|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ X -
XI
- LUẬN ĐẠI
THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ
9
- CHƯƠNG THỨ BA
-
PHẦN GIẢI
THÍCH
-
NÓI VỀ Ý NGHĨA
"BẤT GIÁC"
-
(Tiếp Theo)
- --- o0o ---
-
k. NÓI VỀ BỐN
MÓN HUÂN TẬP
- (tiếp theo
và hết)
- CHÁNH VĂN
- Nói về chơn
như (pháp thanh tịnh) huân tập. Chơn như huân tập vô minh, có
hai phần:
- 1. Thể
tướng chơn như huân tập
- 2. Diệu
dụng chơn như huân tập.
- Nói về thể
tướng chơn như huân tập vô minh: tất cả chúng sanh từ vô thỉ
đến nay, đều saün có bản thể chơn như (tánh Phật) vaø có đủ
các công dụng (diệu dụng chơn như ) không thể nghĩ bàn, sanh
ra các cảnh giới. Do thể tướng và công dụng của chơn như (tánh
Phật) thường huân tập vô minh, nó thúc đẩu chúng sanh chán khổ
sanh tử, cầu vui Niết bàn, và tự tin mình có saün chơn như
(tánh Phật) nên tự phát tâm tu hành để thành Phật.
- LƯỢC GIẢI
- Trong kinh
chép: "Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật " (khả năng thành
Phật). Tánh Phật này, cũng gọi là chơn như, Pháp tánh hay
Chánh nhơn Phật tánh v.v...Nhờ saün có tánh Phật (giống Phật)
nên chúng sanh tu hành mới được thành Phật.
- Tánh Phật
này thanh tịnh vô lậu, và có diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nó
thường huân tập vô minh, làm cho chúng sanh tự tin mình có khả
năng thành Phật, nên phát tâm tu hành, chán khổ sanh tử cầu
vui Niết bàn. Nếu không nhờ tánh Phật này thúc giục, thì chúng
sanh không biết chừng nào mới phát tâm tu hành, cầu quả giải
thoát.
- CHÁNH VĂN
- Hỏi:_ Nếu
tất cả chúng sanh đều saün có Chơn như (tánh Phật) và đồng
huân tập vô minh thì tất cả chúng sanh phải đồng thời tự tin
minh có chơn như (tánh Phật), đồng thời phát tâm tu các pháp
lành và đồng thời chứng quả Niết bàn; tại sao có vô cùng sai
khác: kẻ tin người không, kẻ tu trước, người tu sau, có kẻ đã
nhập Niết bàn, còn người chưa nhập?.
- LƯỢC GIẢI
- Do trước
nói: "Tất cả chúng sanh đều saün có tánh Phật, và nhờ tánh
Phật này huân tập vô minh, nên làm cho chúng sanh nhàm cảnh
khổ sanh tử, ưa vui Niết bàn v.v.." nên mới có câu hỏi này.
Trong câu hỏi này có hai điều nghi:
- ĐIều nghi
thứ nhứt: chúng sanh đã saün có tánh chơn như, bình đẳng nhu
nhau, tại sao lại có vô số những sự sai khác, không bình đẳng,
như kẻ đần độn, người thông minh, kẻ chánh người tà, kẻ tin
người không v.v...
- ĐIều nghi
thứ hai: chúng sanh đã đồng nhờ chơn như huân tập vào vô minh,
nên phát tâm tu hành v.v...Vậy thì phải đồng thời phát tâm,
đồng thời tự tin mình có tánh Phật và đồng thời tu, đồng thời
chứng v.v...tại sao có vô cùng những sự sai khác, không bình
đẳng, như kẻ tu trước người tu sau, kẻ mau ngộ đạo người chậm
chạp v.v...
- CHÁNH VĂN
- Đáp:_ Từ
hồi nào đến giờ chơn như vẫn một; song vô minh có vô lượng vô
biên, tánh chất khác nhau, dày mỏng không đồng.
