-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ X -
XI
- LUẬN ĐẠI
THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ
13
- CHƯƠNG THỨ BA
-
PHẦN GIẢI
THÍCH
- C. PHÂN
BIỆT HÀNH TƯỚNG PHÁT TÂM ĐẾN ĐẠO
- BA MÓN PHÁT
TÂM
- --- o0o ---
- CHÁNH VĂN
- Chữ
"Đạo"nói ở đây là chỉ cho đạo quả của chư Phật đã chứng ngộ và
cũng là cái chỗ của tất cả các vị Bồ Tát phát tâm tu hành để
hướng về.
- Sự phát
tâm, lược có 3 món: 1. Tín hoàn toàn (Tín thành tựu) mà phát
tâm, 2. Hiểu và tu (giải, hạnh) mà phát tâm, 3. Chứng nhập
chơn như mà phát tâm.
- LƯỢC GIẢI
- Luận này có
năm chương, trong chương thứ ba, có ba phần: phần đầu giải
thích về pháp Đại thừa; phần thứ hai, Ngài Mã Minh đả thông
những chấp sai lầm. Sau khi được rữa sạch các chấp sai lầm
rồi, hành giả mới phát tâm tu về pháp Đại thừa. Vì thế nên
tiếp đến phần thứ ba, Ngài Mã Minh phân biệt hành tướng phát
tâm tu về đạo quả Đại thừa.
- Đạo quả Đại
thừa là nơi chư Phật đã chứng, mà cũng là chỗ các vị Bồ Tát
đang hướng về đó.
- Sự phát tâm
tu về đạo quả Đại thừa, lược chia có ba hạng, từ cạn đến sâu:
- 1. Mãn địa
vị Thập tín (Tín hoàn toàn) phát tâm;
- 2. Địa vị
Tam hiền (Giải: Hiểu, Hành: tu) phát tâm;
- 3. Địa vị
Thập thánh đã chứng nhập chơn như phát tâm.
- Chữ "Phát
tâm" có hai nghĩa: 1. Lập chí cao rộng, 2. Phát triển tâm
tánh, hay phát minh tâm tánh.
- CHÁNH VĂN
- I. Tín hoàn
toàn (thành tựu) mà phát tâm
- Hỏi:_ Phải
là người thế nào và nhờ tu hạnh gì để thành tựu vị Thập tín,
mới phát tâm được?
- Đáp:_ Những
chúng sanh bất định (không nhất định chánh hay tà), nhờ sức
căn lành huân tập đời trước, làm cho họ tin nhơn quả, nên nhàm
khổ sanh tử, phát tâm tu thập thiện, để cầu đạo vô thượng Bồ
Tát.nhờ được đích thân hầu hạ, cúng dường chư Phật và tu hành
trải qua muôn kiếp, nên họ mới đặng thành tựu tím tâm. Do nhơn
duyên đó nên được gặp Phật, Bồ Tát dạy mà họ phát tâm; hoặc vì
lòng Đại bi, mà họ tự phát tâm; hoặc vì thấy chánh pháp sắp
diệt mà muốn duy trì nên họ tự phát tâm.
- Những người
như thế, được vào hàng chánh định, trọn không thối chuyển. Vì
họ đã hiệp với "Chánh nhơn Phật tánh", nên họ được gọi là
"giòng giống của Như Lai".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về Tín thành tựu phát tâm._Từ Sơ tín cho đến Thập tín thì
tín tâm mới hoàn toàn viên mãn nên gọi là "Tín thành tựu". Do
tín tâm vững chắc, lập cxhí nguyện cầu quả Phật vô thượng và
phát minh tâm tánh, nên gọi là "Tín thành tựu phát tâm".
- Hỏi:_ Hạng
người nào, tu hạnh gì, mới đặng hoàn toàn viên mãn vị Thập
tín, và làm sao phát tâm?
- Đáp:_ Những
người bất định chánh tà, hay căn trí chuưa nghiêng ngã bên nào
(Đại thừa hay Tiểu thừa) nếu gặp Tiểu thừa giáo hoá thì họ
thành thinh văn, Duyên giác, nếu gặp Đại thừa giáo hoá thì họ
thành Bồ Tát hay Phật. Nghững người ấy, do nhiều đời có trồng
căn lành và bên trong nhờ tánh Phật của họ thúc dục, bên ngoài
nhờ chánh pháp huân vào, làm cho họ tin đạo lý nhơn quả, rồi
nhàm cảnh trần gian là bể khổ sanh tử, nên phát tâm tu hành
cầu đạo giải thoát Niết bàn.
