|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ X -
XI
- LUẬN ĐẠI
THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ
12
- CHƯƠNG THỨ BA
-
PHẦN GIẢI
THÍCH
- B. ĐỐI
TRỊ CÁC CHẤP SAI LẦM
- --- o0o ---
- CHÁNH VĂN
- Tất cả các
chấp sai lầm (tà chấp), đều do chấp ngã và chấp pháp mà sanh;
nếu rời chấp ngã và chấp pháp thì không còn các chấp sai lầm.
-
I. CHẤP NGÃ
(chấp bản ngã thật có).
- Chúng phàm
phu chấp ngã có 5 thứ:
- 1. Chấp "Hư
không là chơn tánh của Như Lai". _ Vì phá chấp của chúng sanh
nên trong kinh Phật nói:" Pháp thân của Như Lai rốt ráo vắng
lặng cũng như hư không". Chúng phàm phu nghe nói như thế,
không hiểu, lại lầm chấp:"Hư không là chơn tánh của Như Lai".
- Vì đối trị
cái chấp sai lầm này, nên phải giải thích rằng:"Hư không là
pháp hư đối, không có thật thể, do đối với sắc tướng mà thấy
có hư không; nếu không có sắc tướng thì cũng không có tướng hư
không. Nghĩa là từ hồi nào đến giờ, tất cả cảnh giới (sắc
pháp) đều do vọng tâm biến hiện, không có pháp nào ngoài tâm;
chúng sanh không biết vọng chấp (biến kế chấp) là thật có. Nếu
vọng tâm hết, thì các cảnh giới cũng không còn. Lúc bấy giờ
chỉ còn chơn tâm hiện khắp tất cả. Đó là pháp thân quảng đại
thuộc về tâm trí (tánh trí) của Như Lai không phải như hư
không, không có tri giác.
- LƯỢC GIẢI
- Đối trị
chấp tà là phá trừ các sự chấp nhứt sai lầm. Các sự chấp nhứt
sai lầm đều do chấp ngã, chấp pháp mà sanh. Nếu phá trừ được
chấp ngã, chấp pháp thì các chấp sai lầm không còn.
- Vì quan
niệm thân tâm là thật, nên gọi là chấp ngã quan niệm vũ trụ
vạn vật là thật, thì gọi là chấp pháp.
- Chúng sanh
chấp pháp thân của Phật có hình tướng như thế này, hoặc như
thế kia v.v....Vì muốn phá các chấp sai lầm ấy, nên Phật nói:
"Pháp thân của Phật rốt ráo vắng lặng, cũng như hư không".
- Nghe trong
kinh nói như vậy, chúng sanh trở lại chấp:"Hư không là pháp
thân của Như Lai" vì phá cái chấp sai lầm này, nên Ngài Mã
Minh giải thích rằng:"Hư không là cái không thật thể, do các
sắc tướng mà thấy có hư không. Nếu không có sắc tướng thì cũng
không có hư không. Cả sắc tướng và hư không đều do vọng tâm
biến hiện; rồi chúng sanh lầm chấp là thật có. Nếu vọng tâm
hết thì sắc tướng và hư không cũng không còn. Lúc bấy giờ bản
thể chơn tâm hiện ra, rộng lớn bao la và trùm khắp tất cả. Đó
là pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Đây thuộc về phần tâm
trí, không phải như hư không, không có tri giác.
- CHÁNH VĂN
- 2. Chấp
"Chơn như hay Niết bàn, chỉ là không không, chẳng có chi hết".
_ Vì phá vọng chấp của chúng sanh, nên trong kinh Phật
nói:"các pháp thế gian rốt ráo không có thật thể; cho đến các
pháp xuất thế gian, như Chơn như hay Niết bàn rốt ráo, cũng
không có thật thể; từ hồi nào đến giờ, nó không có các tướng".
