|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ
Thông
- KHOÁ X - XI
- LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ 4
- CHƯƠNG THỨ BA
- PHẦN GIẢI
THÍCH
NÓI VỀ NGHĨA "GIÁC"
(tiếp theo và hết)
- CHÁNH VĂN
- Bản giác có 2
tướng
- Lại nữa, do
dứt các nhiễm duyên phân biệt, nên bản giác thành ra hai tướng:
1. Tướng trí tịnh. 2. Tướng nghiệp dụng bất tư nghị; hai tướng
này không rời bản giác.
- 1. Tướng trí
tịnh: (Thể): Hành giả nhờ sức huân tập và như thật tu hành, đến
khi công phu tu hành đã viên mãn, phá trừ được thức A lại da
(chơn vọng hoà hiệp) và diệt các vọng tâm tương tục, thì pháp
thân thanh tịnh hiện ra, đặng cái trí thuần tịnh, nên gọi là
"Tướng trí tịnh".
- LƯỢC GIẢI
- Nhờ dứt trừ
các pháp nhiễm ô phân biệt, nên tánh giác hiện ra có 2 tướng: 1.
Bản thể sáng suốt trong sạch, gọi là "Tướng trí tịnh".2. Diệu
dụng không thể nghĩ bàn, gọi là "Tướng nghiệp dụng bất tư nghị".
Vì thể và dụng không rời tánh giác, nên gọi "hai tướng không rời
bản giác".
- Bực Tam hiền,
bên trong nhờ sức chơn như huân ra, bên ngoài lại nhờ chánh pháp
huân vào, nên làm cho hành giả tự phát khởi tín tâm tu hành.
- Đến hàng Thập
địa Bồ Tát, do nhờ sức tu tập, nên ngộ nhập được tâm chơn như,
rồi y như tâm chơn như này mà tu, nên gọi là "Như thật tu hành".
- Đến vị Đẳng
giác Bồ Tát, thì sự tu hành, công đã thành quả lại mãn; lúc bấy
giờ Bồ Tát phá trừ thức hoà hiệp và diệt tâm tương tục, nên pháp
thân thanh tịnh hiện ra, đặng trí thuần tịnh, gọi là "Tướng trí
tịnh".
- GIẢI DANH TỪ
- "Thức hoà
hiệp" _ Đoạn trước nói "Sanh diệt và bất sanh diệt hoà hiệp",
gọi là A lại da", nay nói "phá thức hoà hiệp" tức là phá thức A
lại da. Song chỉ phá cái "tướng hư vọng tạp nhiễm" của thứcA lại
da; không phải phá cái "thể tánh" của thức này.
- "Tâm tương
tục"_ Tâm tương tục tức là 7 chuyển thức (từ nhãn thức đé6n Mạt
ma thức). Diệt tâm tương tục, tức là diệt "tướng" hư vọng tương
tục của 7 thức trước, không phải diệt cái "thể" của 7 chuyển
thức.
- CHÁNH VĂN
- Hỏi: _ Nghĩa
này thế nào?
- Đáp: _ Tất cả
tâm thức đều là vô minh; song cái tướng vô minh (vọng) không rời
tánh giác (chơn). Bởi thế nên không thể phá hoại (vì không rời
tánh giác), và cũng không phải không phá hoại được (vì là tướng
vô minh).
- Thí như trước
biển cả (dụ tánh giác) vì gió (vô minh) nên nổi sóng (tâm thức);
sóng và gió đều động và không rời nhau; song tánh nước chẳng
động. Đến khi sóng đứng thì gió lặng; song tánh ướt của nước
không diệt.
- Cũng thế, biển tâm thanh tịnh
của chúng sanh, bị gió vô minh thổi động, nên sóng tâm thức nổi
lên. Sóng tâm thức, gió vô minh đều động, lại không hình tướng
và chẳng rời nhau; song biển chơn tâm chẳng hề chao động. Nếu
gió vô minh dừng, thì sóng tâm thức tương tục kia cũng lặng;
song nước trí thuần tịnh (chơn) không bao giờ diệt.