- Do vô minh
này mà sinh ra các phiền não sai khác (Sở tri chướng) nhiều
hơn số cát sông Hằng. Cũng do vô minh này mà sanh ra các phiền
não sai khác, như ngã kiến, ái nhiễm v.v...(phiền não chướng).
- Tóm lại,
tất cả phiền não (phiền não chướng, sở tri chướng) đều do vô
minh sanh khởi, hoặc trước hoặc sau vô cùng sai khác.
- (Đoạn này
đã nói "vô minh sai khác không đồng", tiếp theo đây sẽ nói
"ngoại duyên không phải một").
- Lại nữa,
trong Phật pháp nói: "Tất cả các pháp đều do nhơn duyên sanh;
nhơn duyên đầy đủ mới được thành tựu".
- Thí như
chất lửa trong cây là "Chánh nhơn" của lửa. Song, nếu không có
"trợ duyên" là người biết lấy lửa, và các phương tiện như bùi
nhùi, (bổi) công người cọ sát v.v...thì lửa kia không thể tự
phát sanh ra được.
- Cũng vậy,
chúng sanh tuy saün có tánh Phật (chơn như) là cái "nhơn
chánh" để thành Phật; song nếu không có "ngoại duyên" là gặp
các đức Phật, Bồ Tát và Thiện tri thức v.v...dẫn dắt chỉ dạy
cho phương pháp tu hành, thì hành giả cũng không thể tự mình
đoạn trừ phiền não và tu chứng Niết bàn được.
- Trái lại,
nếu chỉ có "ngoại duyên" mà không có chơn như là cái "nhơn
chánh" để thành Phật, huân tập bên trong, thì hành giả cũng
không thể tự mình chán khổ sanh tử, cầu vui rốt ráo Niết bàn
được.
- Bởi thế
nên, phải có nội nhơn và ngoại duyên đều đầy đủ; nghĩa là bên
trong nhờ tánh Phật (chơn như) làm "chánh nhơn" huân tập; bên
ngoài nhờ đức từ bi và đại nguyện của Phật, Bồ Tát giúp hộ làm
"trợ duyên", thì hành giả mới chán khổ sanh tử, tin có cõi
Niết bàn và phát tâm tu tập các pháp lành. Nhờ tu tập các pháp
lành được thuần thục, nên hành giả mới gặp chư Phật Bồ Tát thị
hiện, chỉ dạy những điều lợi lạc. Lúc bấy giờ hành giả mới
tinh tấn tu hành, để đến đạo quả Niết bàn.
- LƯỢC GIẢI
- đồng phát
tâm, đồng tu và đồng chứng như nhau. Song, có sự vô cùng sai
khác, không đồng nhau như kẻ phát tâm tu hành, người huỷ bán,
kẻ đã thành Phật, người còn trần luân là vì hai nguyên nhơn
sau này:
- 1. Vô
minh không đồng. _ Mỗi chúng sanh có rất nhiều lớp vô
minh: có thứ vô minh thuộc về căn bản, có thứ vô minh thuộc về
chi mạt; có thứ sâu dày, có thứ mỏng cạn, có thứ thô phù dễ
trừ, có thứ tế nhị khó đoạn. Do các thứ vô minh này sanh ra
hằng hà sa số phiền não. Nhưng trong số phiền não này, tóm lãi
có hai chướng: phiền não chướng và sở tri chướng (cũng gọi là
trần sa hoặc).
- Vì đoạn trừ
vô minh có khó dễ, mau chậm khác nhau, nên chúng sanh phát tâm
tu hành và chứng quả không đồng thời.
- 2. Hoàn
cảnh không đồng._ Mỗi chúng sanh đều có mỗi hoàn cảnh khác
nhau, hoàn cảnh tức là các duyên chung quanh.
- Chứng được
đạo quả vô thượng Bồ Đề, phải có đủ cả nhơn và duyên. Nhơn là
chơn như hay Phật tánh, huân tập bên trong; Duyên là những
hoàn cảnh giúp đỡ bên ngoài, như Phật, Bồ Tát và Thiện hữu tri
thức dạy bảo dẫn dắt v.v...Nếu chỉ có Nhơn mà thiếu Duyên,
hoặc có Duyên mà thiếu Nhơn, thì cũng không thành.