Chúng phàm phu nghe nói như vậy không hiểu, trở lại chấp:"Chơn
như hay Niết bàn là không có chi hết".
- Vì đối trị sự chấp sai lầm
này, nên phải giải thích rằng:"Chơn như hay Pháp thân của
Phật, chẳng phải không có tự thể; nó saün có và đầy đủ vô
lượng công đức".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn trên
phá quan niệm sai lầm, chấp "hư không là chơn tánh của Như
Lai"; đoạn này phá quan niệm sai lầm, cho rằng "Chơn như hay
Niết bàn là cảnh giới hư không ảo tưởng không có chi hết".
- Chúng sanh
thường lầm tưởng:"Các pháp thật có". Vì phá trừ quan niệm sai
lầm ấy, nên trong kinh Phật nói:"các pháp thế gian hư giả
không thật, cho đến các pháp xuất thế gian như Chơn như, Bồ
Đề, Niết bàn v.v...rốt ráo cũng không có thật thể, vì không có
các hình tướng". Chúng phàm phu nghe nói như vậy không hiểu,
trở lại chấp:"Chơn như hay Niết bàn v.v...là cảnh giới hư vô
ảo tưởng, chẳng có chi hết".
- Để đối trị
sự chấp sai lầm này, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát giải thích
rằng:"Chơn như, Pháp thân hay Bồ Đề, Niết bàn không phải là
cảnh giới ảo tưởng hư vô, không có gì cả, mà nó saün có đầy đủ
vô lượng đức tánh, nhiều hơn số cát sông Hằng, như: thiện,
thường, lạc, ngã, tịnh, giải thoát v.v....
- CHÁNH VĂN
- 3. Chấp
"Như Lai tạng" có các hình tướng sai khác như Sắc và Tâm
v.v... _ Nghe trong kinh Phật nói:"Như Lai tạng không tăng
không giảm, saün đủ tất cả các công đức"; chúng phàm phu vì
không hiểu nghiã này, nên trở lại chấp:" Như Lai tạng có đủ
các hình tướng sai khác, như sắc và tâm v.v....".
- Để đối trị
sự chấp sai lầm này, nên phải giải thích rằng: "Căn cứ về thể
Chơn như thì không có các tướng sai khác; còn theo tướng nhiễm
ô sanh diệt, thì có các hình tướng sai khác".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
phá quan niệm sai lầm cho rằng: "Chơn" đồng với "Vọng".
- Nghe trong
kinh Phật nói: "Như Lai tạng không tăng không giảm, saün có đủ
tất cả đức tánh, chùng phàm phu không hiểu trở lại chấp: "Như
Lai tạng cũng có các hình sắc sai khác".
- Để đối trị
quan niệm sai lầm này, Ngài Mã Minh giải thích rằng: "Thể Chơn
như" (Chơn như môn) thì thanh tịnh không có các hình tướng sai
khác, còn về ":tướng sanh diệt" (Sanh diệt môn) thì đủ các
hình tướng sai khác".
- CHÁNH VĂN
- 4. Chấp
"Trong Như Lai tạng thật có đủ các pháp sanh tử nhiễm ô"._
Nghe trong kinh Phật nói: "Các pháp sanh tử nhiễm ô của thế
gian, đều do Như Lai tạng mà có, tất cả các pháp đều không rời
Chơn như", chúng phàm phu không hiểu nghĩa này, lại chấp:
"Chính trong bản thể Như Lai tạng, saün có tất cả các pháp
sanh tử nhiễm ô của thế gian".
- Để đối trị
cái chấp sai lầm này, nên giải thích rằng: "Từ vô thỉ tới giờ,
trong Như Lai tạng, chỉ có các công đức thanh tịnh, nhiều hơn
số cát sông Hằng. Các công đức này không lìa, không đoạn và
cũng không khác với Chơn như; còn hằng hà sa số các pháp phiền
não nhiễm ô kia, chỉ là hư vọng, vốn không có thật tánh. Bởi
thế nên từ hồi nào đến giờ, trong Như Lai tạng chưa từng thật
có các pháp nhiễm ô. Nếu trong bản thể Như Lai tạng (chơn)
thật có các phiền não nhiễm ô, rồi hành giả phải diệt trừ các
phiền não nhiễm ô, mới chứng được chơn như thanh tịnh, thì rất
vô lý.
