-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- KHOÁ X -
XI
- LUẬN ĐẠI
THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ 2
-
-
A. NÓI RÕ NGHĨA
CHÁNH
- CHÁNH VĂN
- Cái tâm này
(chúng sanh tâm) có hai phần: I. Tâm chơn như, II. Tâm sanh
diệt. Hai tâm này không rời nhau và đều bao trùm tất cả pháp.
- LƯỢC GIẢI
- Chương này
giải thích tâm chúng sanh là pháp Đại thừa. Pháp Đại thừa có hia
phần: Chơn như và Sanh diệt. Chơn như là "thể" rộng lớn của tâm;
Sanh diệt là "Tướng" và "Dụng" rộng lớn của tâm. Phải phân chia
làm hai phương diện như vậy, mới rõ được Thể, Tướng và Dụng của
tâm.
- Nếu đứng về
"Thể chơn như", thì suy nghĩ không trúng, luận bàn chẳng nhầm,
lìa các văn tự, ly tất cả tướng; như thế làm sao có các pháp sai
biệt được. Bởi thế nên phải nói đến Tướng và Dụng là "môn sanh
diệt" mới rõ được hành tướng sai biệt của "Tâm chúng sinh".
- Chơn như là
"Thể", còn Sanh diệt là "Tướng" và "Dụng". Tướng và Dụng không
rời Thể, Thể không rời Tướng và Dụng; cũng như nước không rời
sóng, sóng không rời nước. Bởi Thể, Tướng và Dụng không rời
nhau, nên mỗi một phần đều bao hàm được tất cả pháp.
- Vì Thể và Dụng không rời nhau, nên
đứng về phần Chơn như mà luận, thì tuy "thanh tịnh bất biến", mà
vẫn tuỳ duyên sanh diệt; còn đứng về phần Sanh diệt mà xem, thì
tuy "tuỳ duyên sai biệt" mà vẫn nhưnhư bất biến.
- ***
-
I. Tâm chơn như
- CHÁNH VĂN
- Tâm Chơn như
là cái tâm tánh bất sanh bất diệt. Thể và Tướng nó to lớn bao
trùm tất cả các pháp (nhứt pháp giới đại tổng tướng pháp môn
thể).
- Sở dĩ các
pháp sai khác là do vọng niệm; nếu rời vọng niệm thì không còn
các cảnh tướng sai khác. Bởi thế nên tất cả pháp từ hồi nào đến
giờ, không thể dùng danh tự để kêu gọi, không thể dùng lời nói
luận bàn, không thể dùng tâm suy nghĩ được, không có biến đổi và
cũng không phá hoại vì nó rốt ráo bình đẳng, chỉ có một "Tâm
Chơn như" mà thôi.
- LƯỢC GIẢI
- Tâm Chơn như
này, tánh không sanh diệt và bao trùm tất cả nhơn quả, thánh
phàm, y báo chánh báo ...Bởi thế nên nguyên văn chữ Hán gọi là
"nhứt pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể".
- Vì vọng niệm
nên thấy có tất cả các pháp sai khác; cũng như vì mắt nhặm nên
thấy có hoa đốm giữa hư không. Nếu như lìa vọng nirệm rồi, thì
không có tất cả cảnh giới sai khác sai khác, mà chỉ còn một "Tâm
Chơn như"; cũng như mắt hết nhặm thì chỉ còn hư không một màu
trong tịnh.
- Bởi tất cả
pháp là "Tâm Chơn như", nên không thể phá hoại, không thể dùng
lời nói luận bàn, không thể dùng danh tự để kêu gọi và cũng
không thể dùng tâm suy nghĩ được. Từ hồi nào đến giờ, nó rốt ráo
bình đẳng, không có sai khác. Bởi thế nên trong Khế kinh chép:
- "Thị pháp trụ
pháp vị
- Thế gian
tướng thường trụ"
- Nghỉa là:
Pháp nào vẫn an trụ địa vị của pháp nầy; tướng thế gian là tướng
thường trụ.
- GIẢI DANH TỪ
- Tâm Chơn như:
Vì tâm này không hư ngụy, nên gọi là "Chơn", không bị thời gian
thay đổi, không gian chuyển dời, từ hồi nào đến giớ nó vẫn như
thế, nên gọi là "Như". Tâm Chơn như cũng gọi là "Chơn tâm" hay
"Viên giác".