- Thí như
trong cây có saün chất lửa là "nhơn chánh"; song phải nhờ cát
"trợ duyên" là hoàn cảnh bên ngoài, như người biết lấy lửa và
bổi v.v...thì lửa ấy mới phát sanh được. Nếu thiếu một (Nhơn
hoặc Duyên) thì lửa không thể xuất hiện được.
- Bởi hoàn
cảnh của mỗi chúng sanh không đồng nhau, nên sự phát tâm tu
hành và chứng quả không thống nhất. Đây là lý do thứ hai.
- Phật tánh
có 3:
- 1. Chánh
nhơn Phật tánh: Chơn như là cái nhơn chánh để thành Phật;
dụ như chất lửa saün có trong cây.
- 2. Duyên
nhơn Phật tánh: Phật, Bồ Tát , Thiện hữu tri thức và kinh
sách v.v...là trợ duyên để thành Phật; dụ như người biết lấy
lửa và bổi v.v...
- 3. Liễu
nhơn Phật tánh: Chánh nhơn và trợ duyên đều đầy đủ, làm
cho hành giả phát hiện được (liễu ngộ) tánh Phật của mình; dụ
như lửa trong cây đã phát cháy.
- CHÁNH VĂN
- Nói về diệu
dụng chơn như huân tập:
- Đây là các
trợ duyên bên ngoài của hành giả; có rất nhiều thứ trợ duyên,
nhưng tóm lại có 2 loại:
- 1. Duyên
sai biệt, 2. Duyên bình đẳng.
- 1. Duyên
sai biệt: Từ khi mới phát tâm cầu đạo, cho đến thành Phật,
trong khoảng thời gian ấy, hành giả hoàn toàn nhờ chư Phật và
Bồ Tát gia hộ cho trên đường tu hành. Vì tâm đại bi, nên Phật
và Bồ Tát hoặc hiện làm người thân thuộc, như cha mẹ (để dạy
bảo hành giả) hoặc hiện làm Thiện hữu tri thức (để nhắc nhở),
hoặc hiện làm người tôi tớ hầu hạ (để khuyên lơn), hoặc hiện
làm kẻ oan gia (như Đề bà đạt da v.v.. để xúc khích) hoặc dùng
Tứ nhiếp pháp (để cảm hoá), cho đến làm không biết bao nhiêu
công hạnh, để huân tập cho hành giả; làm cho hành giả hoặc nhớ
nghĩ công đức của các Ngài, hoặc thấy hình tướng, hoặc nghe
thuyết pháp, mà được lợi ích và tăng trưởng căn lành.
- Các duyên
sai khác này, chia làm hai loại:
- a) Duyên
gần, làm cho hành giả mau đặng Bồ Đề (hiện tiền chứng đạo).
- b) Duyên
xa, làm cho hành giả về sau mới đặng tế độ (nhiều kiếp về sau
mới đặng đạo).
- Hai món
duyên gần và xa này, lại chia làm hai loại nữa: Duyên làm cho
hành giả được thọ đạo pháp và Duyên làm cho hành giả tăng
trưởng đạo hạnh.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về diệu dụng chơn như của chư Phật và Bồ Tát huân tập cho
chúng sanh. Chư Phật và Bồ Tát đã chứng được bản thể chơn như,
nên tự nhiện có diệu dụng không thể nghĩ bàn.
- Do lòng Đại
bi và Đại nguyện của chư Phật và Bồ Tát, tuỳ theo trình độ của
chúng sanh phát tâm cầu đạo, nên từ diệu dụng của chơn như,
ứng hiện ra các thân hình v.v.. làm trợ duyên bên ngoài, để
giúp cho chúng sanh được thành đạo quả. Nhưng các duyên này,
có chia làm hai loại:
- 1. Duyên
sai biệt: Do trình độ của chúng sanh không đồng, sự phát
tâm của mỗi người mỗi khác, nên chư Phật và Bồ Tát thị hiện
phải có sai khác (Duyên sai biệt).