- LƯỢC GIẢI
- Vì vô minh
sanh ra các tâm thức hư vọng, nên các tâm thức không rời vô
minh. Song vô minh lại không thật thể, chỉ nương tánh giác mà
có, nên nó không rời tánh giác. Đến khi vô minh hết, thức tâm
diệt, thì tánh giác hiện bày. Cũng như, vì gió thổi nên tánh
sóng nổi lên; sóng và gió đều động và không rời nhau. Đến khi
gió đứng sóng lặng thì tánh nước thanh tịnh bằng phẳng hiện ra.
- CHÁNH VĂN
- Tướng nghiệp
dụng bất tư nghị (Dụng). Do tướng trí tịnh đủ vô lượng công đức
và thường không đoạn tuyệt, nên có thể tuỳ thuận theo căn cơ của
chúng sanh, tự nhiên ứng hiện ra tất cả các cảnh giới mầu nhiệm
thù thắng, để làm lợi ích cho chúng sanh.
- LƯỢC GIẢI
- Từ chơn như
thể (tướng trí tịnh) khởi ra các diệu dụng (chơn như dụng) không
thể nghĩ bàn được (tướng nghiệp dụng bất tư nghị). Nhờ diệu dụng
này mới có thể hiện ra được các cảnh giới thù thắng, tuỳ theo
trình độ của mỗi loài, làm vô lượng công đức, để lợi ích cho tất
cả chúng sanh không thể nghĩ bàn.
- Ngài Đức
Thanh giải: Bản giác khi còn ở tại vỏ mê, thì chúng sanh nương
nơi đó mà tạo ra vô lượng vô biên các nghiệp, nên kinh chép:
"Nghiệp lực không thể nghĩ bàn". Nay Bản giác đã ra khỏi vỏ mê,
được thanh tịnh, thì có đủ tất cả thần thông diệu dụng, cũng
không thể nghĩ bàn được. Và Bản giác này nghĩ ra các cảnh giới
thắng diệu, làm vô lượng công đức, tuỳ theo căn cơ của mỗi loài,
ứng hiện đủ cách, để làm lợi ích cho các chúng sanh; như Ngài
Quán Thế Âm hiện ra 32 ứng thân, 14 món vô úy ...nên gọi là
"Nghiệp dụng bất khả tư nghị" (Diệu dụng không thể nghĩ bàn).
- GIẢI DANH TỪ
- "Tự nhiên ứng
hiện" _ Nghĩa là ứng hiện một cách tự nhiên, không dụng công và
cố ý. Thí như mặt trăng chiếu xuống ao, hễ nước trong thì trăng
tự nhiên ứng hiện; trăng không có dụng công và cố tâm.
- CHÁNH VĂN
- Bản giác có 4
nghĩa
- Lại nữa, Thể
và Tướng của tánh giác (chơn tâm) giống như cái gương sáng sạch,
và rộng lớn như hư không, bao trùm tất cả. Tánh giác này có 4
nghĩa:
- 1. Như thật
không:Như cái gương lớn sáng sạch, không có hình ảnh của cảnh
vật (thật không). Tánh giác (chơn tâm) xa lìa các tướng của vọng
tâm và vọng cảnh (ly nhất thế tướng); không có một pháp nào hiện
ra cả; cũng như cái gương trống không. Đây là nói về nghĩa
"Tịch" (vắng lặng) của tánh giác, không phải nói về nghĩa
"chiếu".
- LƯỢC GIẢI
- Vì tánh giác
viên mãn thanh tịnh, nên dụ như cái gương sáng sạch; vì tánh
giác rộng rãi bao la, nên dụ như hư không rộng lớn. Nếu phân
tách từng khía cạnh, thì tánh giác có 4 nghĩa; đoạn này nói về
nghĩa thứ nhứt:
- 1. Thật
không: Đây là nói về nghĩa "tịch tịnh" của Chơn tâm. Vì Bản thể
chơn tâm (tánh giác) vốn thanh tịnh, rộng rãi bao la và ly tất
cả các tướng, không thể dùng tâm thức suy nghĩ hay lời nói luận
bàn được, (cũng như cái gương sáng sạch, không có lưu một hình
ảnh gì ở trong gương cả) tức là pháp thân thanh tịnh saün có của
chúng sanh, không phải do tu mới được.
