|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ X -
XI
- LUẬN ĐẠI
THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ
8
- CHƯƠNG THỨ BA
-
PHẦN GIẢI
THÍCH
-
NÓI VỀ Ý NGHĨA
"BẤT GIÁC"
-
(Tiếp Theo)
- --- o0o ---
-
k. NÓI VỀ BỐN
MÓN HUÂN TẬP
- CHÁNH VĂN
- Lại nữa, vì
có bốn món huân tập, nên các pháp tạp nhiễm và thanh tịnh được
sanh khởi không dứt.
- 1. Chơn như
(pháp thanh tịnh) huân tập
- 2. Vô minh
(các nhơn tãp nhiễm) huân tập
- 3. Nghiệp
thức (vọng tâm) huân tập
- 4. cảnh
giới hư vọng (sáu trần) huân tập.
- Sao gọi là
"huân tập"?_ Chữ "Huân" là xông ướp; chữ "Tập" là quen. Thí
như y phục không có mùi thơm, song vì người ta lấy vật thơm
xông ướp vào, nên nó quen (có) mùi thơm.
- Cũng thế,
chơn như là pháp thanh tịnh thật không có nhiễm ô, song vì bị
vô minh huân tập vào, nên có tướng nhiễm ô. Trái lại, vô minh
là pháp tạp nhiễm, cũng không có diệu dụng thanh tịnh, chỉ vì
bị chơn như huân tập vào, nên nó có diệu dụng thanh tịnh.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về việc "Huân tập" của tâm sanh diệt, để chỉ rõ lý do các
pháp sanh diệt tương tục. Ở đây nên lưu ý nhứt, là hai chữ
"huân tập". Chúng ta được chứng Thánh Hiền hay bị làm phàm
phu, đều do huân tập cả.
- Thí như
người không biết uống rượu, gần gũi bạn rượu nay nếm một giọt,
mai uống một ly, như thế gọi là "Huân". Lâu ngày người ấy vì
quen hơi rượu, nên ghiền rượu, gọi là "Tập" (tập quán).
- Chơn như và
vô minh huân tập nhau cũng thế. Nếu chơn như mạnh, huân tập vô
minh, thì vô minh biến thành tịnh dụng. Trái lại, nếu Vô minh
mạnh, huân tập vào chơn nhưthì chơn như biến ra tướng nhiễm ô.
Cũng như nước lạnh và nóng đổ chung một bồn, nếu thế lực của
nước nóng nhiều, thì làm cho nước lạnh trở thành ấm, trái lại,
nếu thế lực của nước lạnh nhiều, thì làm cho nước nóng trở
thành mát.
- Hằng ngày
chúng ta "huân tập" không biết bao nhiêu việc, huân tập cái gì
thành ra cái nấy. Huân tập cái xấu nhiều, thành ra người xấu,
Huân tập cái tốt nhiều, thành ra người tốt. Vào hàng bán hương
chiên đàng, được xông ướp mùi thơm, thì ta thơm. Vào hàng bán
thịt cá, bị ướp mùi tanh hôi, thì ta hôi. Gần gũi người hiền
huân tập đức tánh tốt, thì ta thành người lương thiện; gần gũi
kẻ ác, huân tập theo tánh hung dữ, ta thành người bạo ác. Bởi
thế nên ngạn ngữ có câu: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sang".
Hằng ngày chúng ta chung đụng, gần gũi, lân la không biết bao
nhiêu hạng người, chúng ta phải thận trọng về sự huân tập này.
Huân tập Phật (chơn như) thì được thành Phật, huân tập chúng
sanh (vô minh) thì làm chúng sanh.
- Huân tập có
bốn loại:
- 1. Chơn như
huân tập
- 2. Vô minh
huân tập
- 3. Vọng tâm
huân tập
- 4. Vọng
cảnh huân tập
- sẽ tuần tự
giải thích từ thô đến tế như sau.
