kỳ là 120 ngày, trung kỳ
là 100 ngày, đoản kỳ là 80 ngày.
-
Nếu
Phật còn tâi thế, thì hànhg iả chỉ chánh tâm nhớ nghĩ đức
Phật, khỏi cần có hình tượng. Nếu Phật nhập diệt rồi, thì nên
thờ tượng Phật để mắt nhìn, tâm tưởng, kính như Phật còn tại
thế.
-
-
______
-
(1)Chữ “Mạt pháp” – Giáo pháp của Phật có chia làm 3 thời kỳ:
-
1.
Chánh pháp, 1000 năm
-
2.
Tượng pháp (mường tượng như chánh pháp) 1000 năm
-
3.
Mạt pháp (rốt ngọn) 10000 năm. Hiện nay (1992) Phật lịch
2536, thế là đã sang mạt pháp 536 năm.
-
- ***
-
4. Phật dạy 21
ngày đầu, ở trong tịnh thất
-
-Trải qua 21 ngày đầu, hành giả kính lạy danh hiệu của các đức
Phật trong 10 phương và chí thành sám hối. Nếu gặp cảnh giới
tốt, thì hành giả tâm đuợc nhẹ nhàng thư thới (khinh an). Qua
21 ngày rồi, hành giả phải chuyên nhiếp vọng niệm.
-
-
LƯỢC GIẢI
-
NGười
mới tu, giới đức chưa đủ, thân tâm chưa được thanh tịnh, nên
không có năn glực tu định huệ. Vì thế nên lúc ban đầu phải
lập đạo tràng. Hành giả trải qua 21 ngày đầu lễ Phật và sám
hối. Cũng như cái chén cần rửa cho sạch mới có thể đựng Ðề hồ
được. Hành giả phải nhứt tâm thật hành như vậy, thì thân mới
được thanh tịnh. Trong 21 ngày, hoặc căn lành phát hiện, hay
có cảm ứng: hành giả thấy được điềm lành, thời thân tâm sẽ
được khoan khoái.
-
“Cảnh
giới tốt”: Như ở trong chiêm bao thấy Phật, hoặc khi làm lễ
sám hối thấy hào quang v.v...
-
- ***
-
5. Phật dạy an
cư 3 tháng theo bồ tát thừa
-
-Này Thiện nam! Nếu gặp đầu mùa Hạ 3 tháng an cư, thì hành
giả phải an trụ nơi hạnh thanh tịnh của Bồ tát, tâm lìa tư
tưởng của Thinh văn, không nhờ đồ chúng.
-
Ðến ngày an cư, hành giả phải đối trước Phật phát nguyện như
vầy: “Con là Tỳ kheo (tên gì) hoặc Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc hay
Ưu bà di, nguyện tu theo hạnh tịnh diệt của Bồ tát thừa, trụ
trì nơi thật tướng, lấy đại viên giác làm già lam (chùa).
Thân tâm con an cư nơi “Bình đẳng tánh trí” hay “tự tánh Niết
bàn”, không có hệ thuộc xứ sở.
-
Con năy chẳng y theo Thinh văn, con kính thỉnh mười phương chư
Phật và các vị Bồ tát cùng với con đồng làm pháp an cư 3
tháng. Con vì một nhơn duyên lớn là tu bồ tát hạnh, cầu chứng
quả Vô thượng Diệu giác, nên không hệ phược đồ chúng.
-
Tu
như thế mãn 3 thời kỳ rồi, tùy ý hành giả ra vào vô ngại. Ðây
gọi là bồ tát thị hiện an cư.
-
-
LƯỢC GIẢI
-
Ðoạn
này chia làm 3 phần:
-
1.