- LƯỢC GIẢI
- Chúng phàm
phu nghe trong kinh Phật nói: "Các pháp sanh tử nhiễm ô đều do
Như Lai tạng mà có, các pháp không rời chơn như ": rồi họ chấp
"Trong Như Lai tạng hay chơn như, thật có saün các pháp sanh
tử nhiễm ô".
- Để phá quan
niệm sai lầm này, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát giải thích rằng: "Từ
hồi nào đến giờ, trong Như Lai tạng (chơn) chỉ có hằng hà sa
số đức tánh thanh tịnh, các đức tánh này không rời chơn như;
còn pháp sanh tử nhiễm ô, vì là hư vọng, không có thật thể,
nên từ hồi nào đến giờ, không có ở trong Như Lai tạng".
- Như Lai
tạng hay chơn như, dụ như "tâm người đương thức tỉnh": sanh tử
nhiễm ô, dụ như "giấc ngủ mà có chiêm bao". Đành rằng "cái nhủ
chiêm bao" là nương nơi "tâm người thức tỉnh" mà có; song từ
hồi nào đến giờ, trong "tâm người thức tỉnh" không bao giờ
thật có chứa saün "cái ngủ chiêm bao". Bởi "cái ngủ chiêm bao"
hư vọng không thật, nên khi thức giấc rồi thì nó tự mất. Cũng
thế, các pháp sanh tử nhiễm ô, vì hư vọng không thật, nên khi
giác ngộ rồi, nó không còn.
- Nếu quan
niệm rằng: "trong Như Lai tạng thật saün có các phiền não
nhiễm ô; hành giả phải diệt trừ hết các phiền não nhiễm ô, mới
chứng được chơn như thanh tịnh", thì không phải. Cũng như nói
" trong tâm người thức tỉnh, thật saün có "cái ngủ chiêm bao"
phải diệt trừ hết "cái ngủ chiêm bao" rồi, mới được thức
tỉnh": nói như thế rất là phi lý.
- Phải biết,
các phiền não sanh tử, chỉ là cái mê vọng, không có thật thể.
Phật đã dạy rằng: "Biết mình mê thì cái "mê" hết, cái "biết"
đó không sanh mê trở lại" (Giác mê mê diệt, giác bất sanh mê).
Cũng như người khi biết mình dại, thì không còn dại nữa. Lúc
bấy giờ họ trở thành khôn; khi khôn rồi, thì cái "khôn" đó
không sanh cái dại trở lại nữa.
- Nếu cái "dại" (mê) này thật
có, thì khi biết khôn (giác) rồi, cái "dại" đó trốn núp ở đâu?
Cũng như "cái ngủ chiêm bao" nếu thật có, thì khi tỉnh thức
rồi nó phải còn. Nhưng vì nó không còn, nên biết "cái ngủ
chiêm bao" (mê dại) này không thật có.
- Nếu nói
"phải diệt trừ hết các pháp sanh tử nhiễm ô mới chứng được
chơn như thanh tịnh" thì cũng như nói "phải phá trừ cho hết
"cái ngủ chiêm bao" rồi, mới được sự thức tỉnh"; nói như thế,
đều phi lý.
- Bởi thế nên
từ hồi nào đến giờ, trong Như Lai tạng hay Chơn như, không bao
giờ thật có sanh tử nhiễm ô; cũng như trong "tâm người thức
tỉnh", không bao giờ thật có "cái mê ngủ chiêm bao" vậy.
