-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ X -
XI
- LUẬN ĐẠI
THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ
15
- CHƯƠNG THỨ
TƯ
- PHẦM TÍN
TÂM, TU HÀNH
- --- o0o ---
- CHÁNH VĂN
- Chương này
là căn cứ vào nhóm chúng sanh chưa vào chánh định mà nói về
việc tín tâm tu hành._ Về tín tâm thì ước lược có bốn món, còn
tu hành lại có năm món.
-
A. NÓI VỀ BỐN MÓN TÍN TÂM
- 1. Tin căn
bản, tức là ưa nghĩ nhớ pháp chơn như.
- 2. Tin Phật
có vô lượng công đức; hành giả thường phải nghĩ tưởng, gần
gũi, cung kính và cúng dường chư Phật, để pháp khởi căn lành
và nguyện cầu đặng "Nhứt thế trí".
- 3. Tin Pháp
của Phật có lợi ích lớn; hành giả phải thường nhớ tu hành các
pháp Ba la mật.
- 4. Tin Tăng
là người chơn chánh tu hành, tự lợi lợi tha, và hành giả
thường ưa thân cận các vị Bồ Tát để cầu học cái hạnh chơn
thật.
- LƯỢC GIẢI
- Luận này có
năm chương, ba chương đầu là phần lý thuyết, chương thứ tư nói
về thật hành, tức là việc khởi tín tâm tu hành, nên chương này
rất cần thiết cho hành giả.
- Vậy người
nào mới có thể khởi tín tâm tu hành?_ Bồ Tát Mã Minh nói:
"Phải chúng sanh chưa vào chánh định, mới có thể khởi tín tâm
tu hành". Tại sao thế?_ Vì những người tà định (ngoại đạo)
không thể khởi tín tâm tu hành theo Đại thừa; còn những người
đã vào chánh định rồi, thì không cần phải nói nữa; duy có
người bất định (không nhứt định Đại thừa hay Tiểu thừa) chưa
vào chánh định, mới có thể khởi tín tâm tu hành theo Đại thừa
được.
- Vậy hành
giả phải tin cái gì?_ Có bốn món: Trước nhứt hành giả phải tự
tin nơi bản tánh chơn như của mình, tức là tin mình saün có
tánh Phật (khả năng thành phật), cũng gọi là tin tâm Đại thừa.
Tin như thế nào?_ Phải luôn luôn tin tưởng và nghĩ nhớ tâm
chơn như của mình, Thể nó lớn, Tín nó to, Dụng nó đại. Đó là
điều tin căn bản, còn ba điều tin sau này, cũng do tin căn bản
mà ra, tức là tin tam bảo_Tin Phật là người đã chứng được chơn
như; tin Pháp là phương pháp để thực hiện chơn như; tin Tăng
là người đang thật hành theo chơn như.
- Hành giả
tin Phật để cầu được nhứt thế trí; tin Pháp để tu hành theo
các pháp Ba la mật; tin Tăng để học theo hạnh chơn thật.
-
- CHÁNH VĂN
-
B. NÓI VỀ NĂM MÔN TU HÀNH
- 1, Bố thí
- 2. Trì giới
- 3. Nhẫn
nhục
- 4. Tinh tấn
- 5, Chỉ,
quán (Định, Huệ)
- Thế nào là
tu Bố thí?_ Nếu thấy có người đến xin, hành giả có những tài
vật gì tuỳ theo sức mình, đem bố thí cho người, thì sẽ được
hai điều lợi ích: tự mình bỏ được lòng tham lam bỏn xẻn, và
người thọ thí được vui mừng._ Nếu thấy người bị tai nạn, sợ
hãi lo buồn, hành giả tận khả năng của mình cứu giúp, làm cho
họ hết lo sợ; gọi là thí vô uý (bố thí cái không sợ)._ Nếu có
người đến cầu nghe Phật pháp, hành giả tuỳ theo sự hiểu biết
của mình, phương tiện thuyết pháp; thuyết pháp với tâm niệm
tốt đẹp là nghĩ vì tư lợi lợi tha và hồi hướng về đạo Bồ Đề,
không vì danh lợi hoặc cầu người cunh kính.