Phật dạy hành giả lập thời kỳ tu tập như vậy chưa đủ mà phải
an cư 3 tháng, bắt đầu từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm
lịch. Người phát tâm bồ đề tu theo viên giác, thì phải an cư
theo bồ tát hạnh. Nghĩa là không cần phải tập chúng an cư
theo luật tiểu thừa, mà tâm của hành giả phải luôn luôn an trụ
nơi hạnh thanh tịnh của Bồ tát. Bởi thế nên trên nguyên văn
kinh nói: “Tam rời tư tưởng của Thinh văn, không nhờ đồ
chúng”.
-
2.
Ðên1 ngày an cư, hành giả phải đối trước Phật bạch như vầy:
-
“Con tên. thọ giới tỳ kheo
hay Tỳ kheo Ni, Ưu bà Tắc (thiện nam) hay Ưu Bà Di (Tín nữ);
nay y theo pháp đại thừa, tu theo hạnh tịch diệt của bồ tát,
lấy viên giác làm chùa, thân tâm con thường an trụ nơi “tựtánh
Niết bàn” hay “bình đẳng tánh trí”.
-
3.
Hành giả đối trước Phật phát nguyện rằng:
-
“Con nay vì muốn tu hạnh Viên
giác, nên không theo luật an cư của thinh văn (tiểu thừa)
không tập chúng tăng an cư, mà con chỉ cầu thỉnh 10 phương chư
Phật và Bồ tát cùng với con làm pháp an cư trong 3 tháng.
Hành giả an cư như thế 3 tháng, sau khi mãn thời kỳ rồi, tùy
ý đi tới lui không ngại.
-
Chữ
“Tịch diệt”: Diệt các phiền não, tâm được tịch tịnh, tức là
nói: ý theo tâm chơn như không sanh diệt mà tu.
-
Chữ
“thật tướng” Tướng chơn thật, tướng này không sanh không diệt,
không cấu không tịnh, không tăng không giảm, không bị thời
gian thay đổi, kkhông gian chuyển dời, tức là chỉ cho “chơn
như thật tướng”, cũng là cái biệt danh “viên giác”
-
“Viên
giác làm chùa” - Tiểu thừa an cư thì lấy sự tướng là cảnh chùa
(già lam) của mình ở, làm nơi tu hành, bồ tát an cư thì lấy lý
tánh là Viên giác làm chuà của mình ở tu, nên nói: “lấy Viên
giác làm chùa”.
-
“Bình
đẳng tánh trí”. – Hành giả đã an cư nơi thật tướng, tức là
tánh Viên giác, nên 6 căn ở thân không tạo nghiệp, 6 thức
không dong ruỗi theo 6 trần.
-
Lúc
bấy giờ 5 thức trước, chuyện lại làm “thành sở tác trí”; thức
thứ 6 chuyển thành “Diệu quan sát trí”.
-
Khi
hành giả chưa an trụ nơi Viên giác thì thức thứ 7 này chấp
ngã, nhơn, bỉ thử. Ðến khi hành giả an trụ nơi Viên giác, thì
thức thứ 7 chuyển thành “Bình đẳng tánh trí”. Lúc bấy giờ
thức thứ 8 không còn bị thức thứ 7 chấp làm “ngã” nữa, nên
thức thứ 8 chuyển thành “Ðại viên cảnh trí”.
-
Chữ
“niết bàn tự tánh”: cũng gọi là “tánh tịnh Niết bàn”, tức là
biệt danh của Chơn như hay Viên giác.
-
Chữ
“không hệ thuộc xứ sở”: tiểu thừa an cư phải có cảnh chùa để
làm đạo tràng xứ sở. Ðến như bồ tát thì lấy “Niết bàn tự
tánh” làm đạo tràng, nên nói: “không hệ thuộc xứ sở”.
