|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ X -
XI
- LUẬN ĐẠI
THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ
6
- CHƯƠNG THỨ BA
-
PHẦN GIẢI
THÍCH
-
NÓI VỀ NGHĨA
"BẤT GIÁC"
- (Tiếp Theo)
- --- o0o ---
-
d. NÓI VỀ "Ý"
TƯƠNG TỤC, có 5 thứ
- CHÁNH VĂN
- Trên đã nói
"Tâm sanh diệt", (thức A lại da) tiếp theo đây sẽ nói "cái "Ý"
làm nhơn duyên sanh diệt".
- Tất cả
chúng sanh đều từ nơi tâm (A lại da) mà sanh ra mý (Mạt ma) và
ý thức (thức thứ 6). Nghĩa là do thức A lại da có vô minh bất
giác (nghiệp tướng) nên sanh ra Năng kiến (chuyển tướng) và
Năng hiện (hiện tướng) rồi tiếp tục sanh ra các niệm (lục
thô), chấp lấy cảnh giới v.v...gọi là "Ý".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về sự quan trọng của "ý". Trong các nơi khác, khi nói đến
"ý" thì thường dùng để chỉ riêng cho thức Mạt na, là thức sanh
diệt tương tục thắng hơn các thức. Nhưng chữ "ý" ở luận này là
chỉ chung cho cả 8 thức; vì cả 8 thức đều có nghĩa "sanh diệt
tương tục".
- Thức A lại
da là gốc của sanh diệt, thức Mạt na làm nhơn duyên cho sự
sanh diệt tương tục; còn ý thức thì khởi hoặc tạo nghiệp, làm
cho chúng sanh nhiều kiếp sanh tử không dứt.
- CÁI "Ý" CÓ
5 THỨ
- CHÁNH VĂN
- Cái "Ý" này
lại có 5 thứ: Nghiệp thức (nghiệp tướng), Chuyển thức (chuyển
tướng), Hiện thức (hiện tướng), Trí thức (trí tướng) và Tươmng
tục thức (tương tục tướng).
- a. "Nghiệp
thức" là sự vô minh bất giác làm cho tâm vọng động (tức là Tự
chứng phần của thức A lại da)
- b. "Chuyển
thức" là phần Năng phân biệt (Kiến phần của thức A lại da) do
tâm vọng động chuyển sanh ra.
- c. "Hiện
thức" là sự hiện bày của cảnh giới ngũ trần bị phân biệt
(Tướng phần của thức A lại da). Cảnh giới này không có trước
sau, trong tất cả thời, mặc tình sanh khởi, thường hiện ở
trước.
- (3 thứcx
này thuộc về Tam Tế)
- d. "Trí
thức" là cái biết phân biệt các pháp nhiễm tịnh.
- e. "Tương
tục thức" là niệm niệm sanh diệt tương tục không gián đoạn.
- (2 thức này
thuộc về 2 món. Thô trước, trong 6 món Thô)
- năm thứ "ý"
này, giữ gìn tất cả nghiệp lành dữ, từ quá khứ vô lượng kiếp
về trước, cho đến ngày nay cũng không mất (trì chủng). Nó lại
có công năng làm cho thành thục tất cả quả báo khổ vui về hiện
tại cũng như tương lai, không sai mất (chấp thủ căn thân, thế
giới và kiết sanh tương tục). Và nó công năng nhớ việc đã qua,
nghĩ những việc hiện tại và suy tính những việc chưa đến (vị
lai).
- Bởi thế nên
ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) đều hư ngụy, duy
tâm tạo ra. Nếu rời tâm thì không có cảnh giới sáu trần này
(ba cõi).
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về nghĩa chử "ý", là chỉ cho một dòng sanh diệt tương tục
không gián đoạn. Từ vô minh vọng động, sanh ra 3 món Tế, là
Nghiệp tướng (nghiệp thức), Chuyển tướng (chuyển thức), Hiện
tướng (hiện thức) và hai món Thô là Trí tướng (trí thức) và
Tương tục tướng (tương tục thức).
- Năm cái "ý"
này có công năng giữ gìn thiện ác, quả báo khổ vui hiện tại và
vị lai, làm cho không mất (đó là công năng trì chủng chấp thọ
thân căn thế giới và kiết sanh tương tục của thức A đà na);
nhớ nghĩ những việc đã qua và lo tính những điều chưa đến (đó
là công năng của thức thứ 6), và một dòng sanh diệt, tiếp tục
từ trước đến sau không gián đoạn, gọi đó là "ý". Bởi thế nên
chữ "ý" này là chỉ chung cho cả 8 thức.
