-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ X -
XI
- LUẬN ĐẠI
THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ
14
- CHƯƠNG THỨ BA
-
PHẦN GIẢI
THÍCH
- C. PHÂN
BIỆT HÀNH TƯỚNG PHÁT TÂM ĐẾN ĐẠO
- (tiếp theo
và hết)
- II. NÓI VỀ
HIỂU BIẾT VÀ LÀM
(hạnh, hướng) mà phát tâm
- --- o0o ---
- CHÁNH VĂN
- Phải biết,
lối phát tâm này (biết và làm) có phần thắng hơn lối phát tâm
trước (Tín phát tâm). Bồ Tát bắt đầu từ Chánh tín (Thập tín)
đến đây (Hạnh và Hướng), trải qua gầm mãn một vô số kiếp thứ
nhứt, nên đối với Chơn như, các vị này hiện đã hiểu ngộ rất
thâm thuý và sự tu hành không còn chấp tướng nữa.
- Bồ Tát biết
tánh Phật của mình (tâm minh) không có tham lam bỏn xẻn, nên
tuỳ thuận theo tánh Phật tu hạnh Bố thí Ba la mật (Bố thí rốt
ráo). Bồ Tát biết tánh Phật của mình không nhiễm ô, xa lìa các
tội lỗi ngũ dục, nên tuỳ thuận theop tánh Phật, tu pháp trì
giới Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình không khổ não,
xa lìa các sân hận, nên thuận theo tánh Phật, tu pháp Nhẫn
nhục Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình không có tướng
thân tâm, xa lìa việc giải đãi, nên tuỳ thuận theo tánh Phật,
tu Tinh tấn Ba la mật.Bồ Tát biết tánh Phật của mình thường
định, không có tan loạn, nên tuỳ thuận theo tánh Phật, tu pháp
Thiền định Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình sáng
suốt, không có vô minh, nên tuỳ thuận theo tánh Phật, tu Trí
huệ Ba la mật.
- LƯỢC GIẢI
- Trong phần
"Phân biệt hành tướng phát tâm đến Đạo", có chia ra ba hạng:
- 1. Tín
phát tâm, tức là viên mãn địa vị Thập tín mà phát tâm.
- 2. Biết
và làm phát tâm, tức là ở địa vị Tam hiền (Trụ, Hạnh,
Hướng) mà phát tâm.
- 3. Chứng
nhập chơn như phát tâm, tức là ở hàng Thập địa Bồ Tát mà
phát tâm.
- Đoạn này
nói về hàng Tam hiền phát tâm.
- Hành giả từ
khi phát tâm tu hành, cho đến mãn địa vị Tam hiền, đây là đợt
thứ nhất, phải trải qua một "vô số kiếp". Sau khi mãn Tam hiền
lên đến Thất địa, hành giả phải trải qua một "vô số kiếp" về
đợt thứ hai. Từ Bát địa trở lên quả vị Phật, hành giả phải
trải qua một "vô số kiếp" nữa, về đợt thứ ba.
- Hành giả
phải trải qua ba vô số kiếp như vậy, và trường kỳ kháng chiến
với giặc phiền não nội tâm, bao giờ hoàn toàn thắng trận mới
được thành Phật. Trong vô số kiếp thứ nhứt, hành giả bị bại
trận nhiều mà thắng ít. Đến vô số kiếp thứ hai, là giai đoạn
giằng co, hành giả năm ăn năm thua. Bước qua vô số kiếp thứ ba
thì hành giả thắng nhiều thua ít.
- Vì hạng thứ
hai là "Hiểu vá Làm mà phát tâm" trước. Từ địa vị Thập tín đến
địa vị Tam hiền, vì hành giả tu hành trải qua gần mãn một vô
số kiếp, nên ngộ được chơn tâm; nhưng chưa chứng nhập. Tuy
nhiên, về việc tu hành, hành giả đã cởi mở rất nhiều những sự
nặng nề về phần tu hữu hướng (chấp danh, trước tướng) và bắt
đầu về vô tướng, để nhập chơn tâm thanh tịnh.