- CHÁNH VĂN
- 2. Nhơn huân
tập: Như cái gương sáng lớn, hiện đủ các cảnh (thật có). Trong
tánh giác (chơn tâm) đủ các pháp (tức nhứt thế pháp); nghĩa là
tất cả cảnh giới thánh, phàm đều hiện trong chơn tâm thường trú
nầy. Nó không xuất không nhập, không mất không hoại, vì tánh của
các pháp là chơn tâm vậy.
- Lại nữa, vì
tánh giác không vọng động, nên các pháp nhiễm ô, không thể làm
nhiễm ô được; trái lại nó đủ tất cả các pháp vô lậu và làm nhơn
huân tập cho chúng sanh vậy.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn trước
nói về "thể" của chơn tâm, ly tất cả các tướng, cũng như cái
gương sáng, không có một vật gì ở trong gương (như thật không).
Đoạn này nói về Tướng và Dụng của chơn tâm đủ tất cả pháp. Cũng
như cái gương sáng, các cảnh vật đều hiện vào (như thật bất
không).
- Tướng và Dụng
của chơn tâm có 2 nghĩa:
- 1. Đủ tất cả
pháp: Tất cả chúng sanh đều saün có các pháp vô lậu thanh tịnh,
cũng gọi là "bản hữu Phật tánh" hay "chánh nhơn Phật tánh".
- 2. Nhơn huân
tập: Tất cả chúng sanh đều saün có tánh Phật; tánh Phật đủ vô
lượng hằng sa công đức và thanh tịnh không động, nên các pháp
nhiễm ô không làm nhiễm ô được. Tánh Phật này làm chánh nhơn
(chánh nhơn Phật tánh) huận tập ở bên trong, khiến cho chúng
sanh giác ngộ, nhàm chán khổ sanh tử, phát tâm cầu đạo giải
thoát.
- CHÁNH VĂN
- 3. Pháp xuất
ly: Như cái gương đã sáng sạch, không còn bụi nhơ. Tánh giác
(tánh Phật) đã sáng suốt thuần tịnh, ra khỏi hai chướng: Phiền
não chướng, Sở tri chướng và xa lìa thức A lại da (Chơn, Vọng
hoà hiệp).
- LƯỢC GIẢI
- 3. Pháp xuất
ly: tức là "Liễu nhơn Phật tánh", cũng gọi là "Chơn như xuất
triền". Hành giả nhờ công phu tu tập, đoạn trừ phiền não chướng,
sở tri chướng và phá thức hoà hiệp (A lại da), nên tánh Phật
(Chơn như) không còn bị triền phược và được sáng suốt thuần
tịnh.
- CHÁNH VĂN
- 4. Duyên huân
tập: Như cái gương sáng, phản chiếu trở lại. Tánh giác (Phật
tánh) đã ra khỏi vỏ triềb phược rồi, trở lại chiếu soi khắp giáp
tất cả, và tuỳ theo tâm niệm của mỗi loài mà hiện thân hoá độ,
làm trợ duyên huân tập trở lại vào tâm chúng sanh, khiến cho
chúng sanh tu tập căn lành.
- LƯỢC GIẢI
- 4. Duyên nhơn
Phật tánh: Do Chơn như đã xuất triền, nên có diệu dụng không thể
nghĩ bàn: Chiếu khắp tất cả và tuỳ theo tâm niệm của chúng sanh
mà thị hiện các thân hình để hoá độ, làm trợ duyên, huân tập trở
lại vào tâm chúng sanh, khiến cho chúng sanh phát Bồ Đề tâm, tu
theo chánh pháp.
- Công dụng cao
cả và rộng lớn của Chơn như (tánh giác), chỉ có thể thí dụ như
hư không. Thể tánh sáng suốt thuần tịnh của Chơn như (tánh
giác), chỉ có thể thí dụ như gương: dầu có bụi hay không, song
chất pha lê (gương) vẫn sáng suốt, thỉ chung như một.
- (đoạn nàyđã
nói nghĩa "Giác" rồi, tiếp theo sau đây sẽ nói đến nghĩa "Bất
giác" của thức A lại da)
--o0o--
|
|