- Phát tâm tu
hành, phụng sự chánh pháp, hầu hạ Thiện hữu tri thức và cúng
dường chư Phật, làm những việc như thế, trải qua một vạn kiếp,
hành giả mới viên mãn địa vị Thập tín.
- Khi tín tâm
đã viên mãn thành tựu rồi, hoặc găp Phật hay Bồ Tát dạy họ
phát tâm hoặc do lòng Đại bi thúc dục làm cho họ phát tâm,
hoặc thấy chánh pháp suy đồi, muốn duy trì chánh pháp nên họ
phát tâm.
- Những người
được viên mãn vị Thập tín và phát tâm như thế, là đã hiệp với
"Chánh nhơn Phật tánh" vào hành "Chánh định", không còn bất
định hay thối chuyển nữa, nên họ cũng được gọi là "giòng giống
của Như Lai".
- CHÁNH VĂN
- Có những
chúng sanh, từ hồi nào đến giờ, căn lành mỏng ít, phiền não
sâu dày, tuy cũng gặp Phật cúng dường, song chỉ cầu phước báo
cõi nhơn thiên, hoặc tu theo Nhị thừa, hoặc họ có cầu pháp Đại
thừa, nhưng căn tánh chẳng quyết định, tấn thối không chừng;
hoặc họ cúng dường chư Phật, mà chưa đầy một vạn kiếp. Những
hạng người này cũng gặp nhơn duyên lành để phát tâm (như thấy
sắc tướng của chư Phật mà phát tâm, hoặc nhơn cúng dường chư
tăng mà phát tâm, hoặc nhơn gặp hàng Nhị thừa dạy bảo mà họ
phát tâm, hoặc học với thầy bạn mà họ phát tâm). Nhưng các
loại phát tâm này, đều chẳng nhứt định, nếu gặp hoàn cảnh xấu
ngược, thì họ thối tâm, hoặc đoạ vào Nhị thừa.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn trên
nói những người tín tâm đã thành tựu, và phát tâm như vậy, thì
được vào hàng chánh định, quyết không thối chuyển, vì họ tu đã
được một vạn kiếp.
- Đoạn này
nói, những người phát tâm sau đây, vì tu chưa đầy một vạn
kiếp, tín tâm chưa thành tựu, hoặc còn thối chuyển, nên chưa
được vào hàng Chánh định. Họ cũng gặp duyên lành để phát tâm,
hoặc thấy tướng hảo của Phật mà phát tâm, hoặc nhơn cúng dường
chư Tăng mà phát tâm, hoặc gặp Nhị thừa giáo hoá phát tâm
v.v...Nhưng vì căn lành mỏng ít, phiền não sâu dày, tuy gặp
phật phát tu hành, song chỉ cầu phước báo thiên nhơn, hoặc tu
theo Nhị thừa, và nếu gặp Đại thừa thì tâm họ cũng không quyết
định, nên khi bị nghịch cảnh, họ thối tâm hoặc tu theo Tiểu
thừa tiêu cực.
- a. BA MÓN
TÂM TRONG VỊ THẬP TÍN
- CHÁNH VĂN
- Tóm lại,
khi tín tâm đã thành tựu thì phát ba món tâm như sau:
- 1. Trực
tâm, nghĩa là tâm trực niệm chơn như
- 2. Thâm
tâm, nghĩa là tâm ưa làm các việc lành
- 3. Đại bi
tâm, nghĩa là tâm muốn cứu khổ các chúng sanh.
- LƯỢC GIẢI
- Hành giả tu
hành phải trải qua một vạn kiếp mới được thành tựu tín tâm.
Lúc bấy giờ hành giả phát ra vô số tâm, nhưng tóm lại có ba
thứ:
- 1. Trực
tâm, quán thẳng Chơn như pháp tánh
- 2. Thâm
tâm, nguyện làm các việc lành
- 3. Đại bi
tâm, thệ độ tất cả chúng sanh.
- Quán chơn
như là căn bản của hai hạnh: Tự lợi và lợi tha. Vì quán trong
bản thể chơn như có đủ vô lượng công đức, nên cho hành giả ưa
tu các pháp lành, để hiệp với tánh chơn như của mình. Hành giả
tu hành, khi nào thâm nhập đến chỗ không còn thấy tướng tu
nữa, gọi đó là "Thâm tâm".
- Vì quán
mình và tất cả chúng sanh đồng bản thể chơn như, nên chúng
sanh đau khổ tức là mình đau khổ, chúng sanh còn trần luân thì
mình chưa được giải thoát an vui nơi cảnh Niết bàn. Vì thế mà
hành giả phát tâm Đại bi cứu khổ tất cả chúng sanh.