- 2. Duyên
bình đẳng: Do đồng thể đại bi, nên chư Phật và Bồ Tát phát
nguyện độ sanh, bình đẳng làm lợi ích.
- Đoạn này
nói về "Duyên sai biệt".
- Chư Phật và
Bồ Tát thị hiện rất nhiều phương tiện để độ sanh; nhưng không
ngoài 5 việc như sau:
- a) Vì muốn
dùng từ ái, để dẫn dắt hành giả, nên hiện làm cha mẹ.
- b) Vì muốn
dùng việc hầu hạ, để gần gũi hành giả đặng khuyên lơn, nên
hiện làm kẻ tôi tớ.
- c) Vì muốn
dùng việc cộng sự, để giúp cho hành giả, nên hiện làm Thiện
hữu tri thức.
- d) Vì muốn
xúc khích hành giả trên đường tu hành, nên hiện làm kẻ oan gia
(như Đề bà đạt da).
- đ) Vì muốn
cảm hoá người, nên dùng Tứ nhiếp pháp.
- Tất cả những phương tiện này,
đều do lòng từ bi của Phật và Bồ Tát mà khởi hiện, làm trợ
duyên để huân tập cho hành giả tăng trưởng căn lành và được
nhiều lợi ích.
- Các duyên sai biệt này chia
làm 2 loại:
- 1. Duyên
gần; nghĩa là hành giả sớm được tế độ. Như khi Phật còn
tại thế, những chúng sanh được hoá độ.
- 2. Duyên
xa; nghĩa là hành giả chậm được tế độ. Như khi Phật Đại
Thông Trí Thắng ra đời, đức Thích Ca làm đệ tử Ngài, cho đến
thời kỳ này mới được thành Phật.
- Tất cả những phương tiện này,
đều giúp cho hành giả được lãnh thọ đạo pháp và tăng trưởng
đạo hạnh.
- CHÁNH VĂN
- 2. Duyên
bình đẳng: Tất cả chư Phật và Bồ Tát đều phát nguyện độ thoát
tất cả chúng sanh. Do sức bi trí đồng thể tự nhiên huân tập,
nên các Ngài thường hằng tuỳ thuận chúng sanh nào muốn thấy
Phật nghe Pháp, thì đều bình đẳng hiện ra để hoá độ, không bỏ
một chúng sanh nào. Bởi thế nên chúng sanh khi ở trong thiền
định, đều được bình đẳng thấy Phật.
- LƯỢC GIẢI
- Chư Phật và
Bồ Tát đã chứng đến chỗ đồng thể (Phật và chúng sanh đồng một
bản thể) nên các Ngài tự thấy chúng sanh còn đau khổ, thì mình
còn đau khổ; chúng sanh còn trầm luân, thì mình chưa giải
thoát.
- Bởi thế nên
từ chỗ đồng thể ấy, các ngài khởi Đại bi, Đại trí và phát Đại
nguyện. Như Ngài Địa tạng Bồ Tát thề rằng: "chúng sanh độ tận,
phương chứng Bồ Đề. Địa ngục vị không, thệ bất thành
Phật".(nghĩa là độ hết chúng sanh mới chứng Bồ Đề; nếu địa
ngục còn tội nhơn, thì tôi thề không thành Phật).
- Đức A Nan
thề rằng:"Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập. Như nhứt chúng sanh
vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn". Nghĩa là: Trong
đời tội ác 5 trược, tôi thề xung phong vào trước, để độ chúng
sanh. Nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì tôi thề
không chịu chứng quả Niết bàn.
- Do sự thúc
dục của đồng thể bi trí này, nên các Ngài thường hằng tuỳ
thuận tất cả chúng sanh, bình đẳng hoá độ. Như Ngài Phổ hiền
Bồ Tát thường hiện thân cho người thấy; đức Quán Thế Âm Bồ Tát
thì ứng hiện 32 thân v.v..
