-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- KHOÁ X -
XI
- LUẬN ĐẠI
THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ 1
-
-
NGUYÊN NHÂN TẠO
LUẬN NÀY
[^]
- Trong khoảng
600 năm, sau khi Phật nhập diệt, tại Ấn độ, phần thì phái Tiểu
thừa nổi lên tranh chấp, không tin lý Đại thừa, phần thì ngoại
đạo lập các tà thuyết phá hoại chánh pháp; tình trạng Phật giáo
rất đen tối.
- Ngài Mã Minh
Bồ Tát, trông thấy tình trạng ấy rất đau lòng, nên tạo ra luận
này, để xô tà đỡ chánh: trừ những nghi ngờ của Tiểu thừa, phá
các tà thuyết của ngoại đạo, làm cho người phát khởi lòng tin
Đại thừa.
-
GIẢI THÍCH TÊN
LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN
[^]
- _ Luận. Luận
là luận bàn lẽ tà chánh, quyết đoán điều nghi ngờ và lựa chọn
những việc phải quấy.
- _Đại thừa.
Chữ "Đại" là lớn, chữ "Thừa" là cởi. Đọc chữ "Thặng" nghĩa là
cái xe. Theo đây phải đọc là "Thặng" mới đúng, song vì theo thói
quen nên đọc là "Thừa".
- Đại thừa có 5
nghĩa:
- 1. Vì đối với
Tiểu nên gọi là Đại.
- 2. Quả Phật
rộng lớn, thừa này sẽ đi đến quả Phật, nên gọi là Đại Thừa.
- 3. Chư Phật
là bực Đại nhơn, song chẳng rời thừa này, nên gọi là Đại Thừa.
- 4. Các Bồ Tát
là bực Đại sĩ, đều y theo thừa này mà tu tập, nên gọi là Đại
Thừa.
- 5. Vì thừa
này rất rộng lớn, cứu độ chúng sanh đông nhiều nên gọi là Đại
Thừa.
-
LUẬN NÀY LẤY GÌ LÀM ĐẠI THỪA?[^]
- Luận này lấy
tâm chúng sanh làm Đại thừa. Bởi tâm chúng sanh: Thể nó lớn,
Tướng nó to, Dụng nó đại, bao trùm tất cả các pháp thế gian, và
xuất thế gian, nên gọi là Đại Thừa.
- Trọng tâm của
luận này là nói: Thể, Tướng và Dụng của tâm chúng sanh. Vì tâm
này là "Tổng tướng" (Tướng chung) của tất cả thánh phàm, mê ngộ,
nhơn quả ...cho nên trong luận này cũng gọi là "Đại Tổng tướng
pháp môn thể".
- Tâm này có
nghĩa "vận tải": Các Đức Phật đều nương tâm này mà chứng Bồ Đề,
Niết bàn. Bồ Tát nương tâm này mà rộng tu muôn hạnh: trên cầu
quả Phật, dưới hoá độ chúng sanh. Chúng sanh cũng do tâm này mà
trôi lặn trong dòng sanh tử luân hồi. Vì thế nên gọi tâm này là
Đại thừa.
- Do ngộ lý
này, nên cổ nhơn có làm bài kệ:
-
Dịch âm:
-
Tam điểm như tinh tượng
-
Hoành câu tợ nguyệt tà
-
Phi mao tùng thử đắc
-
Tổ Phật giả do tha.
-
Dịch nghĩa
-
Ba chấm như ngôi sao
-
Uốn cong tợ trăng tà
-
Chúng sanh từ đâu có
-
Chư Phật cũng do đây.
- _Khởi tín.
Luận này làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa, nên gọi là
"Đại thừa khởi tín". Đáng lẽ phải nói: "Khởi Đại thừa tín";
nghĩa là khởi lòng tin Đại thừa; song vì chúng sanh sau khi thấu
rõ Đại thừa rồi, mới phát khởi lòng khởi tin, nên gọi "Đại thừa
khởi tín".