- LƯỢC GIẢI
- Về việc tu
hành, hành giả chỉ tu pháp Lục độ thì những hạnh tự lợi và lợi
tha đều được đầy đủ.
- Bố thí có
ba thứ; thí tài, thí pháp và thí không sợ.
- 1. Thí tài,
tức là thí của, có hai thứ của: a) Đem tiền bạc của cải của
mình giúp cho người, gọi là thí ngoại tài (của ngoài thân); b)
Hy sinh thân mạng để cứu người, như cho máu những người thiếu
máu v.v...gọi là thí nội tài (của trong thân). Thí ngoại tài
thì hành giả sẽ trừ được tâm bỏn xẻn về tiền của. Thí nội tài
thì hành giả sẽ bớt được tâm chấp ngã và tự ái.
- 2. Thí
pháp, tức là thí phương pháp, có hai phần: a) Chỉ dạy cho
người nhu74ng phương pháp (nghề nghiệp) chơn chánh để tự nuôi
sống, gọi là thí về pháp thế gian; b) Dạu người những phương
pháp tu hành để giải thoát sanh tử luân hồi, gọi là thí về
pháp xuất thế gian. Thí pháp, hành giả sẽ trừ được tâm bỏn xẻn
về pháp.
- 3. Thí
không sợ, tức là thí cái không lo sợ, cũng có hai phần: a) về
phần tiêu cực, mình không làm cho người lo sợ, gọi là thí
không sợ, b) Về phần tic cực, thấy người bị hoạn nạn, đang lo
sợ, mình tận lực cứu giúp, làm cho người hết lo sợ, cũng gọi
là thí không sợ. Bố thí không sợ, hành giả sẽ nuôi lớn được
lòng từ bi.
- CHÁNH VĂN
- Thế nào là
tu Trì giới?_ Không sát sanh, trộm cắp, dâm dục, không nói lời
dâm thọc, nói lời độc ác, không nói dối, nói thêu dệt, không
tham sân si, tật đố, dua nịnh, dối trá và tà kiến. Nếu là
người xuất gia thì, vì còn dẹp trừ phiền não, nẹ6n phải xa
lánh chỗ ồn ào, thường ở chỗ thanh vắng, tu hạnh thiểu dục tri
túc, hoặc tu hạnh đầu đà v.v...Cho đến một lỗi nhỏ, hành giả
cũng phải sanh tâm hổ thẹn, ăn năn sám hối và kiêng sợ; không
dám khinh giới luật của Phật. Hành giả phải giữ gìn, đừng để
cho người chê bai khinh hiềm, tại mình mà họ tạo tội lỗi.
- LƯỢC GIẢI
- Giới luật
của Phật chế ra, tổng quát có ba phần, gopị là "Tam tụ tịnh
giới" (ba phần giới thanh tịnh):
- 1. Bỏ các
điều tội lỗi, gọi là "Nhiếp luật nghi giới";
- 2. Làm các
việc lành, gọi là "Nhiếp thiện pháp giới";
- 3. Làm lợi
ích chúng sanh, gọi là "Nhiêu ích hữu tình giới".
- Hành giả tu
theo Đại thừa, một mặt là phải giữ ba phần giới này cho thanh
tịnh; một mặt nữa là đừng làm những điều sái quấy, để cho thế
gian đàm tiếu, mà họ mang lấy tội lỗi.
- CHÁNH VĂN
- Thế nào là
tu Nhẫn nhục?_ Nhẫn chịu những điều người ta làm cho mình khổ
não trong tâm hành giả cũng không nghĩ tưởng đến việ trả thù;
và nhẫn chịu tám hướng gió của trần gian thổi đến: 1. Thạnh
lợi, 2. Suy bại, 3. Huỷ báng, 4. Danh dự, 5. Khen, 6. Chê, 7.