- Tóm lại, từ
vô minh vọng động, sanh ra thức A lại da. Từ thức A lại da lại
tiếp tục sanh ra 7 thức trước; rồi cùng nhau làm nhơn làm
duyên, lại thành ra một dòng sóng thức, sanh diệt tương tục vô
tận, gọi đó là "ý". Cũng vì rõ nghĩa này, nên Cổ nhơn làm bài
thơ có câu rằng: "...Nhứt ba tài động vạn ba tuỳ ..." (một
lượng sóng vừa nổi lên, thì trăm ngàn lượng sóng đều nổi
theo).
- Nào ba cõi,
nào 6 trần đều từ 8 thức này biến hiện. Bởi thế nên các pháp
đều hư dối, duy tâm tạo ra; nếu rời 8 thức, thì các cảnh giới
đều không còn.
- CHÁNH VĂN
- Nghĩa này
thế nào?_ Do tất cả pháp đều từ vọng tâm của chúng sanh mà
sanh khởi, nên tất cả sự phân biệt tức là phân biệt trong tự
tâm. Nhưng tâm không có hình tướng gì cả, nên không thể thấy
được nó. Phải biết, tất cả cảnh giới ở thế gian, đều do vô
minh vọng tâm của chúng sanh mà được tồn tại, nên tất cả các
pháp, đều khônhg có thật thể, mà chỉ vọng tâm huyễn hiện, như
bóng trong gương.
- Nếu vọng
tâm sanh khởi, thì các pháp đều sanh khởi; vọng tâm diệt thì
các pháp đều diệt (Tâm sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm
diệt tắc chủng chủng pháp diệt).
- LƯỢC GIẢI
- Tất cả các
pháp đều do tâm của chúng sanh sanh ra, nên chúng snh phân
biệt các pháp, tức là phân biệt ở nơi tự tâm. Kinh Lăng Nghiêm
chép: "Tự tâm thủ tự tâm, phi huyễn thành huyễn pháp" (tự tâm
chúng sanh trở lại chấp lấy tự tâm chúng sanh; tâm không phải
huyễn mà trở lại thành pháp hư huyễn).
- Tất cả các
pháp đều không thật có, chỉ nương nơi tâm mà tồn tại, như hoa
trong gương, như trăng dưới nước. Nếu tâm động thì các pháp
sanh, tâm tịnh thì các pháp diệt. Trong Khế kinh chép: "tâm
sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng chủng pháp
diệt" là vậy. Tổ Qui Sơn nói: "Nhứt tâm không sanh thì muôn
pháp đều dứt" (Nhứt tâm bất sanh vạn pháp câu tức). Bởi thế
nên đoạn trước nói "Người quán vô niệm (không vọng niệm) thì
hướng về trí Phật".
- Đoạn này đã
nói về "ý tương tục" rồi, tiếp theo dưới đây sẽ nói đến ý
thức.
-
e. NÓI VỀ "Ý
THỨC"
- CHÁNH VĂN
- Trên đã nói
về "ý" rồi, tiếp theo đây nói về "ý thức". Ý thức tức là "thức
tương tục". Bởi chúng phàm phu chấp trước rất nặng nề nơi Ngã
và Ngã sở, nên khởi ra các món vọng chấp, leo chuyền theo sự
vật, phân biệt cảnh giới sáu trần, gọi đó là "ý thức" (thức
thứ sáu). Cũng gọi đó là "Phân ly thức", hay gọi "Phân biệt sự
thức". Thức này nương nơi kiến (kiến hoặc) và ái (tư hoặc)
phiền não mà được nuôi lớn.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về "ý thức".
- So với 5 món "ý" nói trên, thì
ý thức này thuộc về món thứ năm là "Tương tục thức"; trong Lục
thô nó thuộc về Thô thứ hai là "Tương tục Tướng"; trong 8 thức
nó thuộc về thức thứ 6.
- _ Bởi thức
này, niệm niệm tương tục, chấp Ngã và Ngã sở, leo chuyền theo
các trần cảnh, phân biệt các sự vật, vọng chấp đủ điều, nên
gọi là "Thức tương tục".
- _ Bởi thức
này phân biệt 5 trần cảnh (Sắc, Thinh, Hương, Vị và Xúc) mỗi
cảnh riêng nhau, nên gọi là "Phân ly thức".
- _ Bởi thức
này phân biệt tất cả sự vật, nên cũng gọi là "phận biệt sự
thức".