-
NỘI DUNG CỦA LUẬN
NÀY[^]
- Ngài Mã Minh
Bồ Tát căn cứ theo kinh Lăng Già, kinh Tư Ích và các kinh Đại
thừa mà tạo ra luận này. Nội dung của luận này là Phát minh lý
Duy tâm hay Duy thức đem về nhứt tâm, vạch rõ nguồn gốc mê ngộ,
chỉ bày đường tắt tu hành, tóm các nghĩa lý sâu rộng của Phật
nói, làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa.
-
NGÀI MÃ MINH BỔ TÁT[^]
-
LÝ LỊCH VÀ TÊN[^]
- Ngài Mã Minh
Bồ Tát, người xứ Ba la nại, phía tây Thiên trúc (Ấn Độ). Ngài là
Tổ thứ 12 ở Thiên trúc, nối ngôi của Tổ thứ 11 là Phú Na Dạ Xa
Tôn giả.
- Vì có 3 nguyên nhơn, nên gọi
Ngài là Mã Minh:
- 1. Khi Ngài
vừa sanh ra, thì các con ngựa trong xứ ấy đều buồn mà kêu to
lên.
- 2. Ngài đờn
rất hay, mỗi khi Ngài đờn thì những con ngựa được nghe tiếng đờn
đều buồn mà kêu lên.
- 3. Khi thuyết
pháp, các con ngựa nghe đến tiếng Ngài, đều rơi nước mắt kêu to
lên và không ăn. Mặt dù người ta thử bỏ đói chúng vài ba ngày,
rồi đến lúc Ngài thuyết pháp mới bỏ cỏ cho ăn, nhưng chúng cũng
không ăn. Bởi thế nên gọi là Mã Minh (ngựa kêu).
-
NGUYÊN NHƠN NGÀI NGỘ ĐẠO[^]
- Khi gặp Tổ
Phú Na Dạ Xa Tôn giả,
- Ngài hỏi: Làm
sao biết Phật?
- Tổ đáp: Không
biết là biết Phật.
- Ngài hỏi:
Không biết làm sao biết là Phật?
- Tổ đáp: Không
biết làm sao biết không phải là Phật.
- Ngài nói:
Nghĩa của Tổ là nghĩa cưa.
- Tổ nói: Nghĩa
của ông là nghĩa cây.
- Tổ hỏi tiếp:
Thế nào, ông nói nghĩa của tôi là nghĩa cưa?
- Ngài đáp: Vì
Tổ nói qua nói lại như cưa vậy.
- Ngài hỏi
tiếp: Thế nào Tổ nói nghĩa của tôi là nghĩa cây.
- Tổ đáp: Vì
cây bị cưa vậy. Thế nghĩa của ông bị tôi phá rồi. Ngài nghe rồi
liền ngộ đạo.
- Trong kinh Ma
ha ma da, Phật có huyền ký (ghi trước) rằng: "Sau khi Như Lai
diệt độ 600 năm, các ngoại đạo tà thuyết thạnh hành, huỷ diệt
Phật pháp. Lúc bấy giờ có vị Bồ Tát ra đời tên là Mã Minh, nói
pháp rất hay, phá trừ tà thuyết, hàng phục ngoại đạo".
- Bởi thế nên
biết Ngài Mã Minh, cũng là một vị Bồ Tát tái lai. Chúng ta nên
học luận này, phải lấy làm hy hữu, gia tâm nghiên cứu, chớ nên
xem thường.
-
NGÀI CHƠN ĐẾ[^]
- Luận này có
hai nhà dịch: Ngài Chơn dế và Ngài Thật xoa Nan đà. Bản dịch này
là của Ngài Chơn đế. Nguyên tiếng Phạn gọi là "Ba La Mạc Đà";
Tàu dịch là "Chơn đế". Ngài ở nước Ưu thiền ni, phía Tây Ấn Độ.
- Ngài qua Tàu
nhằm đời vua Nguyên Đế nhà Lương, niên hiệu Thừa Thánh, năm thứ
ba (Mậu thìn). Ngài ở chùa Kiến Hưng, đất Hoàng Châu, dịch bộ
Luận này.