- CHÁNH VĂN
- 5. Chấp
"Chúng sanh có thỉ, chư Phật có chung tận"._ Chúng phàm phu
nghe trong kinh Phật nói: "Do Như Lai tạng mà có sanh tử, do
Như Lai tạng mà đặng Niết bàn". Vì họ không hiểu nên chấp:
"Chúng sanh hữu thỉ (có đầu tiên) và chư Phật chứng Niết bàn,
sẽ có ngày chng tận, rồi trở lại làm chúng sanh".
- Để đối trị cái chấp sai lầm
này, nên giải thích rằng: Như Lai tạng (Chơn như tại triền) và
vô minh đều có từ vô thỉ (không có đầu tiên). Nếu nói chúng
sanh (có sanh khởi đầu tiên) là kinh của ngoại đạo nói (kinh
Đại hữu), không phải kinh Phật.
- Lại nữa,
Như Lai tạng không có chung tận: chư Phật chứng Niết bàn là
thể nhập (tương ưng) Như Lai tạng, nên cũng không có chung
tận.
- LƯỢC GIẢI
- Chúng sanh
nghe trong kinh Phật nói: "Do Như Lai tạng mà có sanh tử, do
Như Lai tạng mà chứng Niết bàn"; rồi họ suy luận và chấp rằng:
vì do Như Lai tạng mà có sanh tử (Vô minh, chúng sanh); như
thế thì chúng sanh (sanh tử, vô minh) tất phải có sự bắt đầu
sanh khởi; (hữu thỉ) và do Như Lai tạng mà chứng Niết bàn, vậy
thì Niết bàn cũng có sự bắt đầu sanh khởi (hữu thỉ). Do đó
người ta kết luận: Chúng sanh đã hữu thỉ nên cũng hữu chung,
Niết bàn hữu thỉ nê cũng hữu chung. Bởi thế nên họ chấp chư
Phật chứng Niết bàn rồi, có ngày cũng cùng tận, phải trở lại
làm chúng sanh.
- Để đối trị
với chấp sai lầm này, nên Ngài Mã Minh giải thích, đại ý nói
"Chơn như và vô minh đồng thời có từ vô thỉ". Cũng như chất
ngọt và chất chát đồng thời có trong trái hồng. Song hành giả
khi chuyển phiền não trở lại Bồ Đề, chuyển sanh tử trở lại
Niết bàn, thì lúc bấy giờ chúng sanh không còn (chung tận), mà
chỉ còn Chơn như hay Phật. Cũng như khi trái hồng lớn chín,
đổi hết chất chát chỉ còn chất ngọt. Khi trái hồng đã chín
ngọt rồi, thì không bao giờ trở lại chát nữa. Cũng như khi đã
thành Phật rồi, không bao giờ trở lại làm chúng sanh nữa.
- Vậy nên
biết, vô minh (chúng sanh) vô thỉ mà hữu chung; Chơn như
(Phật) vô thỉ và vô chung.
- Kinh Phật
thì chép "Chúng sanh vô thỉ"; còn kinh Đại hữu của ngoại đạo
lại chép "Chúng sanh hữu thỉ".
- CHÁNH VĂN
-
II. CHẤP PHÁP
(chấp thật có vũ trụ vạn hữu).
- Đối với
hàng Nhị thừa, vì độn căn chấp ngã, nên trong kinh Phật nói:
"Chỉ có năm ấm sanh diệt, không có thật ngã". Nghe như thế,
hạng này trở lại chấp: "Thật có năm ấm sanh diệt" (chấp thật
pháp), nên họ rất sợ khổ sanh tử và cầu vui Niết bàn.
- Để đối trị
cái chấp sai lầm này, nên phải giải thích rằng: "Tánh của năm
ấm, từ hồi nào đến giờ, vốn là Niết bàn, không sanh và cũng
không diệt".
- LƯỢC GIẢI
- Năm ấm thật
sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Vì năm đám mây này che khuất
vừng trăng chơn như, nên gọi là "Ấm" (che).