- _ lại nữa,
thức này nhờ 2 món phiền não là "Kiến" và "Ái" mà được nuôi
lớn, "kiến" tức là kiến hoặc, thuộc về phân biệt hoặc. "Ái"
tức là Tư hoặc, thuộc về Cu sanh hoặc. Do hai món phiền não
này, nên ý thức mới khởi hoặc tạo nghiệp, quanh quẩn trong
sanh tử luân hồi.
- ***
- Trong "Môn sanh diệt" có 2phần,
trên đã nói về phần thuận dòng vô minh (lưu chuyển), sanh ra
các pháp sanh tử tạp nhiễm; sau đây sẽ nói, chính nơi pháp tạp
nhiễm lưu chuyển đó, để chỉ sự trở lại thanh tịnh (hoàn tịnh)
tuỳ theo trình độ của người, hoặc mau hay chậm không đồng.
-
CẢNH GIỚI NÀY DUY PHẬT MỚI BIẾT ĐƯỢC
RỐT RÁO
- CHÁNH VĂN
- Do vô minh
huân tập sanh ra thức. Cảnh giới này, chúng phàm phu không thể
biết được; dù cho hàng Nhị thừa dùng trí huệ quán sát cũng
không thể biết được; các vị Bồ Tát từ Sơ tín cho đến Tam hiền
(Trụ Hạnh, Hướng) phát tâm quán sát, chỉ biết được chút ít;
bực Thập địa Bồ Tát (Pháp thân Bồ Tát) cũng chỉ biết được từng
phần; cho đến Đẳng giác Bồ Tát cũng không thể biết hết ; duy
có Phật mới biết được rốt ráo.
- Tại sao
vậy?. _ Vì tâm này từ hồi nào đến giờ, tánh nó vẫn thanh tịnh,
không có vô minh; song bị vô minhnlàm nhiễm ô (bất biến tuỳ
duyên), vì thế nên rất khó biết. Bởi thế nên chỉ có Phật mới
có thể biết được cảnh giới này.
- Tóm lại,
chơn tam (tâm tánh) vì thướng không vọng niệm, nên gọi là "bất
biến" (chơn như). Song chúng sanh vì không ngộ nhập được chơn
tâm (nhứt pháp giới) này, lại sanh vọng niệm nên gọi là "vô
minh".
- LƯỢC GIẢI
- Người đang
chiêm bao không bao giờ biết được chiêm bao; phải thức giấc
rồi mới biết đó là cảnh chiêm bao; chúng sanh đang ở trong
vòng vô minh vọng thức, không thể biết được vô minh vọng thức;
bao giờ giác ngộ hoàn toàn, mới biết được rốt ráo cảnh giới
của vô minh vọng thức.
- Do vô minh
huân tập vào chơn như, nên chơn vọng hoà hiệp biến thành thức
A lại da. Chúng phàm phu vì đang ở trong vòng thức biến, nên
không bao giờ biết được cảnh giới thức biến. Hàng Nhị thừa tuy
dùng trí huệ quán sát, phá được ngã chấp; nhưng mây pháp chấp
hãy còn dày bịt và che lối chơn tâm, nên cũng không thể thấy
được cảnh giới ấy. Các bực Bồ Tát ở vị Tam hiền, mới phá được
đôi phần phân biệt pháp chấp; nên chỉ biết được chút ít về
cảnh giới này. Đến bực Thập địa Bồ Tát , hễ phá được một phần
vô minh, chứng được một phần pháp thân, thì thấy được một phần
của cảnh giới này, và cứ tuần tự như thế, cho đến khi nào phá
được 10 phần vô minh, thì chứng 10 phần pháp thân và biết được
cả 10 phần của cảnh giới này. (Thập địa Bồ Tát, do phá vô
minh, chứng được pháp thân, nên gọi là "Pháp thân Bồ Tát").
Bực Đẳng giác Bồ Tát, vì còn vi tế vô minh, nên đối với cảnh
giới này, biết cũng chưa tường tận. Đến quả vị Phật, do phá vô
minh đã sạch hết, nên mới hoàn toàn biết được cảnh giới này;
cũng như người đã hoàn toàn thức tĩnh, mới biết được rốt ráo
cảnh mê mộng.
- ***
- Trên đã nói
nhơn duyên trở lại bản tâm thanh tịnh rồi, dưới đây sẽ lược
nói đến địa vị nào, mới đoạn được hoặc gì, để trở lại bản tâm
thanh tịnh.