- ***
-
LỜI CẦU NGUYỆN[^]
- CHÁNH VĂN
- Kính lạy
Phật, Pháp và Tăng, vì muốn cho chúng sanh bỏ chấp tà, trừ các
nghi ngờ, khởi lòng tin Đại thừa, để cho giống Phật chẳng mất,
nên con tạo ra luận Đại thừa Khởi tín này.
- LƯỢC GIẢI
- Các vị Bồ Tát
khi làm việc gì, trước nhứt là để tâm qui kính Tam bảo; cũng như
con hướng về cha, trò hướng về thầy, dân chúng hướng về vị lãnh
tụ của nước; và nguyện cầu Tam bảo gia hộ cho việc làm của mình
hợp với chánh pháp và kết quả viên mãn.
- Đoạn này là
Ngài Mã Minh Bồ Tát trước khi tạo luận, nói bài kệ quy kính Tam
bảo và nguyện cầu Tam bảo gia hộ.
- ***
- CHƯƠNG THỨ
NHỨT
- PHẦN NHƠN
DUYÊN
- CHÁNH VĂN
- Vì tám nhân
duyên sau đây nên tạo ra luận này:
- 1. Vì muốn
cho chúng sanh xa lìa các khổ, đặng vui rốt ráo nên tạo luận
này, không phải vì danh lợi ở thế gian, hay cầu người cung kính.
- 2. Vì muốn
cho chúng sanh hiểu biết chơn chánh, khỏi sự lầm lạc, nên tạo
luận này để giải thích nghĩa căn bản của Như Lai.
- 3. Muốn cho
những chúng sanh căn lành đã thuần thục ( mãn Thập tín), lòng
tin chẳng thối lui và có thể lãnh thọ pháp Đại thừa, nên tạo
luận này.
- 4. Muốn cho
những chúng sanh căn lành mỏng ít (chưa mãn Thập tín) tu tập tín
tâm.
- 5. Vì bảo hộ
đạo tâm của những chúng sanh ác nghiệp sâu dày, nên chỉ bày
phương tiện, để chúng tiêu trừ nghiệp chướng xa lìa các phiền
não si, mạn ...và ra khỏi lưới tà.
- 6. Vì muốn
đối trị tâm niệm sai lầm của phàm phu và Nhị thừa, nên chỉ bày
cho họ tu tập Chỉ Quán.
- 7. Vì những
chúng sanh căn tánh kém cỏi, nên chỉ bày phương tiện chuyên tâm
niệm Phật, sanh về cõi Phật, để cho tín tâm quyết định không
thối chuyển.
- 8. Chỉ bày
lợi ích để khuyên người tu hành.
- Tóm lại, vì
tám nhân duyên trên, nên tạo ra luận này.
- LƯỢC GIẢI
- Luận này chia
ra làm 5 phần, đây là phần thứ nhứt, Ngài Mã Minh Bồ Tát vì tám
nhơn duyên sau đây nên tạo ra luận này:
- Nhơn duyên
thứ nhứt: Chư Phật và Bồ Tát khi làm việc gì, đều do lòng từ bi,
muốn cho chúng sanh khỏi khổ được vui. Tất cả chúng sanh vì mê
bản tâm của mình mà thọ các khổ sanh tử, không được vui Niết
bàn. Trong luận này, Ngài Mã Minh Bồ Tát chỉ rõ bản tâm, để cho
chúng sanh tự tin mình có bản tâm thanh tịnh (pháp Đại thừa) là
cái khả năng để thành Phật. Khi chúng sanh đã ngộ được bản tâm
của mình rồi, thì sẽ hết khổ sanh tử, được vui Niết bàn. Vì thế
nên tạo ra luận này.
- Nhơn duyên
thứ hai: Các đức Như Lai đều y nơi "nhứt tâm" tu hành mà được
thành đạo chứng quả. Luận này nói về "nhứt tâm" là nghĩa căn bản
của Như Lai, để cho chúng sanh hiểu biết đường lối tu hành một
cách chơn chánh, khỏi bị lạc vào tà kiến (chấp tà).