-
Chữ
“vô thượng Diệu giác”: quả vị Phật sáng suốt (giác) mầu nhiệm
(diệu) không có quả vị nào trên (vô thượng)
-
- ***
-
6. Khi thấy
thắng cảnh, hành giả chớ nên chấp trước
-
-Này thiện nam! Như chúng sanh đời mạt pháp muốn tu hành để
cầu đạo bồ tát trong khi vào tu 3 thời kỳ này, nếu thấy có các
thắng cảnh hiện ra, mà không đúng như hành giả đã nghe thấy,
thì quyết không nên chấp thủ.
-
-
LƯỢC GIẢI
-
Ðoạn
này Phật dạy hànhg iả khi tu, nếu thấy hiện ra cảnh giới thù
thắng, không nên luyến trước.
-
Hànhg
iả khi dụng côn tu hành, cố nhiên sẽ có cảnh giới thù thắng lạ
thường hiện ra. Song, nếu sanh tâm chấp trước, không phân
biệt chánh tà, thì hành gaỉ dễ mắc lưới ma. Cho nên hànhg aỉ
phải thấy các cảnh giới ấy đúng như sự nghe học của mình,
nghĩa là lời Phật dạy, hoặc thiện tri thức bảo hay trogn kinh
sách dạy như thế nào, thì khi các cảnh ấy hiện ra phải đúng
như thế ấy, mới gọi là chơn chính. Trái lại là ngũ ấm ma hiện
(nên xem đoạn NGũ Ấm Ma, trong kinh Lăng Nghiêm)
-
Phàm
người tu hành, không ai chẳng nhơn nghe hiểu rồi sanh lòng
tin, nhơn có tin mới tu, nhơn tu mới có chứng, chứng là kết
quả của nghe, tin và tu. Thế nên tin, hiểu, tu và chứng trước
sau phải hiệp nhau. Nếu chõ chứng (cảnh giới hiện ra) không
hiệp với sự nghe thì bất luận hiện ra cảnh giới thiện hay ác,
cũng đều là Ma cả.
-
- ***
-
7. Tu chỉ (Xa
Ma tha)
-
-Này thiện nam! Như có các chúng sanh tu pháp “chỉ” (Xa ma
tha) trước giữ chỗ chí tịnh (rất yên lặng) không khởi vọng
niệm nhớ nghĩ; do yên lặng tột bực nên trí giác hiện ra. Như
vậy từ khi mới bắt đầu tịnh và ở một thân, cho đến khi khắp cả
một thế giới đều tịnh. Cũng thế, “trí giác” bắt đầu hiện ra ở
một thân cho đến khắp cả một thế giới đều “giác”.
-
-Này thiện nam! Khi “trí giác” đã hiện khắp một thế giới, thì
trong thế giới ấy nếu có một chúng sanh nào, móng lên một
niệm, lúc bấy giờ hành giả đều biết cả. Cho đến trăm ngàn thế
giới cũng thế.
-
Các cảnh giới ấy, nếu không phải đúng như sự nghe của hành
giả, thì quyết chẳng nên chấp thủ.
-
-
LƯỢC GIẢI
-
Ðại ý
đoạn này Phật dạy hànhg iả khi tu Ðịnh, đến chỗ tột bực, nên
trí giác (huệ) phát sinh. Bởi từ một thân tịnh cho đến một thế
giới tịnh, nên trí giác phát ra cũng từ một thân cho đến khắp
cả thế giới. Vì cả thế giới đều là “trí giác” của hành giả,
nên co một chúng sanh nào vừa móng niệm, thì hành giả đều biết
hết.
-
Song
những cảnh giới đã hiện ra, phải đúng như sự thấy nghe mà hành
giả đã từng nghe thiện tri thức hay trong kinh chỉ dạy, như
thế cảnh thấy mới chánh. Nếu trái lại là NGũ ấm Ma hiện.
-
Ngài
Như Sơn nói: “Vì toàn cả thế giới đã thành “giác” nên chúng
sanh toàn ở trogn giác tánh của hành gaỉ. Bởi thế nên khi
chúng sanh khởi ra một niệm gì, thì hành giả đều biết cả.
