|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ X -
XI
- LUẬN ĐẠI
THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ
5
- CHƯƠNG THỨ BA
-
PHẦN GIẢI
THÍCH
-
NÓI VỀ NGHĨA
"BẤT GIÁC"
- --- o0o ---
- CHÁNH VĂN
- Do không
thật biết pháp "Chơn như" nên tâm bất giác (mê) nổi lên, liền
khởi vọng niệm (sanh tướng vô minh). Song vọng niệm vì là
không có thật thể, nên chẳng rời Bản giác.
- Thí như
người lầm phương hướng; vì có phương hướng nên mới lầm, nếu
không phương hướng thì không có lầm.
- Chúng sanh
cũng thế, do có "Giác" nên mới co "Mê"; nếu không có "Giác"
thì cũng không có "Mê" (Bất giác)
- Song chúng
sanh cũng nhờ có "Tâm vọng tưởng bất giác" này, nên mới biết
phân biệt danh từ và nghĩa lý của các pháp. Và cũng nhờ thế mà
chư Phật mới có thể vì chúng sanh nói ra "Chơn giác" (tánh
Phật). Nếu lìa "Tâm bất giác" thì cũng không thể chỉ bày cái
"Chơn giác" được (dụ như lìa sóng không có nước).
- LƯỢC GIẢI
- Chúng sanh
vì không ngộ được Phật tánh (bản giác) nên gọi là mê (bất
giác). Song cái "mê" này không có thật thể, chỉ lấy Phật tánh
làm thể, nên không rời Phật tánh (bản giác) được. Cũng như
người lầm đường, do có con đường nên mới có lầm, nếu không có
con đường thì cũng không có sự lầm lạc. Bởi thế nên, nếu rời
Phật tánh (bàn giác) thì cũng không có cái mê (bất giác). Cũng
như bỏ sóng, không có nước.
- Sóng, cũng
nhờ có cái mê vọng (bất giác) này, nên chúng sanh mới biết
phân biệt các pháp chơn vọng, thánh phàm và nhàm chán cảnh khổ
sanh tử, ham mộ thú vui "Niết bàn".
- Và cũng nhờ
chúng sanh có biết phân biệt, nên chư Phật mới có thể thuyết
pháp giảng dạy, chỉ bày Phật tánh (chơn giác). Nếu không có
tâm mê vọng bất giác phân biệt của chúng sanh, thì Phật cũng
không làm sao chỉ bày Phật tánh (chơn giác) cho chúng sanh
được.
- Đọc qua
đoạn văn này, chúng ta nên lưu ý đến câu: "Vì không ngộ được
Phật tánh, nên gọi là mê" hay đổi lại cách nói "Tại sao có
dại?" vì chưa khôn vậy". Vậy thì cái mê dại (vô minh) này,
saün có từ hồi nào đến giờ, vì từ hồi nào đến giờ chúng sanh
chưa từng ngộ được Phật tánh.
- Nói tóm
lại, chơn như với vô minh đồng thời có, không phải chơn như có
trước, vô minh có sau. Khi chơn như (Phật tánh) hiện, thì vô
minh mất, cũng như khi "khôn" rồi, thì "dại" tự hết.
- GIẢI DANH
TỪ
- "Bất giác":
không biết. Thật ra không phải là không biết; vẫn có biết,
song cái "biết" ấy hư vọng, chẳng chơn thật, nên cũng gọi là
"vọng niệm" hay "vô minh" v.v..
- "Không thật
biết": Chúng sanh vẫn biết được chơn như hay Phật tánh; song
chỉ biết suông trên văn tự, do ý thức phân biệt hư dối mà
thôi; chứ không biết đúng như thật.
- (Đoạn này nói về căn bản vô
minh (bất giác), tiếp sau đây sẽ nói đến chi mạt vô minh (tam
tế, lục thô).
-
a. NÓI VỀ TAM
TẾ
- CHÁNH VĂN
- Và, do "Bất
giác" (căn bản vô minh) nên sanh ra ba tướng rất vi tế (tam
tế: chi mạt vô minh); ba tướng vi tế này không rời "Bất giác".