- Bồ Tát biết
chơn tâm mình từ bi, hỳ xả, không có tham lam bỏn xẻn, nên tu
pháp bố thí Ba la mật, để trừ tâm bỏn xẻn (tu tâm) và nuôi
dưỡng tánh từ bi hỷ xả (dưỡng tánh) để trở lại hiệp với chơn
tâm của mình.
- Bồ Tát biết
chơn tâm mình thanh tịnh, không có các nhiễm ô tội lỗi, nên tu
pháp trì giới Ba la mật, để trừ tâm nhiễm ô tội lỗi (tu tâm)
và nuôi dưỡng đức tánh thanh tịnh (dưỡng tánh) để hợp với chơn
tâm của mình.
- Bồ Tát biết
chơn tâm mìnhkhông có sân hận, nên tu pháp Nhẫn nhục Ba la
mật, để đối trị tâm sân hận(tu tâm) và nuôi lớn đức tánh vô
sân (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm.
- Bồ Tát biết
chơn tâm mình không phiền não giải đãi, nên tu pháp Tinh tấn
Ba la mật, để trừ tâm giải đãi (tu tâm) và nuôi dưỡng đức tánh
siêng năng (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm.
- Bồ Tát biết
chơn tâm mình thường định,không tán loạn, nên tu pháp Thiền
định Ba la mật, để trừ tâm tán loạn (tu tâm) và nuôi dưỡng
tánh tịch tịnh (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm.
- Bồ Tát biết
chơn tâm mìnhsáng suốt, không cósi mê, nên tu pháp Trí huệ Ba
la mật, để trừ tâm si mê (tu tâm) và nuôi dưỡng trí huệ (dưỡng
tánh) để hợp với chơn tâm của mình.
- Tóm lại, Bồ
Tát biết tâm mình không có các điều xấu tệ, như tham lam bỏn
xẻn, phá giới nhiễm ô, nóng nảy sân hận, biếng nhác trễ nãi,
tán loạn và si mê v.v...mà trái lại, có đủ các đức tánh tốt,
như từ bi, hỷ xả, thanh tịnh, không sân si, tinh tấn, thường
định và trí huệ v.v...nên tu pháp Lục độ, để diệt trừ Lục tệ,
nuôi lớn các đức tánh tốt ở nơi tâm mình. Khi các đức tánh tốt
(tánh Phật) được hoàn toàn viên mãn, thì Bồ Tát sẽ thành Phật.
- GIẢI DANH
TỪ
- Chữ "Ba la
mật", Tàu dịch là "Đáo bỉ ngạn" nghĩa là đến bờ bên kia, tức
là bờ Giác. Song chữ "ba la mật" này cũng có nghĩa là "rốt ráo
cùng tận". Như nói "Bố thí ba la mật", nghĩa là bố thí đến
cùng tận. Chúng phàm phu khi bố thí, còn chấp Ta là người năng
thí (làm ơn). Kia là kẻ thọ thí (chịu ơn); vì còn dính mắc nơi
tướng, chấp có nhơn có ngã, nên bố thí mà không được ba la
mật. Trái lại, Bồ Tát khi bố thí, hợp với chơn tâm thanh tịnh,
không thấy có nhơn có ngã: ta đây là người làm ơn (năng thí).
Kia là kẻ thọ ơn (được thí). Nọ là vật bị thí...Vì không dính
mắc nơi tướng nên gọi là "Bố thí ba la mật". Năm món "ba la
mật" sau, ý nghĩa cũng như thế.
- III. Chứng
nhập chơn như mà phát tâm
- CHÁNH VĂN
- Bồ Tát từ
Sơ địa cho đến Đẳng giác, đã chứng được Chơn như, cũng gọi là
Chứng pháp thân.