- Nếu chúng
sanh nào tâm thanh tịnh, thì được thấy chư Phật và bt (chúng
sanh tâm nhược tịnh, Bồ Đề ảnh hiện trung).
- Sự ứng hiện
ấy rất tự nhiên và bình đẳng, cũng như ao nước nào trong, thì
tự nhiên có trăng bình đẳng hiện vào.
- Trên đã nói
diệu dụng chơn như của chư Phật, Bồ Tát, khi đã được hiển lộ
rồi; còn chơn như của chúng sanh chưa hiển lộ thì diệu dụng
thế nào? Hãy xem đoạn dưới đây:
- CHÁNH VĂN
- Thể và Dụng
của chơn như huân tập, lại chia làm hai loại:
- 1. Chưa
chứng nhập (tương ưng) chơn như.
- 2. Đã chứng
nhập chơn như.
- 1. Chưa
chứng nhập chơn như: Chúng phàm phu, hàng Nhị thừa và các vị
Bồ Tát mới phát tâm (Tam hiền), do ý và ý thức huân tập mà
phát tâm, và chỉ nương nơi sức tin của mình (tin tánh Phật ở
nơi mình) mà tu hành; vì chưa chúng nhập (tương ưng) bản thể
chơn như, nên chưa được vô phân biệt tâm (vô phân biệt trí,
tức là căn bản trí); vì chưa đặng diệu dụng của chơn như, nên
sự tu hành chưa được diệu dụng tự tại (sai biệt trí hay hậu
đắc trí).
- 2. Đã chứng
nhập chơn như: Các vị Bồ Tát đã chứng Pháp thân (THập địa Bồ
Tát), chỉ nương nơi Pháp tánh (Pháp lực) tu hành (thuận tánh
khởi tu), tự nhiên huân tập vào chơn như, nên diệt được vô
minh. Các vị Bồ Tát này đã được vô phân biệt tâm (căn bản
trí), vì đã chứng nhập được bản thể chơn như; và đã được Sai
biệt trí (Hậu đắc trí), vì đã được diệu dụng của chơn như (dữ
Phật trí dụng tương ưng).
- LƯỢC GIẢI
- Thể chơn
như không hai, song vì còn ở trong vỏ chúng sanh hay đã thoát
ra ngoài, mà diệu dụng có rộng hẹp chẳng đồng; vì thế nên phân
làm hai loại:
- 1. Người
chưa chứng nhập được chơn như: chơn như còn bị các phiền
não nhiễm ô triền phược (tại triền), chưa được hiển lộ; như
vàng còn ở trong khoáng.
- Chúng phàm
phu, hàng Nhị thừa và các vị Bồ Tát còn ở địa vị tam hiền, đều
từ vọng thức phân biệt mà phát tâm; do tự tin nơi mình có tánh
Phật mà tu hành. Vì chưa chứng nhập "thể" và "dụng" của chơn
như, nghĩa là chơn như còn bị triền phược, chưa được hiển lộ,
nên các vị này chưa được căn bản trí (vô phân biệt trí) và hậu
đắc trí (sai biệt trí).
- 2. Người
đã chứng nhập chơn như: chơn như đã được hiển lộ ra khỏi
vỏ phiền não nhiễm ô triền phược; như vàng đã ra khỏi khoáng.
- Các vị Bồ
Tát từ Sơ địa cho đến Thất địa, mới nhập được bản thể chơn
như; từ Bát địa đến Phật mới được Diệu dụng của chơn như. Các
vị này, tuỳ theo tánh chơn như mà tu hành, nên diệt trừ được
vô minh. Vì đã chứng nhập Thể và Dụng của chơn như, nên các vị
Bồ Tát nầy được hai món trí:
- Căn bản trí
(Vô phân biệt trí) và Hậu đắc trí (Sai biệt trí).
- Đã nói
nhiễm và tịnh huân tập nhau rồi, dưới đây sẽ nói nhiễm và
tịnh, cái nào có cùng tận, cái nào không cùng tận.
--o0o--
|
|