Khổ, 8. Vui.
- LƯỢC GIẢI
- Tất cả
những hoàn cảnh, làm cho hành giả tạo các tội lỗi, không ngoài
tám điều, gọi là "Bát phong" (tam ngọn gió); nhưng tóm lại thì
có hai cảnh: thuận và nghịch.
- Tài lợi,
danh vọng, khen ngợi và vui là bốn ngọn gió thuận cảnh, nó
thổi vào biển tâm của hành giả, làm cho nổi lên vô lượng sóng
tham lam._ Suy bại, huỷ báng (công kích lỗi người) chê bai
(nói xấu) và khổ là bốn ngọn gió nghịch cảnh, nó thổi vào biển
tâm của hành giả, làm cho nổi lên vô lượng sóng tham lam._ Suy
bại, huỷ báng (công kích lỗi người) chê bai (nói xấu) và khổ
là bốn ngọn gió nghịch cảnh, nó thổi vào biển tâm của hành
giả, làm cho nổi lên không biết bao nhiêu sóng sân hận.
- Hành giả khi gặp các thứ gió,
dù thuận hay nghịch, cũng đều phải giữ gìn biển tâm mình cho
yên lặng, đừng để các sóng phiền não như tham lam hay sân si
v.v...nổi lên. Như thế gọi là tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật.
- CHÁNH VĂN
- Thế nào lá
tu Tinh tấn?_ Lập chí kiên nhẫn, tu các việc lành, tâm không
trễ nãi và không khiếp nhược. Hành giả phải thường nhớ rằng,
từ quá khứ nhiều kiếp lâu xa đến nay đã thọ không biết bao
nhiêu thân tâm hư giả và chịu không biết bao nỗi khổ lớn lao,
đều không có lợi ích gì cả. Bởi thế nên đời nay, ta siêng năng
tu các công đức, làm những việc tự lợi lợi tha, để mau xa lìa
các khổ.
- Lại nữa,
nếu người tín tâm tu hành mà bị các nghiệp chướng đời trước
làm chướng ngại, hoặc bị các tà ma ác quỉ nhiễu hại, hay bị
việc đời ràng buộc, hoặc bị bịn khổ làm não bức v.v...thì hành
giả phải tinh tấn dõng mãnh, ngày đêm sáu thời lễ Phật tụng
kinh, thành tâm sám hối, thường hành không bỏ phế; khuyên
thỉnh Phật trụ thế và tuỳ hỷ các việc công đức, để hồi hướng
về đạo quả Bồ Đề. Phải làn như thế, hành giả mới khỏi các điều
chướng ngại và căn lành tăng trưởng.
- LƯỢC GIẢI
- Tinh tấn là
một yếu tố để thành công trên đường đời cũng như trên đường
Đạo. Người tu hành nếu thiếu tinh tấn thì không bao giờ thành
đạo chứng quả được. Tinh là tinh chuyên một việc; Tấn là tiến
tới không dừng.
- Hành giả
lập chí dõng mãnh, chuyên tu các pháp lành, tâm không khiếp
nhược, phải thường nhớ rằng: Từ vô lượng kiếp đến nay ta thọ
biết bao nhiêu thân, chịu biết bao nhiêu khổ, nhưng không làm
được điều lợi ích gì cả ! Vậy đời này ta phải tu các công đức,
đề xa lìa các tội khổ. Nếu người bị nghiệp chướng đời trước
nặng nề, hoặc tà ma ác quỉ nhiễu loạn, hay việc đời ràng buộc,
bịnh hoạn làm khổ não, v.v...khó hành đạo được, hành giả phải
ngày đêm 6 thời, tụng kinh sám hối, không nên bê trễ, thì các
chướng ngại sẽ hết và căn lành tăng trưởng.