- Các vị Bồ
Tát khi đã chứng nhập Chơn như thì từ trên tâm Chơn như này,
khởi ra đại dụng: như trong nhứt niệm mà có thể đi hết cả mười
phương thế giới, cúng dường chư Phật, thỉnh Phật chuyển pháp
luân và mở đường dẫn dắt, làm lợi ích cho các chúng sanh, mà
không cần đến ngôn ngữ. Hoặc vì để độ những chúng sanh căn
tánh thấp kém, lo sợ phải trải qua nhiếu kiếp tu hành mới
thành đạo, nên Bồ Tát thị hiện mau thành quả Phật. Hoặc vì để
độ những chúng sanh biếng nhác trễ nãi, nên Bồ Tát nói: "ta tu
hành trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp mới được thành Phật".
Các vị Bồ Tát mặc dù thị hiện ra vô số phương tiện như vậy,
không thể nghĩ bàn được, song thật ra các vị này trình độ như
nhau, và đều trải qua vô số kiếp tu hành, không có kẻ mau,
người chậm, vị này hơn, vị kia kém. Các vị Bồ Tát tuỳ theo mỗi
quốc độ, và trình độ thấy nghe, căn tánh sai khác, dục vọng
không đồng của mỗi chúng sanh mà thị hiện ra nhiều hạnh (Bồ
Tát đa hạnh), phương tiện độ sanh không giống nhau.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói "Chứng nhập chơn như mà phát tâm", tức là Bồ Tát chứng
được thể chơn như, rồi phát ra đại dụng của chơn như.
- Các vị Bồ
Tát từ Sơ đại đến Đẳng giác, đã chứng được chơn như, cũng gọi
là chứng pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Rồi từ nơi thể chơn
như này phát khởi ra diệu dụng không thể nghĩ bàn, như trong
nhứt niệm Bồ Tát có thể đi hết cả mười phương thế giới, cúng
dường chư Phật, hoặc thỉnh Phật chuyển pháp luân. Và cũng từ
nơi diệu dụng của chơn như, mà Bồ Tát giáo hoá làm lợi ích cho
chúng sanh, hoặc không dùng đến văn tự ngữ ngôn.
- Có vị Bồ
Tát vì muốn khuyến khích những chúng sanh thấp kém, lo sợ cho
mình không thể đeo đuổi trải qua nhiều kiếp trường kỳ tu tập,
nên thị hiện tu mau thành Phật, để cho chúng sanh ấy khỏi lo
sợ; như nàng Long nữ trong Pháp hoa, ngài Quảng ngạch trong
kinh Niết bàn, ông Thiện tài trong kinh Hoa nghiêm.
- Và có vị Bồ
Tát, vì những chúng sanh giải đãi bê tha sự tu hành, nên thị
hiện trải qua ba vô số kiếp tu hành, mới được thành Phật, để
cho chúng sanh ấy, thấy con đường còn dài, phải siêng năng tu
hành; như đức Thích Ca, trải qua ba vô số kiếp mới thành đạo.
- Bồ Tát, tuỳ theo mỗi quốc độ
khác nhau, trình độ thấy nghe của chúng sanh không đồng, mà
thị hiện ra rất nhiều phương tiện, không thể nghĩ bàn. Bởi thế
nên gọi "Bồ Tát đa hạnh".
- Nhưng sự
thật, về trình độ của các vị Bồ Tát thì đồng nhau, sự phát
tâm, chỗ chứng ngộ cũng đồng nhau, và đều trải qua ba vô số
kiếp tu hành, không có sự mau chậm hay hơn kém nhau.
- CHÁNH VĂN
- Lại nữa,
Nhị thừa phát tâm, có 3 tướng vi tế:
- 1. Chơn
tâm, tức là tâm vô phân biệt (thật trí).
- 2. Phương
tiện tâm, tức là tâm tự nhiên làm lợi ích cho các chúng sanh
(quyền trí).
- 3. Nghiệp
thức tâm, tức là tâm sanh diệt rất vi tế.