Cũng như bóng đã hiện trogn gương, nên gương chiếu không sót”.
-
Tron
gkinh Viên giác lược sớ chép: hành g iả tin, hiểu, tu, và
chứng tuy thứ lớp không đồng, nhưn gpải không khác. Nghĩa là:
“hiểu là hiểu theo chỗ mình Tin, Tu là Tu theo chỗ mình hiểu.
CHứng là chứng theo chỗ mình Tu. Nay những cảnh giới củ hành
giả chứng, nếu không phải đúng như chổ hiểu, tin và tu, thì
không nên chấp thủ”.
-
- ***
-
8. Tu quán
(ta ma bát đề)
-
-Này thiện nam! Nếu chúng sanh, tu pháp “quán”, thì trước phải
nhớ tưởng mười phươgn các đức Phật và các vị bồ tát, rồi y
theo các pháp môn của Phật dạy đó mà siêng năng cần khổ tuần
tự tu hành, đặng thành tam muội và phát nguyện rộng lớn, tư
huân tập thành chủng tử. Trong lúc tu, nếu có hiện ra những
cảnh giới gì mà không dúng như chỗ nghe của hành giả, thì chớ
nên chấp thủ.
-
-
LƯỢC GIẢI
-
Phật
dạy người tu “quán”, trước phải nhớ tưởng các đức Phật và bồ
tát rồi y theo các pháp môn của Phật dạy mà siêng năng khổ
hạnh tuần tự tu hànhd để thành tam muội. VÀ phải phát đại
nguyện huân tập vào tâm thức của hành giả để thành chủng tử.
-
Trong
khi tu, nếu có những cảnh giới gì hiện ra mà không đúng như
chỗ của hành giả đã nghe thầy bạn dạy bảo, hay trong kinh luật
chỉ giáo, thì không nên chấp thủ; vì đó là Ma hiện.
-
“Tam
muội” – Xem đoạn giải thứ 2 trogn chương PHổ Hiền Bồ tát.
-
- ***
-
9. Chỉ quán
song tu (thiền na)
-
-Này thiện nam! Nếu có chung sanh muốn tu Thiền na (Chỉ quán
song tu) thì trước phải tu pháp môn sổ tức; trong âm hành giả
biết rõ được mỗi niệm khi sanh, trụ, dị và diệt; phân biệt
được ranh giới và số mục của các niệm. cho đến khắp cả bốn
oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi). Hành gia cũng đều biết; cũng
như con mắt thấy các vật dụng. trogn khi tu nếu thấy có hiện
ra cảnh giới gì không đúng như sự thấy nghe của hành giả thì
không nên chấp thủ.
-
Ðây là phương tiện đầu tiên tu hành của hành giả, tức là ba
pháp quan1. NẾu các chúng sanh tinh tấn siêng tu ba pháp quán
này được hoàn toàn, tức là Như Lai xuất hiện ở thế gian vậy.
-
-
LƯỢC GIẢI
-
dạy
trước tu pháp “chỉ” giữ tu pháp “Quán”, sau tu “chỉ, quán song
tu”.
-
Ðoạn
này Phật dạy “Chỉ, Quán song tu”. Người tu pháp này, trước
phải tu pháp sổ tức (đếm hơi thở). Nhờ có điều hòa hơi thở,
nên tâm được tịnh (chỉ); nhờ tâm được tịnh nên những vọng niệm
thô tế, khi sanh, trụ, dị và diệt, giới hạn của nó dài ngắn,
lâu mau, nhiều hay ít, hànhg iả đều biết được hết (quán)
-
Hành
gaỉ tịnh tọa, dụng tâm tu pháp quán như vậy, khi mới thành
công, thời trong tất cả thời gian động tịnh như đi, đứng, nằm
ngồi v.v... hành giả đều hiểu biết phân biệt được rõ ràng,
mmỗi niệm, khi sanh, trụ, dị và diệt, giới hạn dài ngắn hay
lâu mau và ít nhiều v.v...