- CHÁNH VĂN
- Hỏi:_ Chơn
như đã là một thể, tại sao không bảo hành giả trực niệm chơn
như, mà lại còn tạm dùng các phương tiện, tu các pháp lành?
- Đáp:_ Thí
như ngọc ma ni thể chất tuy sáng suốt trong sạch, nhưng còn bị
lẫn lộn trong khoáng nhơ bẩn. Nếu người chỉ nghĩ đến tánh chất
trong suốt của ngọc, mà không dùng các phương tiện giũa mài
v.v...thì quyết định không thể đặng chất ngọc ma ni thuần
tịnh.
- Cũng thế,
chúng sanh tuy saün có chất chơn như thanh tịnh, song còn bị
vô lượng phiền não làm nhiễm ô. Nếu hành giả chỉ niệm chơn
như, mà không dùng phương tiện tu các pháp lành, thì cũng
không thể đặng chất chơn như thuần tịnh.
- Vì các
phiền não nhiễm ô vô lượng, nên hành giả phải tu vô lượng hạnh
lành để đối trị. Nếu hành giả tu các pháp lành, thì tự nhiên
thuận về với tánh chơn như của mình.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
giải đáp sự thắc mắc của độc giả.
- Hỏi:_ Chúng
sanh đã saün có chất chơn như thanh tịnh, tại sao người tu
hành không niệm thẳng chơn như, mà lại còn dùng vô số phương
tiện để dẹp trừ phiền não nhiễm ô và tu các pháp lành làm gì?
- Đáp:_ Chúng
sanh tuy saün các chất chơn như thanh tịnh, song còn bị vô
lượng phiền não làm nhiễm ô; cũng như ngọc ma ni, tuy chất nó
sáng suốt trong sạch, nhưng còn bị lẫn lộn trong khoán nhơ
bẩn. Nếu hành giả trực chỉ quán chơn như, mà không dùng các
phương tiện để trừ phiền não và tu các pháp lành, thì chất
chơn như thuần tịnh không bao giờ thật hiện được. Cũng như
người chỉ nghĩ đến chất ngọc trong suốt, mà không dùng đến các
phương tiện như lọc khoáng, giũa mài v.v...thì quyết định cũng
không bao giờ thành ngọc mỹ quan được (ngọc bất trác, bất
thành khí).
- Chúng sanh
có vô lượng bịnh phiền não, nên Phật cũng có vô lượng thuốc
phương tiện để trị. Nếu muốn hết các bịnh phiền não, trở thành
người lành mạnh (Bồ Đề, Niết bàn), tất nhiên hành giả phải
uống thuốc phương tiện của Phật. Người diệt trừ phiền não tu
các pháp lành là đi ngược dòng trần lao, thuận theo tánh chơn
như. Bởi thế nên hành giả phải phát minh ba tâm (Trực tâm,
Thâm tâm và Đại bi tâm) và thật hành bốn phương tiện sau này.
- b. BỐN MÓN
PHƯƠNG TIỆN
- CHÁNH VĂN
- Các phương
tiện lược có bốn món:
- 1. Phương
tiện căn bản: Quán tất cả các pháp, tánh vốn vô sanh (không)
đ63 lìa các vọng chấp, và nhờ thế mà không mắc vòng sanh tử;
- quám các
pháp do nhơn duyên hoà hiệp, nên nghiệp quả chẳng mất (có) để
khởi tâm đại bi, tu các hạnh lành, cảm hoá chúng sanh, và nhờ
thế nên không trụ Niết bàn.
- Tóm lại, vì tuỳ thuận theo
tánh vô trụ của chơn như, nên không dính mắc sanh tử và không
an trụ Niết bàn.
- LƯỢC GIẢI
- Trong bốn
phương tiện tu hành để nhập chơn như, thì món phương tiện này
là căn bản.
- Chúng sanh,
vọng chấp các pháp thật có, nên tạo ra các nghiệp; rồi bị
nghiệp lực kéo dẫn, phải chịu sanh tử luân hồi. Nay hành giả
quán "các pháp hư giả, không thật", nên không vọng chấp và
không tạo nghiệp; vì nghiệp không tạo, nên không bị sanh tử
luân hồi.
- Song, nếu
hành giả chỉ một bề quán "Không" như thế, sợ e mắc vào bịnh
"chấp không", rồi chẳng cần tu hành và hoá độ chúng sanh; như
hành Thinh văn chấp không, ưa vắng lặng (trầm không thú tịch)
thích thú cảnh vui Niết bàn của Tiểu thừa.
