|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- KHOÁ X - XI
- LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN
- DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI
- Bài Thứ 16
- CHƯƠNG THỨ TƯ
- PHẦM TÍN TÂM,
TU HÀNH
- --- o0o ---
-
-
-
C. NÓI VỀ CÁC
THỨ MA CHƯỚNG TRONG KHI TU THIỀN
- CHÁNH VĂN
- Nếu chúng
sanh nào căn lành mỏng ít, bị các tà ma ngoại đạo, hoặc quỷ
thần làm não loạn, trong khi hành giả tham thiền, chúng hiện
các hình tướng ghê sợ, hoặc hiện kẻ trai người gái xinh đẹp
v.v...thì phải quán Duy tâm, lúc bấy giờ các ma này tiêu diệt,
không còn làm gì nữa được.
- Hoặc chúng
hiện hình chư Thiên, Bồ Tát, Phật, cũng đủ các tướng tốt; hoặc
nói thần chú, nói pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí huệ; hoặc nói pháp bình đẳng, không, vô tướng,
vô nguyện, không oán, không thân, không nhơn, không quả, rốt
ráo trống không vắng lặng, gọi đó là Niết bàn. Hoặc chúng làm
cho hành giả biết được đời trước của mình (túc mạng thông)
hoặc biết những việc quá khứ vị lai, biết đặng tâm người (tha
tâm thông) biện tài vô ngại. Chúng làm cho hành giả tham luyến
danh lợi ở thế gian v.v...Hoặc ma làm cho hành giả tánh không
chừng đỗi, hay giận, hay cười, ưa ngủ, nhiều bịnh, hoặc nhiều
thương xót, tâm hay giải đãi; hoặc có khi rất tinh tấn, có lúc
lại bê tha hoặc sinh tâm nghi ngờ không tin, và nhiều lo nghĩ;
hoặc bỏ pháp tu căn bản, trở lại tu các tạp hạnh; hoặc đắm
nhiễm các việc triền phược ở thế gian; hoặc làm cho hành giả
đặng chút ít phần tương tợ như các pháp tam muội, song đó là
cảnh bị chứng của ngoại đạo, không phải thật tam muội; hoặc
làm cho hành giả ở trong Định, từ một ngày hoặc đến bảy ngày,
tự nhiện đặng món ăn thơm ngon, thân tâm vui thích, không biết
đói khát; khiến cho hành giả rất ưa thích. Hoặc làm cho hành
giả ăn không chừng đỗi, khi nhiều khi ít, sắc mặt biến đổi
luôn. Khi gặp những cảnh như vậy, hành giả phải thường dùng
trí huệ quán sát, siêng năng giữ gìn Chánh niệm, không nên
chấp thủ, chớ để cho tâm mình đoạ vào lưới tà. Phải như thế
hành giả mới xa lìa được các ma chướng.
- LƯỢC GIẢI
- Người tu
thiền định, khi phá trừ ngũ ấm, sẽ bị trên năm chục món ma,
biến hiện đủ cách để thử thách và não hại người tu Thiền.
- Khi gặp các
cảnh ma ấy, hành giả phải dụng tâm như thế nào, và dùng những
phương pháp gì để diệt trừ, thì trong kinh Lăng nghiêm Phật đã
dạy rất rõ ràng và kỹ lưỡng, (quí vị nên đọc đoạn Ngũ ấm ma
trong quyển Đại cương Lăng nghiêm).
- Trong Luận
này, Ngài Mã Minh Bồ Tát chỉ nói sơ lược về ma; Hoặc chúng
hiện thân Phật, thân Bồ Tát ; hoặc nói kinh thuyết pháp thông
suốt; hoặc làm ch người tu thiền biết được việc quá khứ, vi
lai; hoặc đặng túc mạng thông, tha tâm thông, biện tài vô
ngại; hoặc làm cho người tu thiền tham lam danh lợi v.v...
- Khi gặp các
cảnh ma như vậy, hành giả phải đừng quyến luyến, nhiễm trước
và đừng sanh tâm vui mừng hay lo buồn, mà phải luôn luôn quán
Duy tâm; nghĩa là quán do dụng công tu thiền, nên tâm hiện ra
các cảnh như vậy, chứ không có gì lạ và cũng không phải chứng
chi cả. Kinh Lăng nghiêm, Phật nói: " ...Nếu hành giả không
chấp mình được Thiền hay chứng Thánh thì tốt, còn chấp mình
Thiền hay chứng Thánh thì đoạ vào tà đạo" (Bất tác Thánh tâm
danh thiện cảnh giới, nhược tác thánh giải tức thọ quần tà).
Phải dụng tâm như thế thì các cảnh ma kia tự nhiên tiêu diệt.
Nếu hành giả vui mừng, cho mình được Thiền hay chứng Đạo
v.v...thì bị ma ám ảnh nhiễu hại; vì các việc ma là hiện thân
của sự tham luyến vui buồn chấp thủ.