- Nhứt pháp
giới đại tổng tướng pháp môn thể: Câu này nghĩa lý rất sâu rộng,
xin giải sơ lược: Tâm Chơn như là Thể chung của "Nhứt pháp
giới"._Chữ "Nhứt" là chỉ cho sự bình đẳng bất nhị, thuộc về lời
nói ngăn chấp, chớ không phải lời nói tiêu biểu. _Chữ "Giới" là
chỉ cho "tâm Chơn như" này, nó là "nhơn" là "giống" là "bản
năng" sanh ra tất cả các pháp, nên gọi là "nhứt pháp giới". Nhứt
pháp giới là toàn tánh của vũ trụ. Ở nơi nhứt pháp giới này, có
thể phân ra tổng tướng (thể) và biệt tướng (muôn pháp sai khác).
- Tâm Chơn như là "Tổng tướng"
(tướng chung) của tất cả pháp; vì thể tánh nó bình đẳng song
cũng tóm thâu tất cả tướng, nên gọi là "Đại".
- Chữ "Pháp"
nghĩa là:"giữ gìn tự tánh và làm cho người hiểu biết". Chữ "môn"
là nghĩa ra vào thông suốt. Tất cả chúng sanh có thể do pháp môn
này tu hành, đến được mục đích cứu cánh; nếu rời "Đại tổng tướng
pháp môn" này, thì không thể đạt đến quả vị Phật. Nói tóm lại:
- Nhứt pháp
giới là "Thể" của tâm Chơn như.
- Đại tổng
tướng là "Tướng" của tâm Chơn như.
- Pháp môn là
"Dụng" của tâm Chơn như.
- CHÁNH VĂN
- Tất cả những
lời nói, đều do vọng niệm phân biệt mà sanh, chỉ do giả danh chớ
không thật thể . Cho đến danh từ Chơn như cũng không thực; chẳng
qua là một danh từ túng cùng của lời nói, dùng để trừ bỏ các
danh từ khác (vọng) mà thôi (nhơn ngôn khiển ngôn). Song cái
"Thể" của Chơn như không thể trừ bỏ và cũng không thể dựng lập.
Phải biết: Tất cả các pháp cũng không thể trừ bỏ vì đều là
"Chơn" vậy, và cũng không thể dựng lập, vì đều là "Như" vậy. Bởi
tất cả các pháp đều là Chơn như, nên không thể nói bàn và suy
nghĩ được.
- LƯỢC GIẢI
- Tất cả những
lời nói phô, đều do vọng niệm phân biệt; danh từ chỉ là hư giả,
chớ không có thật thể. Cho đến cái danh từ Chơn như cũng là hư
giả mà thôi. Danh từ Chơn như hay Phật là danh từ túng cùng
trong các danh từ tạm đặt ra như thế để trừ các danh từ vọng
nhiễm của thế gian. Cũng như ông thầy giáo, tạm dùng tiến gõ
bảng để trừ tiếng ồn của học sinh (dĩ ngôn diệt ngôn). Đến khi
tiếng ồn của học sinh hết, thì tiếng gõ bảng của thầy giáo cũng
không còn. Cũng như khi vọng mất, chúng sanh hết, thì Chơn như
hay Phật cũng chẳng còn.
- Song, chỉ bỏ
cái danh từ (Chơn như) hư giả, chớ thể tánh chơn như thì không
thể bỏ hay lấy. Cho đến các pháp cũng không thể bỏ và lấy được.
Vì các pháp đều là "Chơn", nên không thể bỏ, và "Như" nên không
thể lấy. Bởi các pháp đều chơn như, nên không thể dùng lời nói
luận bàn hay tâm suy nghĩ đền được.
- Tóm lại, vì
vọng niệm phân biệt, nên thấy có các pháp sai biệt. Nếu vọng
niệm phân biệt hết, thì tất cả các pháp không còn những tướng
sai biệt, mà đều là Chơn như. Bởi các pháp đều là chơn như, nên
nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhầm và cũng không thể lấy
hay bỏ được.
- CHÁNH VĂN
- Hỏi: _Nếu
"Chơn như", mà không thể dùng lời nói luận bàn hay tâm suy nghĩ,
thì chúng sanh làm sao tuỳ thuận và ngộ nhận được?
- Đáp:_ Nếu
người nào biết tất cả pháp, tuy có nói bàn, mà không có "năng
nói" và "sở nói"; tuy có suy nghĩ, mà không có "năng suy nghĩ"
và sở "suy nghĩ", thì người ấy được tuỳ thuận Chơn như.
- Còn người nào
lìa các niệm (vọng niệm) thì người đó được nhập Chơn như.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này Luận
chủ lập lời vấn đáp, để giải thích sự nghi ngờ của độc giả.