- Để phá trừ
chấp ngã của hàng Nhị thừa độn căn, nên Phật nói: "chỉ có năm
ấm sanh diệt, không có thậ ngã". Lúc bấy giờ hạng nàykhông còn
chấp ngã, mà trở lại chấp pháp; nghĩa là chấp thật có năm ấm,
thật có khổ sanh tử và vui Niết bàn. Do đó, họ rất sợ sanh tử
và thích thú vui ở mãi mơi cảnh Niết bàn.
- Để phá trừ
cái chấp thật Pháp của Nhị thừa, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát giải
thích, đại ý nói: "Tướng của các pháp không thật, tánh nó là
chơn như, là Niết bàn, xưa nay không sanh, nên cũng không
diệt". Vì các pháp không thật có, nên Bồ Tát không sợ sanh tử
và không yên vui ở mãi nơi Niết bàn".
- Nếu nói một
cách đầy đủ, thì phải nói "vô ngã và vô pháp". Nhưng đây vì
đối với hành Nhị thừa, nên Phật chỉ mới nói "năm ấm vô
thường", chớ chưa nói đến "sanh tử tức chơn thường".
- CHÁNH VĂN
- Lại nữa,
nếu người rốt ráo xa lìa các vọng chấp, thì mới biết rõ các
pháp Nhiễm tịnh đều do đối đãi nhau mà thôi, thật ra không có
cái tướng gì có thể kêu gọi được. Bởi thế nên, từ hồi nào đến
giờ, tất cả các pháp, không phải sắc, không phải tâm, không
phải trí, không phải thức, không phải hữu, không phải vô, rốt
ráo không có tướng gì có thể gọi được. Song, sở dĩ Phật có nói
năng kêu gọi như thế này hoặc như thế kia, là vì đức Như Lai
khôn khéo, phương tiện tạm dùng lời nói để dẫn dắt chúng sanh,
mục đích là làm cho chúng sanh xa lìa các vọng niệm (ly niệm)
trở vể chơn như; nếu còn vọng niệm thì tâm phải sanh diệt, nên
chẳng nhập được trí Phật (thật trí: chơn như)
- LƯỢC GIẢI
- Từ hồi nào
đến giờ, tất cả các pháp, không phải sắc, không phải tâm,
không phải trí, không phải thức v.v...chỉ vì chúng sanh vọng
chấp phân biệt, so sánh (biến kế chấp) đối đãi với nhau mà
thành thế này hoặc thế kia, như đối với hữu gọi là vô, đối với
sắc gọi là tâm, đối với thức gọi là trí, đối với cao gọi là
thấp, đối với lớn gọi là nhỏ, đối với tốt gọi là xấu v.v...Nếu
chúng sanh rốt ráo xa lìa các vọng chấp thì thật không có một
pháp gì có thể kêu gọi được. Lúc bấy giờ hành giả mới thấy rõ
các pháp không thể kêu gọi (ly danh tự tướng), không thể nói
năng luận bàn (ly ngôn thuyết tướng), hay suy nghĩ được (ly
tâm duyên tướng).
- Chư Phật đã
hoàn toàn xa lìa các vọng chấp, song còn gọi pháp khổ, pháp
vui, nhiễm tịnh, sanh tử, Niết bàn v.v...là vì Phật phương
tiện tạm đặt ra những danh từ kêu gọi như thế, mục đích là để
dẫn dắt chúng sanh lìa các vọng niệm chấp trước, đặng nhập vào
chơn như hay trí Phật. Khi chúng sanh đã nhập vào chơn như hay
trí Phật rồi, lúc bấy giờ cũng không còn danh từ gì để kêu gọi
được.
- Bài này nói
về phần đối trị các chấp sai lầm rồi, đến bài thứ 13, sẽ nói
về hành tướng phát tâm đến đạo.
--o0o--
|
|