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ X -
XI
- LUẬN ĐẠI
THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ
6
- CHƯƠNG THỨ BA
-
PHẦN GIẢI
THÍCH
-
NÓI VỀ NGHĨA
"BẤT GIÁC"
- (Tiếp Theo)
- --- o0o ---
-
d. NÓI VỀ "Ý"
TƯƠNG TỤC, có 5 thứ
- CHÁNH VĂN
- Trên đã nói
"Tâm sanh diệt", (thức A lại da) tiếp theo đây sẽ nói "cái "Ý"
làm nhơn duyên sanh diệt".
- Tất cả
chúng sanh đều từ nơi tâm (A lại da) mà sanh ra mý (Mạt ma) và
ý thức (thức thứ 6). Nghĩa là do thức A lại da có vô minh bất
giác (nghiệp tướng) nên sanh ra Năng kiến (chuyển tướng) và
Năng hiện (hiện tướng) rồi tiếp tục sanh ra các niệm (lục
thô), chấp lấy cảnh giới v.v...gọi là "Ý".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về sự quan trọng của "ý". Trong các nơi khác, khi nói đến
"ý" thì thường dùng để chỉ riêng cho thức Mạt na, là thức sanh
diệt tương tục thắng hơn các thức. Nhưng chữ "ý" ở luận này là
chỉ chung cho cả 8 thức; vì cả 8 thức đều có nghĩa "sanh diệt
tương tục".
- Thức A lại
da là gốc của sanh diệt, thức Mạt na làm nhơn duyên cho sự
sanh diệt tương tục; còn ý thức thì khởi hoặc tạo nghiệp, làm
cho chúng sanh nhiều kiếp sanh tử không dứt.
- CÁI "Ý" CÓ
5 THỨ
- CHÁNH VĂN
- Cái "Ý" này
lại có 5 thứ: Nghiệp thức (nghiệp tướng), Chuyển thức (chuyển
tướng), Hiện thức (hiện tướng), Trí thức (trí tướng) và Tươmng
tục thức (tương tục tướng).
- a. "Nghiệp
thức" là sự vô minh bất giác làm cho tâm vọng động (tức là Tự
chứng phần của thức A lại da)
- b. "Chuyển
thức" là phần Năng phân biệt (Kiến phần của thức A lại da) do
tâm vọng động chuyển sanh ra.
- c. "Hiện
thức" là sự hiện bày của cảnh giới ngũ trần bị phân biệt
(Tướng phần của thức A lại da). Cảnh giới này không có trước
sau, trong tất cả thời, mặc tình sanh khởi, thường hiện ở
trước.
- (3 thứcx
này thuộc về Tam Tế)
- d. "Trí
thức" là cái biết phân biệt các pháp nhiễm tịnh.
- e. "Tương
tục thức" là niệm niệm sanh diệt tương tục không gián đoạn.
- (2 thức này
thuộc về 2 món. Thô trước, trong 6 món Thô)
- năm thứ "ý"
này, giữ gìn tất cả nghiệp lành dữ, từ quá khứ vô lượng kiếp
về trước, cho đến ngày nay cũng không mất (trì chủng). Nó lại
có công năng làm cho thành thục tất cả quả báo khổ vui về hiện
tại cũng như tương lai, không sai mất (chấp thủ căn thân, thế
giới và kiết sanh tương tục). Và nó công năng nhớ việc đã qua,
nghĩ những việc hiện tại và suy tính những việc chưa đến (vị
lai).
- Bởi thế nên
ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) đều hư ngụy, duy
tâm tạo ra. Nếu rời tâm thì không có cảnh giới sáu trần này
(ba cõi).
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về nghĩa chử "ý", là chỉ cho một dòng sanh diệt tương tục
không gián đoạn. Từ vô minh vọng động, sanh ra 3 món Tế, là
Nghiệp tướng (nghiệp thức), Chuyển tướng (chuyển thức), Hiện
tướng (hiện thức) và hai món Thô là Trí tướng (trí thức) và
Tương tục tướng (tương tục thức).
- Năm cái "ý"
này có công năng giữ gìn thiện ác, quả báo khổ vui hiện tại và
vị lai, làm cho không mất (đó là công năng trì chủng chấp thọ
thân căn thế giới và kiết sanh tương tục của thức A đà na);
nhớ nghĩ những việc đã qua và lo tính những điều chưa đến (đó
là công năng của thức thứ 6), và một dòng sanh diệt, tiếp tục
từ trước đến sau không gián đoạn, gọi đó là "ý". Bởi thế nên
chữ "ý" này là chỉ chung cho cả 8 thức.