- 1. Tướng
nghiệp vô minh (nghiệp tướng): vì "Bất giác" (hoặc) cho nên
tâm động, gọi đó là "Nghiệp". Bởi thế nghiệp (nhơn) nên có
"khổ"(quả) . Trái lại, nếu "Giác" (không có hoặc) thì tâm
không động (nghiệp nhơn) nên cũng không khổ (quả).
- 2. Tướng
năng kiến (chuyển tướng tức là kiến phần). Vì có "Động"
(nghiệp tướng) cho nên sanh ra "Năng phân biệt" (năng kiến).
Nếu không "Động" thì không có "Năng phân biệt" (không có
nghiệp tướng thì cũng không có chuyển tướng).
- 3. Tướng
cảnh giới (hiện tướng tức là tướng phần). Vì có "Năng phân
biệt" (kiến phần) nên cảnh bị phân biệt (tướng phần) vọng hiện
ra. Bởi thế nên rời "Năng phân biệt" (kiến phần) thì cũng
không có cảnh bị phân biệt (nghĩa là nếu không có chuyển tướng
thì cũng không có hiện tướng).
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói: Vô minh sanh ra 3 tướng rất vi tế: Nghiệp, Chuyển và
Hiện; bà tướng này không rời vô minh.
- 1. Vì vô
minh (bất giác) cho nên tâm động tức là "Nghiệp". Đó là tướng
vi tế thứ nhứt, gọi là "Tướng nghiệp vô minh", cũng gọi là
"Hoặc, Chuyển"; bên Duy thức tôn gọi là "Tự chứng phần" của
thức A lại da.
- Do "Hoặc"
(vô minh) nên tạo "Nghiệp" (tâm động); bởi có "nghiệp" nên
phải thọ "quả khổ". Trái lại, nếu giác ngộ không mê hoặc (vô
minh) thì không tạo nghiệp (vọng động); không tạo nghiệp nên
chẳng có quả khổ.
- Tất cả quả
khổ, không ngoài hai món sanh tử: Phàm phu thì bị khổ "Phần
đoạn sanh tử"; Tiểu thánh thì bị khổ "Biến dịch sanh tử". Song
hai món quả khổ này, đều do "động niệm" tức là hướng về trí
Phật (không vọng niệm thì chơn tâm hiện).
- 2. Vì tâm
động (ngiệp tướn) cho nên mới có phân biệt. Đó là tướng vi tế
thứ hai, gọi là "tướng năng kiến" (phần năng phân biệt), cũng
gọi là "Chuyển tướng"; bên Duy thức tôn gọi là kiến phần của
thức A lại da. Nếu tâm không vọng động, thì cũng không do đâu
mà phát sanh ra phân biệt được. Nghĩa là: Nếu không có "nghiệp
tướng"; thì cũng không có "chuyển tướng"; hay nói cách khác:
nếu không có "Tự chứng phần" thì cũng không có "Kiến phần".
- 3. Vì có
tâm năng phân biệt, nên mới vọng hiện ra cảnh giới bị phân
biệt. Đó là tướng vi tế thứ ba, gọi là "Tướng cảnh giới" (phần
bị phân biệt) cũng gọi lá "Hiện tướng"; bên Duy thức tôn gọi
là "Tướng phần" của thức A lại da. Bởi tâm và cảnh không rời
nhau, nếu lìa tâm năng phân biệt thì không có cảnh giới bị
phân biệt. Nghĩa là: rời "Chuyển tướng" thì không có "Hiện
tướng"; hay nói cách khác: rời "Kiến phần" thì không có "Tướng
phần".
- Từ thể tánh
chơn tâm, không có năng sở (bỉ, thử); song vì mê nên tâm động
(nghiệp tướng) mà sanh ra có năng phân biệt (chuyển tướng) và
cảnh giới bị phân biệt (hiện tướng). Nếu giác cảnh giới bị
phân biệt (hiện tướng). Nếu giác ngộ không mê, thì tâm không
động, không sanh, và cảnh bị phân biệt chẳng hiện.
- Đoạn này
xin lưu ý độc giả: Trong luận này nói "Do nghiệp tướng sanh ra
chuyển tướng, do chuyển tướng sanh ra hiện tướng". Nói như
thế, là lấy theo nghĩa "tương quan, tương sanh" mà nói. Kỳ
thật ba tướng này, đồng thời sanh khởi; nghĩa là một pháp vừa
động, thì tất cả pháp đều động, không phải có thứ lớp tuần tự
như vậy.