- Nhơn duyên
thứ ba: Luận chủ muốn cho hàng Thập tín Bồ Tát đối với pháp Đại
thừa, lòng tin chắc chắn, không bị thối lui, để tiến đến bậc
Thập trụ.
- Nhơn duyên
thứ tư: Vì những vị Bồ Tát chưa viên mãn Thập tín, muốn cho họ
tu tập tín tâm được viên mãn.
- Nhơn duyên
thứ năm: Vì những chúng sanh nghiệp chướng nặng nề, bị lưới tà
làm chướng ngại, nên tạo ra luận này để chỉ bày phương tiện tu
hành, như tụng kinh, sám hối ...hầu diệt trừ các nghiệp chướng.
- Nhơn duyên
thứ sáu: Vì đối trị tâm lầm lỗi của phàm phu và Nhị thừa, nên
Luận chủ tạo luận này, dạy tu "Chỉ" để trừ bịnh "Vọng tưởng tán
loạn" của phàm phu; và dạy tu "Quán" để đối trị bịnh "Trầm không
thú tịch" (tham luyến cảnh thiên không Niết bàn) của Nhị thừa.
- (Quán nhơn
duyên sanh, thấy các pháp chẳng không: Thánh, Phàm đủ cả. Bởi có
phàm phu nên phải tu đức đại bi để cứu đời; vì có Thánh, nên
phải phát trí huệ, để cầu quả Phật).
- Nhơn duyên
thứ bảy: Vì những người lo sợ đời này tu hành nếu không chứng
quả, thì trở lại đời sau bị nghịch duyên làm thối chuyển đạo
tâm, hoặc không nhớ lại kiếp trước để tu hành, nên tạo luận này
dạy phương tiện niệm Phật, để họ cầu sanh về cõi Phật, thường
được nghe Phật thuyết pháp và Bồ Tát khuyên tu, làm cho hành giả
tín tâm chẳng thối chuyển.
- Nhơn duyên
thứ tám: Vì những chúng sanh giải đãi, nên Luận chủ nói sự lợi
ích tu hành, để khuyên người tiến tu.
- CHÁNH VĂN
- Hỏi: _ Pháp
Đại thừa, trong các kinh đã nói nhiều, cần gì phải lập trở lại?
- Đáp: _ Khi
Phật còn trụ thế, vì ba nghiệp của Ngài đều thù thắng, nên một
tiếng của Phật nói ra (nhứt âm diễn xướng) tuỳ theo căn cơ của
mỗi loài đều được hiểu cả, không cần phải tạo luận. Song sau khi
Phật diệt độ, các chúng sanh trình độ không đồng đều, nhơn duyên
lãnh thọ giáo pháp cũng như sự lãnh hội của mỗi người có khác
nhau: có chúng sanh chỉ tự lực học hỏi rất nhiều kinh điển mới
hiểu ngộ; có chúng sanh cũng dùng tự lực học ít mà hiểu ngộ
nhiều; có chúng sanh không thể tự lực mà phải nhờ xem các bộ đại
luận, mới hiểu ngộ; có chúng sanh vì thấy các bộ đại luận rất
phiền phức, nên muốn tóm lại văn ít mà thâu nhiều nghĩa. Vì thế
nên Luận chủ tạo ra luận này, để tóm tắt giáo pháp quảng đại
thậm thâm và nghĩa lý vô biên của Đức Như Lai.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này,
Luận chủ lập lời vấn đáp, để giải đáp nghi vấn của độc giả.
- Đại ý lời
hỏi: Pháp Đại thừa, trong các kinh luận đã nói nhiều, nay cần gì
phải tạo luận nói lập trở lại?