- Bởi thế,
hành giả phải quán "do nhơn duyên hoà hiệp, nên các pháp chẳng
phải không và nghiệp quả chẳng mất", để khởi tâm Đại bi, tu
các hạnh lành giáo hoá chúng sanh. Nhờ quán như thế, nên hành
giả không còn "chấp không" và say mê cảnh Niết bàn của Tiểu
thừa nữa.
- Vì không
vướng mắc sanh tử, nên về phần tư lợi hành giả được thành tựu.
Và vì không vướng mắc Niết bàn của Tiểu thừa, nên hành giả độ
thoát tất cả chúng sanh, hoàn thành hạnh lợi tha.
- Không mắc
sanh tử, không trụ Niết bàn là thuận theo đức tánh vô trụ của
chơn tâm; như thế gọi là "Trực tâm". Trực tâm là phương tiện
căn bản của các hạnh, tự giác và giác tha. Khế kinh chép: "Tâm
thắng (không mắc hai bên) là Đạo tàng" (trực tâm thị Đạo
tàng).
- CHÁNH VĂN
- 2. phương
tiện ngăn ngừa các việc ác: Biết xấu hổ, ăn năn, chừa lỗi,
ngăn ngừa tất cả điều ác không cho phát sanh và tăng trưởng.
Hành giả phải làm như thế để tuỳ thuận theo đức tánh thanh
tịnh của chơn như.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về phương tiện thứ hai là "không làm việc ác". Người biết
xấu xa hổ thẹn thì không làm các điều tội lỗi; biết ăn năn hối
hận những tôi đã làm, thì tội lỗi ấy không tăng trưởng nữa.
Bởi thế nên "hổ thẹn" là yếu tố ngăn chận việc ác phát sanh;
còn "ăn năn hối hận" là yếu tố làm cho tội lỗi đã sanh, không
tăng trưởng nữa.
- Đoạn văn
trước nói 3 tâm: 1. Trực tâm, 2. Thâm tâm, 3. Đại bi tâm. Đoạn
này nói phương tiện thứ hai, thuộc về Thâm tâm, tức là ưa làm
các việc lành. Lành có hai thứ: 1. Bỏ dữ (chỉ thiện) gọi là
lành; 2. Làm lành (tác thiện) cũng gọi là lành.
- Món phương
tiện thứ hai này thuộc về loại "lành bỏ dữ"; món phương tiện
thứ ba sau này, thuộc về loại "lành làm lành". Hai loại lành
này đều thuộc về Thâm tâm cả.
- lìa các
tội lỗi.
- CHÁNH VĂN
- 3. Phương tiện làm cho phát
sanh hoặc nuôi lớn căn lành: Siêng năng lễ bái và cúng dường
Tam bảo, tuỳ hỉ việc lành, tán thán công đức và thỉnh Phật trụ
thế chuyển pháp luân. Do tâm kính mên Tam bảo rất thuần hậu,
làm cho đức tin được thêm lớn nên hành giả mới dốc chí cầu đạo
vô thượng. Lại nhờ sức gia hộ của Tam bảo, nên các nghiệp
chướng được tiêu trừ và căn lành không thối chuyển. Vì tuỳ
thuận theo đức tánh "vô chướng ngại" của chơn như, nên hành
giả phải xa lìa các si mê chướng ngại.
- LƯỢC GIẢI
- Phương tiện
thứ ba này là "làm các việc lành", tức là loại "lành tác
thiện" (làm lành). Loại lành này cũng nương nơi thâm tâm mà
khởi. Hành giả làm cho phát sanh những việc làm chưa sanh, và
nuôi lớn những việc làm đang có. Siêng năng tu hành và cúng
dường Tam bảo v.v...là trồng căn lành; còn kính mến Tam bảo
v.v...là nuôi lớn đức tin. Hành giả lại nhờ thần lực của Tam
bảo gia hộ, nên tiêu trừ được các nghiệp chướng và làm cho đức
tin được vững chắc.
- Lễ bái thì
xa lìa được cái bịnh ngã mạn, tan thán thì xa lìa được cái
bịnh huỷ báng, tuỳ hỷ thì xa lìa được cái bịnh tậ đố v.v...
- Tóm lại, vì
tuỳ thuận theo đức tánh sáng suốt vô ngại của Tâm chơn như,
nên hành giả phải xa lìa các si mê chướng ngại.