- cũng
thường gọi là "Hoặc, Nghiệp và Khổ", hay trong Duy thức gọi là
"Tự chứng phần, Kiến phần và Tướng phần của thức A lại da.
- GIẢI DANH
TỪ
- Bất giác và
vô minh: "Vô minh" là không sáng suốt, "Bất giác" là không
giác ngộ. Bởi thế nên bất giác cũng tức là vô minh.
- Tướng
nghiệp vô minh: Vô minh vọng động thành ra tướ`ng nghiệp, gọi
tắt là "Nghiệp tướng"; tức là "Tự chứng phần" của thức A lai
da.
- Tướng Năng
kiến: Phần năng phân biệt, cũng gọi là "Chuyển tướng"; tức là
"Kiến phần" của thức A lại da.
- Tướng cảnh
giới: Cảnh giới bị phân biệt, cũng gọi là "Hiện tướng"; tức là
"Tướng phần" của thức A lại da.
- Phần đoạn
sanh tử: Sanh tử do sự biến đổi. Như vị Tu đà hoàn, khi chứng
lên quả Tư đà hàm (sanh) thì xả vị Tu đà hoàn (tử); khi lên vị
A na hàm, thì bỏ quả Tư đà hàm v.v...Thí như người Lính, khi
lên Cai thì bỏ Lính, lên Đội thì bò Cai v.v...
- Tự chứng
phần_ Duy thức tôn nói: Mỗi người có 8 món Tâm vương và 51 món
Tâm sở. Mỗi một Tâm vương hay Tâm sở đều có 4 phần: 1. Phần bị
phân biệt (tướng phần), 2. Phần năng phân biệt (Kiến phần);
Hai phần này thuộc về Dụng, ở bên ngoài. 3. Phần tự chứng và
4. Phần chứng tự chứng; hai phần này thuộc về thể, ở bên trong
và làm chỗ nương cho hai phần ngoài.
- Tương quan
tương sanh: Liên quan với nhau và sanh cùng nhau, có cái này
thì phải có cái kia.
-
b. NÓI VỀ LỤC
THÔ
- CHÁNH VĂN
- Do đã có
cảnh giới hiện ra (Hiện tướng) nên tiếp tục sanh sáu tướng sau
này:
- 1. Tướng
Trí (Trí tướng: Phân biệt): Do có cảnh giới hiện ra nên
sanh tâm phân biệt (trí) thương,ghét
- 2. Tướng
tương tục (Tương tục tướng: Vọng niệm tương tục): Do tâm
phân biệt thương ghét, cho nên tiếp tục sanh ra các niệm khổ
vui, mừng lo v.v...không dứt.
- 3. Tướng
chấp thủ (chấp thủ tướng: chấp sự vật): Do các niệm tương
tục phân biệt những cảnh khổ vui, cho nên tâm mới vướng mắc,
chấp lấy nơi sự vật (cảnh).
- 4.Tướng
chấp danh tự (kế danh tự tướng: chấp danh tự): Do phân
biệt vọng chấp nơi sự vật, nên giả đặt ra những danh tự để kêu
gọi.
- 5. Tướng
khởi nghiệp (khởi nghiệp tướng: tướng tạo nghiệp): Do chấp
theo danh tự tốt xấu đó, rồi tạo ra các nghiệp lành hay dữ.
- 6. Tướng
nghiệp hệ khổ (Nghiệp hệ khổ tướng: Thọ quả khổ): Do tạo
ra các nghiệp, nên bị các nghiệp kéo dẫn đi lãnh thọ quả khổ,
không được tự tại.
- Tóm lại,
phải biết: Gốc từ vô minh (căn bản vô minh) sanh ra các pháp
nhiễm ô (chi mạt vô minh) nên các pháp nhiễm ô đều là vô minh
(bất giác).
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về 6 món thô (lục thô). Do từ vô minh vọng động (Tự chứng
phần của thức A lai da) khởi ra tâm (Kiến phần của thức A lại
da) và cảnh (Tướng phần của thức A lại da) là ba món vi tế,
rồi tiếp tục sanh khởi 6 món thô sau này:
- 1. Vì có
cảnh giới (hiện tướng) nên tâm phân biệt tốt xấu, rồi sanh ra
thương (tham) ghét (sân) v.v...gọi là "Tướng trí", chữ "Trí"
là biết phân biệt tốt xấu.