- CHÁNH VĂN
- Thế nào là
tu Chỉ, Quán?_ "Chỉ" nghĩa là đình chỉ tất cả các vọng tưởng
(định), để tuỳ thuận theo quán không (xa ma tha); "Quán" nghĩa
là quán sát các tướng nhơn duyên sanh diệt (huệ) để tuỳ thuận
theo quán giả (tỳ bác xa na).
- Sao gọi là
tuỳ thuận?_ Do hành giả từ từ tu tập, một lần cả Chỉ và Quán,
đều không rời nhau, nên gọi là tuỳ thuận.
- LƯỢC GIẢI
- Tu Chỉ,
Quán tức là tu Thiền định và trí huệ. "Chỉ" là đình chỉ các
vọng tưởng, tức là Định; "Quán" lá quán sát để thấu rõ chơn lý
của các pháp, tức là Huệ. Tu Chỉ, Quán sẽ được Định, Huệ; vì
Chỉ,Quán là Nhơn, mà Định, Huệ là Quả.
- Trong Lục
độ, chia riêng ra Thiền định và Trí huệ, là muốn cho hành giả
thấy rõ hành tướng, công dụng và kết quả của hai pháp môn khác
nhau. Trong Luận này về chương "Tín tâm tu hành", Bồ Tát Mã
Minh cũng dạy tu Lục độ, nhưng hai độ sau lại chung làm một và
không gọi tu Định, Huệ mà lại gọi là tu Chỉ,Quán?_ Vì Bồ Tát
muốn cho hành giả phải hiểu rằng: Về phần tu nhơn thì hai pháp
này rất liên quan với nhau; nghĩa là hành giả phải đồng thời
tu cả Chỉ và Quán. Trong Chỉ có Quán, trong Quán có Chỉ.
- Thế nào là
trong Chỉ có quán?_ Nghĩa là muốn ngăn ngừa đình chỉ không cho
các vọng tưởng nổi lên, thì hành giả phải quán sát các pháp là
không; bởi các pháp là không, nên hành giả chẳng chấp có, và
không khởi tâm tham sân v.v...
- Thế nào là
trong Quán có Chỉ?_ Nghĩa là hành giả quán sát các pháp đều do
nhơn duyên hoà hiệp, sanh không phải thật sanh, mà diệt cũng
không phải thật diệt. Vì các pháp do nhơn duyên hoà hiệp giả
có, nên hành giả chẳng chấp không, và chẳng sanh các phiền
não.
- NÓI VỀ TU
CHÆ (ĐỊNH)
- CHÁNH VĂN
- Nếu tu "Chỉ" (định) hành giả
phải ở chỗ thanh vắng, ngồi ngay thẳng, tâm chơn chánh, chẳng
nương hơi thở, chẳng nương hình sắc và hư không, chẳng nương
đất, nước, gió, lữa; chẳng nương thấy, nghe, hay biết, cho đến
các tưởng niệm đều diệt trừ, rồi hành giả dẹp luôn cái "tâm
niệm" trừ tưởng niệm nữa.
- Do tất cả
các pháp từ hồi nào đến giờ, mỗi niệm không sanh, mỗi niệm
không diệt, nên hành giả phải không các tưởng niệm và cũng
không tưởng cảnh giới ngoài tâm, rốt sau rồi lấy tâm trừ tâm.
Nếu tâm vọng tưởng rong ruỗi, thì hành giả phải liền đem trở
lại chánh niệm._ Phải biết "Chánh niệm" đây, tức là "Duy tâm",
không có ngoại cảnh. Và cái tâm này cũng không hình tướng gì
có thể tưởng niệm được.
- LƯỢC GIẢI
- Hành giả tu
Định (Chỉ), phải ở chỗ thanh vắng, tránh xa nơi ồn ào náo
nhiệt; thân ngồi ngay thẳng, không ngước không cúi; tâm phải
chơn chánh, tỉnh táo sáng suốt và tịch tịnh, không phù không
trầm; phải thoát ly thân, nghĩa là không nương hơi thở (không
sổ tức); không nương hình sắc; phải thoát ly thế giới, không
nương hư không, tứ đại; và phải thoát ly tâm, không nương thấy
nghe hay biết.