- CHÁNH VĂN
- 4. Phương
tiện đại nguyện và bình đẳng: Hành giả vì tuỳ thuận tánh không
đoạn tuyệt của chơn như và bình đẳng không hai, chẳng phân bỉ
thử, rốt ráo vắng lặng, rộng lớn phổ biến của chơn như. Nên
hành giả phát đại nguyện, cùng tận đời vị lai, hoá độ tất cả
chúng sanh, đều được rốt ráo chứng vô dư Niết bàn, không còn
sót một chúng sanh nào.
- LƯỢC GIẢI
- Phương tiện
thứ tư là "cứu khổ các chúng sanh". Món phương tiện này do tâm
đại bi phát sanh.
- Hành giả
tuỳ thuận theo các đức tánh: bất tuyệt, rộng lớn, bình đẳng,
cứu cánh tịch diệt của Tâm chơn như, nên lập lời thệ nguyện
rộng lớn, hoá độ hết thảy chúng sanh, đều được cứu cánh Niết
bàn, không hạn định thời gian và không bao giờ dừng nghỉ.
- Tóm lại, Bồ
Tát tuỳ thuận theo các đức tánh tốt của tâm chơn như mà tu các
hạnh lành, dẹp trừ các cấu nhiễm, để trở về Tâm chơn như.
- c. TÁM
TƯỚNG THÀNH ĐẠO
- CHÁNH VĂN
- Bồ Tát nhờ
phát tâm này, nên được thấy Pháp thân một phần nào. Do thấy
được Pháp thân nên Bồ Tát tuỳ theo nguyện lực của mình, mà
hiện ra tám tướng sau đây, để làm lợi ích cho chúng sanh:
- 1. Từ cung
trời Đâu suất giáng sanh
- 2. Nhập
thai 3. Ở trong thai
- 4. Sanh ra
5. Xuất gia
- 6. Thành
Đạo 7. Tghuyết pháp
- 8. Nhập
Niết bàn
- Song các vị
Bồ Tát này, chưa chứng pháp thân, vì còn các nghiệp hữu lậu từ
quá khứ vô lượng kiếp đến nay, chưa có thể đoạn trừ được. Vị
Bồ Tát do sức đại nguyện tự tại mà thọ sanh; tuy không phải bị
nghiệp lực kéo dẫn, song vẫn còn khổ vi tế. Trong Khế kinh,
Phật nói: "Có vị Bồ Tát thối tâm bị đoạ vào ác thú". Nói như
vậy, là để cho những vị sơ tâm (chưa phải chính thức Bồ Tát)
còn giải đãi trên đường tu hành, lo sợ, mà phát tâm dõng mãnh
tiến tu, chứ không phải thật thối doạ.
- Lại nữa,
các vị Bồ Tát này, từ khi phát tâm về sau, mặc dù nghe nói
phải trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp (vô số kiếp),
siêng năng tu hành khổ hạnh, mới chứng được Niết bàn; nhưng
cũng không nhu nhược và lo sợ đoạ vào Nhị thừa, vì họ đã hiểu
chắc vả tin rằng: Tất cả các pháp từ hồi nào đến giờ, tánh nó
vốn là Niết bàn.
- LƯỢC GIẢI
- Bồ Tát khi
đã viên mãn Thập tín, phát ba món tâm trên rồi (Trực tâm, Thâm
tâm và Đại bi tâm) thì vào Thập trụ, thấy được Pháp thân thanh
tịnh, nên có thể thị hiện tám tướng cao cả, để làm lợi ích cho
các chúng sanh, mà tâm không nhu nhược và sợ thối đoạ; bởi vì
các vị Bồ Tát này đã biết các pháp từ xưa đến nay vốn là Niết
bàn.
- Các vị Bồ
Tát Thập trụ này, vì các nghiệp hữu lậu chưa hết, nên sanh ở
đâu, cũng còn khổ vi tế về "phần đoạn sanh tử". Nhưng sự thọ
sanh cùa các Ngài là do đại nguyện để hoá độ chúng sanh, chứ
không phải bị nghiệp lực kéo dẫn mà thọ sanh.
- Lại nữa,
các vị Bồ Tát này không bao giờ đoạ vào ác thú, thối thất Bồ
Đề. Nhưng trong kinh Bổn nghiệp Phật nói: "các vị Bồ Tát từ
Thất trụ về trước còn thối đoạ, nếu từ một kiếp đến mười kiếp
không gặp Thiện hữu tri thức". Phật nói như vậy là để khủng bố
các vị Sơ tâm Bồ Tát còn giãi đãi trong sự tu hành.
- --- o0o ---
|
|