- Bồ Tát tu
hành đến khi công đức thành tựu viên nãn rồi thì bhiện thân
cao lớn (báo thân) hơn các thế gian, ở trên cõi trời Sắc cứu
cánh Bồ Tát do nhứt niệm tương ưng (hiệp) với huệ, nên vô minh
liền hết, gọi là "được nhứt thế chủng trí". Lúc bấy giờ Bồ Tát
tự nhiên có diệu dụng không thể nghĩ bàn, hiện thân khắp mười
phương thế giới làm cho lơi ích cho tất cả chúng sanh.
- LƯỢC GIẢI
- Các vị Bồ
Tát phát tâm vừa nói trên, đều có 3 tướng vi tế như sau:
- 1. Được
thật trí, tức là chơn tâm vô phân biệt.
- 2. Được
quyền trí, tức là Trí phương tiện phân biệt, để làm lợi ích
cho các chúng sanh.
- 3. Dị thục
thức, tức là nghiệp thức, sanh diệt rất vi tế.
- Bồ Tát tuy
được quyền trí và thật trí, nhưng chưa rốt ráo như Phật và vì
còn Dị thục thức (Kim Cang đạo hâu Dị thục không) nên còn bị
biến dịch sanh tử.
- Bồ Tát tu
hành, khi công đức được thành tựu viên mãn, đến phút tối hậu,
phá sach vô minh vi tế, nhứt niệm hiệp với Bát Nhã huệ, thì
được "Nhứt thế chủng trí" gọi là "Chánh biến giác". Lúc bấy
giờ Bồ Tát hiện thân Tự thọ dụng (Báo thân) cao lớn ngàn
trượng, ở cõi Tự thọ dụng (tự thọ dụng độ), trên đảnh trời sắc
giới, chờ đến thời kỳ, sẽ đi bổ xứ làm Phật, như đức Di lặc
hiện nay ở cõi trời Đâu suất. Vị Bồ Tát này tự nhiên có diệu
dụng, thị hiện mười phương thế giới, làm lợi ích cho các chúng
sanh không thể nghĩ bàn.
- Tóm lại, từ
khi phát tâm tu hành, cầu quả Phật, đến khi được Nhứt thế
chủng trí, thành Chánh biến giác là rốt ráo sự phát tâm vậy.
- CHÁNH VĂN
- Hỏi:_ Trong
hư không, vô biên, có vô tận thế giới, trong mỗi thế giới có
vô số chúng sanh; vì chúng sanh vô số, nên tâm niệm và hành vi
cũng khác nhau vô cùng; nếu Bồ Tát đoạn vô minh, không còn tâm
tưởng, thì lấy gì để biết tất cả pháp, mà gọi là "Nhứt thế
chủng trí"?
- Đáp:_ Tất cả cảnh giới vốn là
chơn tâm thanh tịnh, không có gì khác. Song vì chúng sanh
không như chơn tâm thanh tịnh (xứng tánh) Lại khởi ra các
tưởng niệm phân biệt, vọng thấy có các cảnh giới sai khác, nên
không thể biết được cảnh giới vô tướng thanh tịnh (chơn tâm)
biến khắp tất cả, của chư Phật.
- Chơn tâm
này đã là bản thể hiện ra tất cả pháp và Bồ Tát vì đã chứng
được bản thể của tất cả pháp, tất nhiên biết được tất cả pháp,
nên gọi là "Nhứt thế chủng trí". Nhờ "Nhứt thế chủng trí" này,
mà Bồ Tát tuỳ thuận thep trình độ của các chúng sanh, lập ra
các pháp phương tiện, giáo hoá vô số chúng sanh.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
ngài Bồ Tát Mã Minh, lập lời vấn đáp, để giải thích những điều
thắc mắc của độc giả.
- Thấy đoạn
trên nói: Do Bồ Tát trong nhứt niệm tương ưng với Huệ, nên vô
minh liền hết, gọi là được "Nhứt thế chủng trí", nên độc giả
thắc mắc: Do vô minh mà có tâm tưởng, nhờ tâm tưởng nên mới
biết được các sự vật. Nếu vô minh hê71t, tâm tưởng không còn,
thì lấy cái gì để biết tất cả sự vật, mà gọi là "được Nhứt thế
chủng trí"?