- DO HUÂN TẬP
NÊN CÁC PHÁP NHIỄM Ô SANH KHỞI KHÔNG DỨT
- CHÁNH VĂN
- Huân tập
thế nào, mà các pháp tạp nhiễm sanh khởi không dứt?_ Do chơn
như mà có vô minh (hoặc); rồi vô minh làm nhơn trở lại huân
tập vào chơn như (nghiệp) sanh ra vọng tâm (khổ); rồi vọng tâm
(khổ) trở lại huân tập vào vô minh (hoặc) v.v...
- Nghĩa là vì
chưa ngộ nhập được chơn như, nên bất giác (hoặc, tức là nghiệp
tướng) vọng niệm sanh khởi (nghiệp, tức là chuyển tướng) và
vọng hiện ra các cảnh giới (khổ, tức là hiện tướng).
- Rồi do cảnh
giới nhiễm ô vọng hiện này (khổ) trở lại huân tập vào vọng
tâm, sanh ra vọng niệm chấp trước (hoặc, tức là bốn món Thô
trước) và tạo ra các nghiệp (nghiệp, tức là món Thô thứ năm)
rồi chịu tất cả khổ về thânvà tâm v.v...(khổ, tức là món Thô
thứ sáu).
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói do huân tập nên các pháp tạp nhiễm sanh khởi không dứt.
- Vì chưa ngộ
nhập được chơn tâm, nên vô minh bất giác vọng động nổi lên
(hoặc) rồi huân tập trở lại chơn tâm (nghiệp)biến thành vọng
tâm (khổ).
- Rồi từ vọng
tâm (khổ) trở lại huân tập vô minh (hoặc sanh ra vọng niệm
(nghiệp) và cảnh giới hư vọng (khổ).
- Cảnh giới
hư vọng (khổ)trở lại huân tập vọng tâm, sanh ra vọng niệm chấp
trước (hoặc) tạo ra các nghiệp (nghiệp) rồi chịu quả khổ về
thân và tâm v.v...(khổ).
- Cũng như 12
nhơn duyên: Từ vô minh (hoặc) làm duyên cho hành(nghiệp), hành
làm duyên cho thức, danh sắc, lục nhập, xúc thọ (khổ); thọ làm
duyên cho ái (hoặc) và ái làm duyên cho thủ, hữu (nghiệp) sanh
và lão tử (khổ) v.v...Ba đời nhơn quả, từ hoặc tạo nghiệp
(nhơn quá khứ), do nghiệp nên thọ khổ (quả hiện tại). Rồi khổ
lại mê hoặc tạo nghiệp, (nhơn hiện tại) và vì tạo nghiệp nên
phải chịu khổ về sau (quả vị lai), v.v...Như cái vòng tròn
không có mối. Bởi thế nên nói các pháp tạp nhiễm tương tục
sanh khởi lkhông dứt.
- CHÁNH VĂN
- Nói về cảnh
giới hư vọng (6 tuần) huân tập._ Cảng giới hư vọng (6 tuần)
huân tập có hai món: 1. Cảnh giới huân tập làm tăng trưởng
vọng niệm (Trí tướng và Tương tục tướng), 2. Cảnh giới huân
tập làm tăng trưởng chấp thủ (Chấp thủ tướng và Kế danh tự
tướng).
- Nói về vọng
tâm (nghiệp thức) huân tập._
- Vọng tâm
huân tập có hai món: 1. Vọng tâm (nghiệp thức căn bản) huân
tập lại căn bản vô minh (làm cho tạng thức bất đoạn) làm cho
các vị Bồ Tát, A la hán, Bích Chi Phật (Duyên giác) phải thọ
khổ "Biến dịch sanh tử" (sanh tử biến đổi). 2. Vọng tâm (phân
biệt sự thức) huân tập chi mạt vô minh (tức là bốn món Thô
trước) làm cho chúng phàm phu chịu khổ "phần đoạn sanh tử".