- 2. Do tâm
biết phân biệt tốt xấu v.v...nên các niệm thương ghét, mừng
giận, khổ vui v.v...tiếp tục sanh khởi không gián đoạn, gọi là
"Tướng tương tục".
- 3. Do các
niệm thương ghét, mừng giận, khổ vui, nên sanh tâm chấp lấy:
Cái gì vui thích thì tham luyến, còn buồn khổ thì sân hận, gọi
là "Tướng chấp thủ".
- 4. Do sanh
tâm chấp cảnh, nên giả đặt ra những danh từ để kêu gọi, cái
này đẹp, cái kia xấu v.v...gọi là "Tướng kế danh tự".
- 5. Do có
những danh tự kêu gọi đẹp xấu v.v...nên sanh tâm tham lam,
giận ghét, và vì thế mà tạo ra cái nghiệp, gọi là "Tướng khởi
nghiệp".
- 6. Do tạo
các nghiệp, nên bị nghiệp kéo dẫn sanh tử luân hồi trong 3
cõi, để thọ quả báo, không được tự tại, gọi là "Tướng nghiệp
hệ khổ".
- Tóm lại, do
"mê hoặc" nên "tạo nghiệp"; nhơn ""tạo nghiệp" nên phải thọ
"quả khổ" trở lại "mê hoặc" nữa; nhơn "hoặc" lại tạo "nghiệp"
tho "quả khổ", mãi mãi không biết bao giờ cùng tận, như cái
vòng tròn không mối, nên gọi là "Luân hồi".
- Bởi do vô
minh vọng niệm sanh ra tất cả các pháp phiền não tạp nhiễm,
nên các pháp đều là vô minh. Nếu người được "vô niệm" (không
vọng niệm), thì tất cả các pháp phiền não sanh tử đều hết.
- Trong 3 món
Tế và 6 món Thô này, về phàm phu thì đủ cả; Tiểu thừa về 3 quả
trước, thì đủ 3 món Tế và 4 món Thô trước; A la hán thì có 3
món Tế và 3 món Thô trước; hằng Pháp thân Bồ Tát (từ Bát địa
trở lên) chỉ còn 3 món Tế.
- Xin xem biểu đồ sau đây:
- I. Phàm phu (có đủ 9 món)
3 món Tế
1. Nghiệp tướng (vọng động)
2. Chuyển tướng (trực giác)
3. Hiện tướng (cảnh)
6 món Thô
1. Trí tướng (phân biệt)
2. Tưng tục tướng ( vọng niệm tương tục)
3. Chấp thủ tướng (chấp sự vật)
4. Kế danh tự tướng ( chấp danh tự)
5. Khởi nghiệp tướng (tạo nghiệp)
6. Nghiệp hệ khổ tướng (thọ quả)
- II. Tiểu thừa, 3 quả trước, có 7
món
- 3 món Tế
1. Nghiệp tướng
2. Chuyển tướng
3. Hiện tướng
4 món Thô
1. Trí tướng
2. Tương tục tướng
3. Chấp thủ tướng
4. Kế danh tự tướng
- III. A la hán có 6 món
- 3 món Tế
1. Nghiệp tướng
2. Chuyển tướng
3. Hiện tướng
3 món Thô
1. Trí tướng
2. Tương tục tướng
3. Chấp thủ tướng
- IV. Pháp thân Bồ Tát chỉ có món
Tế
1. Vô minh nghiệp tướng (nghiệp tướng)
2. Năng kiến tướng (chuyển tướng)
3. Cảnh giới tướng (hiện tướng)
-
-
c.NÓI VỀ HAI
TƯỚNG
- CHÁNH VĂN
- Lại nửa,
"Giác"(chơn) với "Bất giác" (vọng) đều có 2 tướng: Đồng và
Khác.
- Thế nào là "Đồng"?_ các sự
nghiệp huyễn hoá của "Giác" (vô lậu) và "Bất giác" (vô minh)
đều đồng một thể tánh chơn như. Thí như các món đồ gốm đều
đồng một chất đất.