- Hành giả
phải trừ hết các tưởng niệm rồi cái tâm niệm trừ các tưởng đó
cũng dứt luôn; phải biết các pháp từ hồi nào đến giờ, chỉ là
nhứt tâm (Duy tâm), không sanh không diệt, không có cảnh giới
ngoài tâm. Bởi thế nên tâm vừa vọng động rong rủi theo trần
cảnh, thì hành giả phải thâu lại đem về chánh niệm tức là nhứt
tâm, gọi là "dùng nhưttâm diệt các vọng tưởng"; rốt sau cái
"tâm" này (nhứt tâm) cũng không còn, gọi là "dùng tâm trừ
tâm".
- Các vị Cổ
đức dạy rằng: "Người tham thiền, trong phải thoát ly thân tâm,
ngoaiø xa lìa cảnh giới; nghĩa là phải rời tâm, ý, thức mà
tham cứu, phải ra khỏi con đường thánh phàm mà tu học, phải
viễn ly các cảnh giới vọng tưởng mà cầu đạo". Tóm lại, là phải
phóng xả tất cả.
- CHÁNH VĂN
- Lại nữa,
trong tất cả thì giờ, khi đi đứng nằm ngồi, tới lui qua lại,
làm tất cả việc, hành giả phải thường nhớ phương tiện (phương
tiện tuỳ duyên chỉ), nghĩa là tuỳ thuận quán sát. Hành giả tu
tập như vậy lâu ngày thuần thục, thì tâm được an trụ; do tâm
an trụ lần lần mạnh mẽ, nên dẹp sâu phiền não, tín tâm tăng
trưởng, đặng tuỳ thuận vào chơn như tam muội, mau thành vị Bất
thối. Chỉ trừ những người nghiệp chướng sâu dày, nghi ngờ bài
báng không tin, hoặc ngã mạn biếng nhát, thì không thể nhập
Chơn như tam muội được.
- Và hành giả
nhờ nương pháp Chơn như tam muội này mà biết được pháp giới
duy nhứt; nghĩa là nhận rõ Pháp thân của chư Phật và thân
chúng sanh bình đẳng không hai, nên cũng gọi là Nhứt hạnh tam
muội.
- Phải biết
Chơn như là căn bản của các pháp tam muội; nếu hành giả tu
pháp tam muội này, thì lần lần sẽ được vô lượng pháp tam muội.
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
nói về "Phương tiện tuỳ duyên Chỉ"; nghĩa là tu Thiền định
không những thường ngổi, mà còn phải phương tiện tuỳ duyên tu
tập, không cho gián đoạn. Khi đi đứng nằm ngồi làm các việc,
hành giả cũng phải luôn luôn quán sát tu tập; như thế lâu ngày
tâm được an trụ, nhơn đó định lực lần lần mạnh mẽ nên tín tâm
tăng tấn, dẹp sâu phiền não, được tuỳ thuận vào Chơn như tam
muội, thành bực Bất thối. Chỉ trừ những người huỷ báng không
tin, thì không được vào Chơn như tam muội.
- Hành giả
được Chơn như tam muội rồi, thì biết pháp giới là một, chúng
sanh và chư Phật bình đẳng không hai, mê ngộ đồng một tánh,
nên cũng gọi là Nhứt hạnh tam muội (Tam muội đồng nhứt thể).
- Chơn như
tam muội là căn bản của các pháp tam muội, nên người ngộ được
Chơn như tam muội rồi thì sẽ được các pháp tam muội khác.
- Chữ "Tam
muội", Tàu dịch là Chánh định hay Chánh thọ; Nghĩa là tu Định
đã đến lúc thuần thục hay đúng mức.
- (Đã nói tu
thiền định rồi, tiếp sau đây sẽ nói các việc ma)
-
--- o0o ---
|
|