- Nói về vô
minh huân tập._vô minh huân tập có 2 món: 1. Căn bản vô minh
huân tập vào chơn như làm thành tựu nghiệp thức (Tạng thức),
2. Chi mạt vô minh (kiến, ái) huân tập vào vọng tâm làm thành
tựu (tăng trưởng) phân biệt sự thức (ý thức)
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về 3 loại huân tập (còn loại thứ tư, là chơn như huân tập,
sẽ nói trong bài sau), từ thô về tế:
- 1. Cảnh
giới hư vọng 6 trần huân tập vào vọng tâm, nuôi lớn chi mạ vô
minh, cũng gọi nhuận sanh vô minh, tức là Niệm (Trí tướng và
Tương tục tướng) và thủ (chấp thù tướng).
- 2. Vọng tâm
(nghiệp thức) huân tập lại vô mibnh, nuôi lớn hai món khổ sanh
tử của phàm phu và Thánh giả:
- a. Vì vọng
tâm (nghiệp thức huân tập vào căn bản vô minh, nuôi lớn "vọng
niệm", làm cho Tạng thức (A lai da) bất đoạn, nên các vị Bồ
Tát, Duyên giác, A la hán phải bị khổ biến dịch sanh tử.
- b.Vì vọng
tâm phân biệt sự thức (ý thức) huân tập vào chi mạt vô minh,
(Trí tướng, Tương tục tướng, Chấp thủ tướng và Kế danh tự
tướng, tức là kiến hoặc và tư hoặc) nuôi lớn "chấp thủ", làm
cho 7 thức trước tương tục mãi mãi, nên chúng phàm phu phải bị
khó phân đoạn sanh tử.
- 3. Vô minh
huân tập làm thành tựu nghiệp thức và phân biệt sự thức: a. Vì
căn bản vô minh huân tập vào chơn như, nên làm thành tựu
nghiệp thức, tức là A lại da thức, b. Vì chi mạt vô minh
(Kiến: Kiến hoặc; Ái: tư hoặc) huân tập vào vọng tâm (nghiệp
thức), nên làm thành tựu phân biệt sự thức tức là thức. Nói
chung là bảy thức trước. Vì bảy thức trước phân biệt các sự
vật, rồi chấp ngã, chấp pháp, nên các sự vật mới thành như thế
này, hoặc như thế nọ. Bởi thế nên gọi là phân biệt sự thức.
- Đã nói "Do
huân tập nên các pháp tạp nhiễm sanh khởi không dứt" rồi; tiếp
theo đây sẽ nói: "Do huân tập nên các pháp thanh tịnh sanh
khởi không dứt".
-
DO HUÂN TẬP NÊN
CÁC PHÁP THANH TỊNH SANH KHỞI KHÔNG DỨT
- CHÁNH VĂN
- Huân tập
thế nào, mà các pháp thanh tịnh sanh khởi không dứt?_ Do chơn
như huân tập vô minh, nên làm cho hành giả khởi vọng tâm nhàm
chán khổ sanh tử, cầu vui Niết bàn. Nhờ công năng chán khổ
sanh tử, ưa thú vui Niết bàn của vọng tâm đó, trở lại huân tập
vào chơn như, nên hành giả mới tự tin tánh Phật (khả năng
thành Phật) của mình, (ở vị Thập tín) và biết cảnh giới hiện
tiền không thẫt có, chỉ do tâm vọng động hiện ra (thập trụ)
rồi tu hành để xa lìa các nhiễm ô (thập hạnh và Thập hồi
hướng). Khi biết xác thực, không có cảnh giới hiện tiền (Sơ
địa) hành giả mới dùng các phương tiện tu hành (từ Nhị địa đến
Cửu địa) và khởi ra hạnh tuỳ thuận chơn tâm, không chấp thủ
(Chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng) không vọng niệm (Trí
tướng và Tương tục tướng) và tu hành trải qua nhiều kiếp lâu
xa (Thập địa).