- Hỏi: _ Nếu
Chơn như mà không thể dùng lời nói luận bàn và tâm suy nghĩ được
thì, chúng sanh làm sao tuỳ thuận và ngộ nhập Chơn như?
- Đáp:_ Nếu
người nào biết tất cả pháp, tuy có nói năng suy nghĩ, mà không
chấp nơi nói năng suy nghĩ, thì người đó được tuỳ thuận Chơn
như. Tiến lên một từng nữa, nếu người nào lìa các vọng niệm, thì
người ấy nhập được Chơn như. Nghĩa là "Vọng" hết, thì "Chơn"
hiện. Đoạn này đồng một ý nghĩa với bốn chữ "bất tuỳ phân biệt"
trong Kinh Lăng Nghiêm.
- CHÁNH VĂN
- Lại nữa, nếu
căn cứ trên danh từ (ngôn thuyết) mà phân biệt, thì chữ Nhơn như
có 2 nghĩa:
-
1.THẬT KHÔNG (như thật
không), tức là chỉ nói đến cái thể tánh rốt ráo chơn thật của
Chơn như. Nghĩa là: từ hồi nào đến giờ, Chơn như không có các
tâm niệm hư vọng, không có tất cả các tướng sai biệt, nói chung
là thật không có các pháp tạp nhiễm.
- Phải biết: Chơn như phi tướng
"có ", phi tướng "không"; phi tướng "chẳng phải có", phi tướng
"chẳng phải không"; phi tướng "cũng có và cũng không"; phi tướng
"một", phi tướng "khác"; phi tướng "chẳng phải một, chẳng phải
khác"; phi tướng "cũng một cũng khác".
- Nói tóm lại,
vì chơn như không có tất cả các vọng niệm phân biệt của chúng
sanh, nên gọi rằng "thật không". Nếu khi vọng tâm phân biệt hết
rồi thì cũng không còn cái gì gọi là"không" nữa.
- LƯỢC GIẢI
- Đứng về
phương diện lý tánh tuyệt đối, thì Chơn như không thể kêu gọi là
gì được (ly danh tự tướng), không thể dùng lời nói luận bàn (ly
ngôn thuyết tướng) và cũng không thể dùng tâm suy nghĩ được (ly
tâm duyên tướng). Song, nếu căn cứ trên văn tự lời nói mà luận,
thì Chơn như có hai nghĩa: 1. Thật không và 2. Thật có.
- Đoạn này nói
về nghĩa"thật không" (ly nhứt thế tướng), tức là chỉ cho cái
"thể Chơn như", từ hồi nào đến giờ, nó không có các vọng niệm,
không có các nhiễm pháp và không có các tướng sai khác. Nó phi
tất cả các tướng: Có, không, chẳng phải có, chẳng phải không,
cho đến phi tướng đồng, tướng dị và tướng không đồng không dị...
- Nói tóm lại
là nó không có tất cả vọng niệm phân biệt của chúng sanh, và khi
rời các vọng niệm rồi, thì cái gọi là "không" đó cũng không còn.
- CHÁNH VĂN
-
2. THẬT CÓ (như thật bất
không)
- tự thể Chơn
như, thật có đủ công đức vô lậu (tức nhứt thế pháp). Bởi Chơn
như không có các vọng, nên tức là Chơn tâm. Cái Chơn tâm này
thường còn không biến đổi và đầy đủ các pháp thanh tịnh; nên nói
"thật có"(bất không).
- Nhưng cái
cảnh giới "thật có" này, cũng không có hình tướng gì để nắm lấy
được, vì nó lìa cá vọng niệm, nên chỉ có người tu chứng mới biết
được mà thôi.
- LƯỢC GIẢI
- Trong đoạn
này nói: Chơn như có hai nghĩa, tức là ý nói Chơn như có hai
thứ. _ Đoạn trên nói về phương diện "thể tánh" của Chơn như, thì
không có các vọng niệm, không có các pháp nhiễm ô, tức là "ly
nhứt thế tướng", nên nói "thật không".
- Đoạn này nói
về phương diện "tướng dụng" của Chơn như, thì đầy đủ vô lượng
hằng sa công đức, thế là "tức nhứt thế pháp", nên nói "thật có".
Nhưng cảnh giới "thật có" này, không có hình tướng gì để chỉ bày
ra được, vì đã lìa các vọng niệm phân biệt, nên chỉ có người
chứng ngộ mới biết được thôi.
--o0o--
|
|