- Đại ý lời đáp: Khi Phật còn tại
thế do phước huệ song toàn, ba nghiệp (thân, khẩu, ý) thù thắng;
và trình độ của chúng sanh thụ giáo cũng được ưu hạng, nên một
lời của Phật nói ra (viên âm), tất cả các loài tuỳ theo trình độ
của mình, đều hiểu được cả. Bởi thế nên không cần phải tạo luận.
Song sau khi Phật nhập diệt, người thay thế Phật truyền giáo
không được như Ngài, phần thì chúng sanh trình độ không đồng,
nhơn duyên ngộ đạo của mỗi người có khác: Có người nhờ xem kinh
mà ngộ đạo, có người nhờ xem luận mà ngộ đạo, có người ưa nghiên
cứu những bộ đại luận, có người chỉ muốn học những quyển luận,
văn ít mà bao hàm rất nhiều ý nghĩa. Vì muốn tóm tắt các nghĩa
lý sâu rộng vô biên của Phật, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát tạo ra
luận này.
- CHƯƠNG THỨ
HAI
- PHẦN ĐỊNH
DANH NGHĨA
- CHÁNH VĂN
- Chương này có
hai phần:
- A. PHÁP ĐẠI
THỪA (Thể Đại thừa) tức là tâm chúng sanh. Tâm này tóm thâu hết
thảy các pháp thế gian, xuất thế gian và nói lên được nghĩa Đại
thừa.
- Tại sao vậy?
_ Vì tâm này có hai tướng:
- 1. Tướng Chơn
như tức là cái Thể của Đại thừa.
- 2. Tướng nhơn
duyên sanh diệt tức là Thể, Tướng, Dụng của Đại thừa.
- B. NGHĨA ĐẠI
THỪA: "Đại" là lớn, lớn cà 3 phương diện:
- 1. Thể lớn:
Chơn như bình đẳng, bất tăng bất giảm. Bản thể của tất cả pháp.
- 2. Tướng lớn:
Như Lai tạng chứa đầy vô lượng tánh công đức.
- 3. Dụng lớn:
Vì nó sanh tất cả nhơn quả lành của thế gian và xuất thế gian.
- "Thừa" là
chiếc xe, tất cả chư Phật đều đi xe này (pháp Đại thừa); tất cả
các vị Bồ Tát cũng đều đi xe này mà đến chỗ Phật.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này nói
về phần lập nghĩa, tức là xác định cái danh nghĩa Đại thừa. Phần
lập nghĩa này chia làm hai: Pháp Đại thừa và Ngiã Đại thừa.
- I. Pháp đại
thừa: là tâm chúng sanh.
- Tâm này có
hai tướng:
- 1. Tướng Chơn
như tức là chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ
như "tánh trong sạch" của nước.
- 2. Tướng nhơ
duyên sanh diệt tức là chỉ chung cho Thể, Tướng và Dụng của chơn
vọng hoà hợp; dụ như tánh "trong sạch" và "tướng nhơ đục" lẫn
lộn của nước.
- II. Nghĩa đại
thừa: Đại thừa nghĩa là gì?
- "Đại" là lớn;
"Thừa" (thặng) là chiếc xe: chiếc xe lớn.
- Tâm chúng
sanh, Thể, Tướng và Dụng đền lớn. Thể thì bao trùm tất cả pháp,
Tướng thì chứa đựng hằng sa công đức, còn Dụng thì xuất sanh tất
cả pháp thế gian và xuất thế gian.
- Khế kinh
chép: "Vô bất tùng thử pháp giới lưu, mạc bất hoàn qui thử pháp
giới, (không có một pháp nào chẳng từ tâm này má lưu xuất, và
cũng không có một pháp nào chẳng trở về tâm này).
- Tâm này bao
trùm tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian. Các Đức Phật đều
nương tâm này mà được thành đạo. Các vị Bôtát cũng nương tam này
để đến chỗ Phật. Chúng sanh cũng do tâm này mà luân hồi trong 6
đường. Tâm này cũng như chiếc xe lớn chở tất cả người và vật.
Bởi thế nên gọi tâm này là pháp Đại thừa.