- Tóm lại, từ
vô minh vọng động, sanh ra thức A lại da. Từ thức A lại da lại
tiếp tục sanh ra 7 thức trước; rồi cùng nhau làm nhơn làm
duyên, lại thành ra một dòng sóng thức, sanh diệt tương tục vô
tận, gọi đó là "ý". Cũng vì rõ nghĩa này, nên Cổ nhơn làm bài
thơ có câu rằng: "...Nhứt ba tài động vạn ba tuỳ ..." (một
lượng sóng vừa nổi lên, thì trăm ngàn lượng sóng đều nổi
theo).
- Nào ba cõi,
nào 6 trần đều từ 8 thức này biến hiện. Bởi thế nên các pháp
đều hư dối, duy tâm tạo ra; nếu rời 8 thức, thì các cảnh giới
đều không còn.
- CHÁNH VĂN
- Nghĩa này
thế nào?_ Do tất cả pháp đều từ vọng tâm của chúng sanh mà
sanh khởi, nên tất cả sự phân biệt tức là phân biệt trong tự
tâm. Nhưng tâm không có hình tướng gì cả, nên không thể thấy
được nó. Phải biết, tất cả cảnh giới ở thế gian, đều do vô
minh vọng tâm của chúng sanh mà được tồn tại, nên tất cả các
pháp, đều khônhg có thật thể, mà chỉ vọng tâm huyễn hiện, như
bóng trong gương.
- Nếu vọng
tâm sanh khởi, thì các pháp đều sanh khởi; vọng tâm diệt thì
các pháp đều diệt (Tâm sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm
diệt tắc chủng chủng pháp diệt).
- LƯỢC GIẢI
- Tất cả các
pháp đều do tâm của chúng sanh sanh ra, nên chúng snh phân
biệt các pháp, tức là phân biệt ở nơi tự tâm. Kinh Lăng Nghiêm
chép: "Tự tâm thủ tự tâm, phi huyễn thành huyễn pháp" (tự tâm
chúng sanh trở lại chấp lấy tự tâm chúng sanh; tâm không phải
huyễn mà trở lại thành pháp hư huyễn).
- Tất cả các
pháp đều không thật có, chỉ nương nơi tâm mà tồn tại, như hoa
trong gương, như trăng dưới nước. Nếu tâm động thì các pháp
sanh, tâm tịnh thì các pháp diệt. Trong Khế kinh chép: "tâm
sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng chủng pháp
diệt" là vậy. Tổ Qui Sơn nói: "Nhứt tâm không sanh thì muôn
pháp đều dứt" (Nhứt tâm bất sanh vạn pháp câu tức). Bởi thế
nên đoạn trước nói "Người quán vô niệm (không vọng niệm) thì
hướng về trí Phật".
- Đoạn này đã
nói về "ý tương tục" rồi, tiếp theo dưới đây sẽ nói đến ý
thức.
-
e. NÓI VỀ "Ý
THỨC"
- CHÁNH VĂN
- Trên đã nói
về "ý" rồi, tiếp theo đây nói về "ý thức". Ý thức tức là "thức
tương tục". Bởi chúng phàm phu chấp trước rất nặng nề nơi Ngã
và Ngã sở, nên khởi ra các món vọng chấp, leo chuyền theo sự
vật, phân biệt cảnh giới sáu trần, gọi đó là "ý thức" (thức
thứ sáu). Cũng gọi đó là "Phân ly thức", hay gọi "Phân biệt sự
thức". Thức này nương nơi kiến (kiến hoặc) và ái (tư hoặc)
phiền não mà được nuôi lớn.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về "ý thức".
- So với 5 món "ý" nói trên, thì
ý thức này thuộc về món thứ năm là "Tương tục thức"; trong Lục
thô nó thuộc về Thô thứ hai là "Tương tục Tướng"; trong 8 thức
nó thuộc về thức thứ 6.
- _ Bởi thức
này, niệm niệm tương tục, chấp Ngã và Ngã sở, leo chuyền theo
các trần cảnh, phân biệt các sự vật, vọng chấp đủ điều, nên
gọi là "Thức tương tục".
- _ Bởi thức
này phân biệt 5 trần cảnh (Sắc, Thinh, Hương, Vị và Xúc) mỗi
cảnh riêng nhau, nên gọi là "Phân ly thức".
- _ Bởi thức
này phân biệt tất cả sự vật, nên cũng gọi là "phận biệt sự
thức".