- Bồ Tát giải
đáp, đại ý: Tất cả các pháp nguyên là chơn tâm (đó là định lý
của Đại thừa). Nếu còn vô minh và tâm tưởng phân biệt, thì cố
nhiên phải có năng sở bỉ thử, nên sự phân biệt bị cuộc hạn,
tuy biết mà biết không cùng khắp, cái biết ấy chỉ là tưởng
niệm mà thôi. Trái lại, nếu vô minh hết, tâm tưởng không còn,
tức là hiệp với chơn tâm, mà chơn tâm là bản thể của các pháp,
boiến khắp tất cả các pháp; cũng như trời đất non sông, mà bể
cả đều bao hàm hết thảy. Bởi thế nên hành giả trừ vô minh,
diệt hết loạn tưởng chứng nhập chơn tâm, thì mới biết được các
pháp một cách rốt ráo, gọi là được "Nhứt thế trí".
- Từ chơn tâm
này phát ra đại trí dụng, biết rõ tất cả pháp, tuỳ theo căn cơ
của vô số chúng sanh, dùng vô số phương tiện để dẫn dắt chúng
sanh, gọi đó là được "Nhứt thế chủng trí". Chứng được Nhứt thế
trí và Nhứt thế chủng trí, gọi là phát minh rốt ráo tâm đại
thừa, tức là thành Phật.
- CHÁNH VĂN
- Hỏi:_ Chư
Phật đã nghiệp dụng tự nhiên thị hiện khắp tất cả chỗ, làm lợi
ích cho các chúng sanh. Nếu chúng sanh nào thấy được thân
Phật, hoặc nghe thuyết pháp, hoặc thấy thần thông biến hoá của
Phật, thì đều được lợi ích; tại sao trong thế gian còn có
nhiều người không thấy được Phật?
- Đáp:_ Pháp
thân của chư Phật bình đẳng và khắp tất cả chỗ, tự nhiên làm
lợi ích cho các chúng sanh, không dụng tâm hay cố ý. Song cũng
tuỳ theo tâm của chúng sanh mà tự thấy có hiện hay không. Tâm
chúng sanh như cái gương, nếu gương bị bụi đóng, thì cảnh vật
không hiện; còn tâm chúng sanh bị cấu nhiễm thì Pháp thân
không hiện.
- LƯỢC GIẢI
- Tiếp theo
đoạn vấn đáp trên, nghe nói:
- "Phật có
thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn, bình đẳng làm lợi ích
cho tất cả chúng sanh, mà không dụng công hay cố ý": nên độc
giả nghi: Nếu như thế, tại sao có chúng sanh được tế độ, có
chúng sanh không được tế độ.
- Bồ Tát giải
thích, đại ý: Phật tuy có Nhứt thế chủng trí và đủ các phương
tiện, thần thông diệu dụng, bình đẳng và tự nhiên làm lợi ích
cho tất cả chúng sanh, không dụng công hay cố ý, không phân
biệt chủng loại nào. Nhưng chúng sanh có tiếp nhận được hay
khônglà do tâm của họ có thanh tịnh hay không. Như cái gương
tuy sáng mà bị bụi bám vào, dù cảnh vật tuy saün có, cũng
không thể hiện gì ra được. Cũng thế, chúng sanh tâm tánh còn
cấu nhiễm, thì chư Phật tuy có diệu dụng không thể nghĩ bàn,
bình đẳng phổ độ, song họ cũng không thể thấy được Phật. Tuy
không thấy Phật tế độ, nhưng Phật vẫn âm thầm gia hộ. Ví như
kẻ mù sống dưới mặt trời, tuy họ không thấy được ánh sáng,
nhưng mặt trời vẫn chiếu đến, và họ vẫn nhờ ánh sáng mà sống.
- (HẾT PHẦN
GIẢI THÍCH)
-
--- o0o ---
|
|