- Bởi thế nên trong Khế kinh
chép: "Tất cả chúng sanh, từ hồi nào đến giờ, vẫn thường ở
trong Bồ Đề Niết bàn; không phải do tu mới có, do làm mới
được; rốt ráo không có gì gọi là "chứng" cả, và cũng không
hình tướng gì có thể thấy được.
- Song, chúng
sanh thấy sắc thân Phật, có 32 tướng tốt, có 80 vẻ đẹp
v.v...là do tuỳ tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà huyễn hiện,
không phải tánh chơn như có các hình tướng ấy; vì tánh chơn
như không có thấy được vậy.
- Thế nào là
khác?_ Do tuỳ tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà hiện ra các
huyễn tướng sai khác: hữu lậu (mê) và vô lậu (giác). Ví như
các thứ đồ gốm, hình tướng khác nhau.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
lấy hai mặt "đồng" và "bất giác", để chỉ sự tương quan tương
phản của hai thứ ấy. Đứng về bản thể của các pháp mà luận, thì
"nhiễm" và "tịnh" đều là chơn như. còn đứng về hiện tượng của
các pháp mà nói, thì "nhiễm" và "tịnh" có sai khác.
- Bởi "giác"
và "bất giác" đều là Chơn như, cũng như các thứ đồ gốm (fđồ
kiểu hay đồ đá) đều bằng đất, nên nói tất cả chúng sanh từ hồi
nào đền giờ, vẫn thường ở trong Chơn như. Tánh Chơn như này
không phải do tu mới được, hay làm mới có; rốt ráo không có sở
đắc, và cũng không có hình tướng gì có thể chỉ bày được.
- Song, chúng
sanh thấy có Phật hiện thên độ sanh; đó là tự tâm của chúng
sanh, tuỳ nghiệp huyễn hiện, chứ không phải tánh Chơn như có
những hình tướng như thế.
- Câu: "Tuỳ
tâm vọng nhiễm của chung sanh mà hiện ra các huyễn tướng sai
khác: hữu lậu (mê) và vô lậu (giác). Nghĩa là nói: Không phải
ở đâu khác, mà chính chính ở tâm chúng sanh, có thể đổi các
phiền não nhiễm ô, ra các công đức thanh tịnh. Khi tâm vọng
động thì sanh ra vô lượng hằng sa pháp tạp nhiễm, khi tâm hết
vọng động thì hiện ra vô lượng hằng sa công đức thanh tịnh.
Tất cả đều tuỳ tâm của chúng sanh mà hiện racác tướng nhiễm,
tịnh. Các tướng này đều như huyễn.
- Câu:
"...Các sự nghiệp chuyển hoá của vô lậu (giác) và vô minh
(mê), có nghĩa là: Tánh giác đã có nghiệp dụng, hiện ra tất cả
cảnh giới thù thắng vi diệu, không thể nghĩ bàn, thì vô minh
cũng có nghiệp lực hiện ra Tam tế, Lục thô, tất cả sanh tử khổ
vui, cũng không thể nghĩ bàn. Bởi thế nên Chơn và vọng đều là
huyễn cả. Khế kinh chép: "sanh tử và Niết bàn đều như mộng
huyễn".
-
QUYẾT NGHI
- Hỏi:_ Chúng
snh đã vốn là Phật, tại sao không thấy chúng sanh có Báo thân
và Hoá thân Phật?
- Đáp:_ Khi
nói chúng sanh vốn là Phật, là đứng về phương diện bản thể
Phật tánh mà nói, chứ không phải đứng về phương diện hiện
tượng Phật tướng mà nói vậy. Về bản thể thì các chúng sanh đều
có Phật tánh, nhưng về hiện tượng thì chúng sanh có Báo thân
và Hoá thân.
- Hỏi:_ Chơn
như Phật tánh đã không có sắc tướng, tại sao chư Phật chứng
được, và có tướng Báo thân và Hoá thân?
- Đáp:_ Sắc
thân của chư Phật, chỉ tuỳ theo tâm của chúng sanh mà hiện ra,
không phải trong thể tánh chơn như có những hình tướng ấy.
- Đã nói về
"Tâm sanh diệt" dưới đây sẽ nói "Tướng Nhơn duyên sanh diệt"
--o0o--
|
|