- _ lại nữa,
thức này nhờ 2 món phiền não là "Kiến" và "Ái" mà được nuôi
lớn, "kiến" tức là kiến hoặc, thuộc về phân biệt hoặc. "Ái"
tức là Tư hoặc, thuộc về Cu sanh hoặc. Do hai món phiền não
này, nên ý thức mới khởi hoặc tạo nghiệp, quanh quẩn trong
sanh tử luân hồi.
- ***
- Trong "Môn sanh diệt" có 2phần,
trên đã nói về phần thuận dòng vô minh (lưu chuyển), sanh ra
các pháp sanh tử tạp nhiễm; sau đây sẽ nói, chính nơi pháp tạp
nhiễm lưu chuyển đó, để chỉ sự trở lại thanh tịnh (hoàn tịnh)
tuỳ theo trình độ của người, hoặc mau hay chậm không đồng.
-
CẢNH GIỚI NÀY DUY PHẬT MỚI BIẾT ĐƯỢC
RỐT RÁO
- CHÁNH VĂN
- Do vô minh
huân tập sanh ra thức. Cảnh giới này, chúng phàm phu không thể
biết được; dù cho hàng Nhị thừa dùng trí huệ quán sát cũng
không thể biết được; các vị Bồ Tát từ Sơ tín cho đến Tam hiền
(Trụ Hạnh, Hướng) phát tâm quán sát, chỉ biết được chút ít;
bực Thập địa Bồ Tát (Pháp thân Bồ Tát) cũng chỉ biết được từng
phần; cho đến Đẳng giác Bồ Tát cũng không thể biết hết ; duy
có Phật mới biết được rốt ráo.
- Tại sao
vậy?. _ Vì tâm này từ hồi nào đến giờ, tánh nó vẫn thanh tịnh,
không có vô minh; song bị vô minhnlàm nhiễm ô (bất biến tuỳ
duyên), vì thế nên rất khó biết. Bởi thế nên chỉ có Phật mới
có thể biết được cảnh giới này.
- Tóm lại,
chơn tam (tâm tánh) vì thướng không vọng niệm, nên gọi là "bất
biến" (chơn như). Song chúng sanh vì không ngộ nhập được chơn
tâm (nhứt pháp giới) này, lại sanh vọng niệm nên gọi là "vô
minh".
- LƯỢC GIẢI
- Người đang
chiêm bao không bao giờ biết được chiêm bao; phải thức giấc
rồi mới biết đó là cảnh chiêm bao; chúng sanh đang ở trong
vòng vô minh vọng thức, không thể biết được vô minh vọng thức;
bao giờ giác ngộ hoàn toàn, mới biết được rốt ráo cảnh giới
của vô minh vọng thức.
- Do vô minh
huân tập vào chơn như, nên chơn vọng hoà hiệp biến thành thức
A lại da. Chúng phàm phu vì đang ở trong vòng thức biến, nên
không bao giờ biết được cảnh giới thức biến. Hàng Nhị thừa tuy
dùng trí huệ quán sát, phá được ngã chấp; nhưng mây pháp chấp
hãy còn dày bịt và che lối chơn tâm, nên cũng không thể thấy
được cảnh giới ấy. Các bực Bồ Tát ở vị Tam hiền, mới phá được
đôi phần phân biệt pháp chấp; nên chỉ biết được chút ít về
cảnh giới này. Đến bực Thập địa Bồ Tát , hễ phá được một phần
vô minh, chứng được một phần pháp thân, thì thấy được một phần
của cảnh giới này, và cứ tuần tự như thế, cho đến khi nào phá
được 10 phần vô minh, thì chứng 10 phần pháp thân và biết được
cả 10 phần của cảnh giới này. (Thập địa Bồ Tát, do phá vô
minh, chứng được pháp thân, nên gọi là "Pháp thân Bồ Tát").
Bực Đẳng giác Bồ Tát, vì còn vi tế vô minh, nên đối với cảnh
giới này, biết cũng chưa tường tận. Đến quả vị Phật, do phá vô
minh đã sạch hết, nên mới hoàn toàn biết được cảnh giới này;
cũng như người đã hoàn toàn thức tĩnh, mới biết được rốt ráo
cảnh mê mộng.
- ***
- Trên đã nói
nhơn duyên trở lại bản tâm thanh tịnh rồi, dưới đây sẽ lược
nói đến địa vị nào, mới đoạn được hoặc gì, để trở lại bản tâm
thanh tịnh.
--o0o--
|
|