-
Ðến
lúc thành công hoàn bị, thì torng trăm ngàn thế giới, có những
vật gì, cho đến có bao nhiêu hạt mưa, hành giả cũng đều biết
được hết. Không phải hành giả hiểu biết một cách lờ mờ, mà
hiểu biết một cách rõ ràng; cũn gnhư mằt xem thấy các sự vật
thụ dụng vậy.
-
- ***
-
10. Tóm tắt
-
-Này Thiện nam! Nếu chúng sanh đời mạt pháp, tâm muốn cầu
đạo, nhưng vì nghiệp chướng đời trưóc nặng nề, căn tánh ám
độn, nên tu hành khó thành tựu, thì phải siêng năng sám hối;
thường sanh tâm trông mong đoạn trừ các phiền não: thương,
ghét, tật đố, dối nịnh v.v... và tìm cầu quả vị cao thượng thù
thắng.
-
Ðối với 3 pháp quán thanh tịnh này, tùy hànhg iả tu một pháp.
Nếu tu pháp quan1 này không thành tựu thì tu pháp quan1 khác,
phải lần hồi cầu chứng, chớ nên thối tâm buông bỏ.
-
-
LƯỢC GIẢI
-
Ðại ý
đoạn này Phật dạy: NẾu chúng sanh đời sau căn tánh ám độn,
nghiệp chướng nặng nề, muốn cầu Phật đạo, nhưng không thành
tựu, thì phải siêng năng sám hối, tâm thường trông mong đoạn
các phiền não. Ðối với 3 pháp quán, nếu tu phap1 này không
thành tựu thì tu pháp khác, dốc lòng cầu chứng Ðạo, không nên
thối tâm.
-
- ***
-
11. Phật nói
bài kệ tóm lại các nghĩa trên
-
Khi
ấy đức Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa này, nên nói bài kệ
rằng:
-
Viên Giác ông nên biết:
-
TẤt cả các chúng sanh
-
Muốn cầu đạo vô thượng,
-
Phải lập ba thời kỳ:
-
Hai mươi mốt ngày đầu
-
Sám hối nghiệp vô thỉ,
-
Vậy sau chánh suy nghĩ;
-
Nếu phi cảnh đã nghe,
-
Thì chẳng nên chấp thủ
-
Pháp “chỉ” rất tịch tịnh
-
Pháp “Quán” chánh nhớ nghĩ,
-
THiền na rõ đếm hơi,
-
Thế gọi là tịnh quán.
-
NGười siêng năng tu tập,
-
Thế gọi Phật hiện thế.
-
Kẻ
độn căn chẳng thành,
-
Thì phải siêng sám hối
-
Các tội từ vô thỉ.
-
Các tội chướng tiêu rồi,
-
Cảnh Phật liền hiện trước
-
-
LƯỢC GIẢI
-
Ðại ý
bài kệ này Phật dạy các chúng sanh muốn cầu đạo vô thượng bồ
đề, thì phải phân ba thời kỳ tu tập. Khi vào tịnh thất, trong
21 ngày đầu, hành giả phải chí tâm sám hối các nghiệp chướng
từ vô thỉ, sau rồi chánh tâm suy nghĩ.
-
Trong
lúc tu, như có hiện ra cho cảnh giới gì, nếu không đúng với
chỗ thấy nghe của hành giả, thì chớ nên chấp thủ.
-
Nếu
hành gaỉ siêng năng tu tập ba phép quán thanh tịnh là: chỉ,
quán và chỉ quán song tu thì gọi là Phật hiện thế.
-
NẾu
người nào căn tánh ám độn không thể tu ba pháp môn này được
thì nên siêng sám hối các tội từ vô thỉ; khi các tội chướng
tiêu diệt rồi, thì cảnh Phật liền hiện ra trước mặt.
-
--o0o--
|
|