- Tại sao không
nói: "Tâm phật" là pháp Đại thừa mà chỉ nói "Tâm chúng sanh", là
pháp đại thừa?_ Vì có hai lý:
- 1. Nếu nói
"Tâm Phật" thì chỉ tóm thâu được pháp thanh tịnh vô lậu mà thôi;
còn nói "Tâm chúng sanh", lại tóm thâu được cả pháp hữu lậu, vô
lậu, thế gian và xuất thế gian.
- 2. Nói Tâm
chúng sanh là đứng về phần "nhơn" mà nói; vì chưa phải nhiễm hay
tịnh, nên mới có thể tuỳ nhiễm duyên khởi ra nhi6ẽm pháp, tuỳ
tịnh duyên khởi ra tịnh pháp.
- GIẢI DANH TỪ
- Tướng chơn
như: Chữ "Chơn" là chơn thật không hư dối; chữ "Như" là bình
đẳng như như, không sanh diệt, nghĩa là tướng chơn thật bình
đẳng như như không sanh diệt; tức là "Thật tướng" hay "Chơn tâm"
hay "Viên giác" đây ;à cái "Thể của Đại thừa". Đoạn này gọi
"Tướng chơn như" tức là ở đoạn văn sau gọi " Môn chơn như".
- Tướng nhơn duyên sanh diệt: Vì
nhơn duyên sanh diệt, nên đủ cà các tướng: nhiễm, tịnh, thánh,
phàm v.v...Đoạn này gọi "Tướng nhơn duyên sanh diệt" tức là ở
đoạn văn sau gọi "Môn sanh diệt".
- Như Lai tạng,
có 3 nghĩa:
- 1. Tánh Như
Lai (tánh Phật) bị các phiền não phú tàng (che đậy), tức là chỉ
cho chơn như còn bị triền phược; như vàng còn ở trong khoáng.
- 2. Tánh Như
Lai bao trùm tất cả pháp (nghĩa năng tàng)
- 3. Tánh Như
Lai là chỗ xuất sanh ra vô lương công đức (nghĩa sở tàng).
- Tánh công
đức: Công đức saün có trong Như Lai tàng. Công đức này không
phải do tu tập mà được; song phải nhờ sự tu tập làm trợ duyên nó
mới hiện. Chúng sanh vì thiếu sự tu tập làm trợ duyên, nên tánh
công đức này không phát hiện.
- Nhơn quả
lành_ Tại sao luận này chỉ nói "nhơn quả lành" mà không nói đến
"nhơn quả ác"?
- _ Vì có ba
nghĩa:
- 1. Nhơn quả
ác là thứ nhiễm ô hư vọng; vì tâm này chỉ bao trùm vô lượng hằng
sa công đức, nên không hiệp với thứ nhiễm ô hư vọng. Dụ như nước
có cả chất trong và đục; song "chất đục" không hợp với tánh
nước, mà "chất trong" mới hiệp với nước; vì khi lóng bỏ bùn rối
thì chỉ còn chất nứơc trong. Cũng thế, pháp nhiễm ô không hiệp
với tâm này, mà duy có nhơn quả lành mới hiệp với tâm này.
- 2.Ngài Mã
Minh chỉ nói về "Nhơn quả lành", là vì để chúng sanh thấy tâm
mình sanh ra các nhơn quả lành, nên sanh tâm hâm mộ sự tu hành,
mong cầu quả Phật.
- 3. Ngài Mã
Minh Bồ Tát đã lên Thánh vị, nên trong A lại da thức của Ngài
chỉ toàn nhơn quả lành. Vì Ngài chỉ thấy thuần thiện, nên Ngài
chỉ nói "nhơn quả lành" mà không nói đến "nhơn quả ác".
- Nhơn quả lành
thế gian: Nhơn quả thuộc về hữu lậu thiện, còn quanh quẩn trong
ba cõi thế gian là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
- Nhơn quả lành xuất thế gian:
Nhơn quả thuộc về vô lậu thanh tịnh, ra ngoài tam giới.
--o0o--
|
|