- Tóm lại,
nhờ sức chơn như huân tập này, nên vô minh diệt (Nghiệp tướng
diệt). Vì vô minh diệt nên tâm không vọng động (Chuyển tướng
diệt); do tâm không vọng động nên cảnh giới cũng theo đó mà
diệt (Hiện tướng diệt). Do vô minh (nhơn) và cảnh giới (duyên)
đều diệt, nên các tướng vọng nhiễm của tâm cũng diệt hết (Lục
thô diệt hết). Lúc bấy giờ, gọi là chứng Niết bàn, và hành giả
được diệu dụng không thể nghĩ bàn (tự nhiên nghiệp).
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói do huân tập mà các pháp thanh tịnh sanh khởi không dứt.
- Bên trong nhờ tánh Phật (chơn
như) huân tập vô minh, nên làm cho hành giả phản tỉnh, nhàm
khổ sanh tử cầu vui Niết bàn. Bên ngoài nhờ sự phản tỉnh này,
trở lại huân tập vào tánh Phật (chơn như) làm cho hành giả
giác ngộ cảnh giới này không thật, nên đã không sanh tâm tham
luyến và tạo nghiệp; trái lại, còn tuỳ thuận theo tánh Phật tu
hành, phá trừ Tam tế Lục thô, trải qua bao vô số kiếp và 56
địa vị, từ Thập tín đến quả Phật.
- Vì bên
trong vô minh, bên ngoài cảnh giới đều đã diệt nên vọng tâm
cũng diệt; do vọng tâm diệt, nên tánh Phật (chơn như) mới hiện
ra, gọi đó là cảnh Niết bàn. Lúc bấy giờ hành giả được rất
nhiều diệu dụng hoá độ chúng sanh không thể nghĩ bàn.
- Chúng ta
nên lưu ý đặc điểm này: khi mê thì vô minh làm cho vọng tâm
tạo ra các tội khổ sanh tử triền phược; đến lúc ngộ thì chơn
như (tánh Phật) làm cho vọng tâm phản tỉnh và tiến tu đến đạo
quả Bồ Đề, Niết bàn.
- Cũng như
một cây gươm, nếu kẻ giặc cầm thì sát nhơn vô đạo; còn người
anh hùng tướng sỉ cầm, thì bảo vệ non sông. Bởi thế nên người
tu hành, chỉ đổi cái "Dụng" mà thôi, chớ không phải trừ bỏ cái
"Thể" vậy.
- CHÁNH VĂN
- Lại nữa,
vọng tâm huân tập có hai thứ:
- 1. Ý thức
huân tập (phân biệt sự thức), làm cho chúng phàm phu và Nhị
thừa nhàm chán khổ sanh tử, và tuỳ theo năng lực của mình, lần
lần tu hành đến Đạo vô thượng Bồ Đề.
- 2. Ý huân
tập, làm cho các vị Bồ Tát phát tâm dõng mãnh, mau đến quả
Niết bàn.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
giải thích, vọng tâm huân tập trở lại chơn như, có hai loại:
- 1. Ý thức
(thức thứ sáu) huân tập vào chơn như; nghĩa là do công năng
phản tỉnh của ý thức, huân tập trở lại tánh Phật saün có (chơn
như), nên làm cho chúng phàm phu và hàng Nhị thừa nhàm chán
khổ sanh tử, phát tâm tu hành, lần lần đến đạo vô thượng Bồ
Đề.
- 2. Ý (tương
tục ý) huân tập trở lại chơn như; nghĩa là do công năng phản
tỉnh của ý, huân tập trở lại tánh Phật (chơn như), nên làm cho
hàng Bồ Tát , phát tâm dõng mãnh tu hành, mau được quả Niết
bàn.
- Trên đã nói
vọng tâm huân tập vào chơn như, có thô và tế không đồng rồi;
tiếp sau đây sẽ nói chơn như huân tập vô minh, có "thể" và
"dụng" không đồng.
- HẾT QUYỂN THƯỢNG
--o0o--
|
|