- CHÁNH VĂN
- Phải biết,
các pháp thiền định (tam muội) của ngoại đạo tu tập, đều không
rời phiền não hữu lậu vì tâm còn ngã mạn, chấp ngã tham lam
danh lợi ở thế gian và cầu người cung kính.
- công năng
làm cho các phiền não lần lần mỏng ít; cho đến khi xuất định
hành giả cũng không giãi đãi. Nếu người tu hành mà không tu
pháp Chơn như tam muội này, thì không thể nhập được dòng giống
của Như Lai.
- Tu các pháp
thiền định tam muội của thế gian, cũng như thiền định của
ngoại đạo, đều thuộc trong Tam giới, vì còn các phiền não chấp
ngã và say đắm nhiễm trước nơi cảnh thiền. Bởi thế nên người
tu thiền định, nếu không có Thiện tri thức dẫn dắt, thì quyết
định sẽ lạc vào ngoại đạo.
- LƯỢC GIẢI
- Trong kinh
Lăng nghiêm, khi Phật sắp chỉ dạy phương pháp tu hành thì Phật
đã khuyên bảo dặn dò ông A Nam và đại chúng rằng "Phải phân
biệt rành rõ hai món căn bản: 1. Vọng tâm phiền não là căn bản
của sanh tử luân hồi và 2. Chơn tâm thanh tịnh là căn bản của
Bồ Đề Niết bàn. Nếu các ông nhận lầmpn là căn bản của sanh tử
luân hồilàm nhơn tu hành, thì không bao giờ thành Phật được;
và cũng như người nhận giặc làm con, chỉ bị nó phá hại mà
thôi". Bởi thế nên, đoạn này Bồ Tát Mã Minh phân tách rành rõ
tà định và chánh định, để cho hành giả khỏi lầm lạc.
- Thiền định
của ngoại đạo và thế giam là do phiền não hữu lậu làm động cơ
thúc đẩy, như vì lợi dưỡng, cầu người cung kính v.v...mà tu.
Khi tu thiền, thấy được một vài thắng cảnh thì họ ngã mạn cống
cao và tham ái nơi cảnh thiền v.v...Bởi thế nê tu chừng nào,
thì họ lại tăng trưởng bản ngã, thêm nhiều phiền não, đào sâu
hop61 tà, luân hồi mãi treong tam giới.
- Còn thiền
định của chư Phật là do chơn như thanh tịnh (chơn như) làm
động cơ, nên không vì lợi dưỡng hay cầu người cung kính, khi
thấythắng cảnh, chỉ quán là Duy tâm, không móng tâm tham
luyến, không ngamạn cống cao, không nuôi lớn bản ngã. Bởi thế
nên hành giả tu chừng nào thì phiền não càng tiêu, được vào
cảnh giới của chư Phật.
- Tóm lại,
người tu thiền định, nếu không có Thiện hữu tri thức (Minh sư
chỉ giáo) để dẫn dắt, thì dễ lạc vào tà kiến ngoại đạo.
-
D. MƯỜI ĐIỀU
LỢI ÍCH THIỀN ĐỊNH
- CHÁNH VĂN
- Người
chuyên tâm tinh tấn tu pháp tam muội này (Chơn như tam muội)
thì hiện dời sẽ được mười điều lợi ích:
- 1. Được
mười phương chư Phật và Bồ Tát thường hộ niệm.
- 2. Không bị
các ma quỉ khủng bố.
- 3. Không bị
chín mươi lăm thứ thiên ma ngoại đạo làm mê hoặc.
- 4. Xa lìa
những việc huỷ báng Chánh pháp và các tội chướng nặng nề dần
dần mỏng ít.
- 5. Diệt hết
các nghi ngờ và những sự thấy nghe tội lỗi.
- 6. Đối với
các cảnh giới của chư Phật, lòng tin tăng trưởng.
- 7. Xa lìa
các điều ăn năn lo lắng và đối với việc sanh tử, tâm không
khiếp sợ.
- 8. Tâm được
nhu hoà, bỏ tánh kiêu mạn, chẳng bị người làm não hại.
- 9. Dù chưa
chứng Định, song trong tất cả thời gian, tất cả cảnh giới,
hành giả có thể làm cho các phiền não tổn giảm và không tham
vui ở thế gian.
- 10. Nếu được Tam muội thì không
bị các âm thinh của trần gian và các ngoại duyên làm chao
động.
LƯỢC GIẢI
- Người tu
hành là một vị Tướng soái cxùng với các ma quân trường kỳ
kháng chiến, không phải kháng chiến một năm một tháng, mà phải
nhiều đời nhiều kiếp, không phải một ngày một buổi, mà phải
đánh từng giờ từng phút với giặc nội tâm (phiền não). Cố nhiên
hành giả phải trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là tự
vệ, phải trải qua một a tăng kỳ kiếp (một vô số kiếp), hành
giả thua nhiều thắng ít; giai đoạn thứ hai là cẩm cự, trải qua
một a tăng kỳ kiếp thứ hai, hành giả năm ăn năm thua; giai
đoạn thứ ba là phản công, cũng trải qua một a tăng kỳ kiếp
nữa, hành giả thắng nhiều mà thua ít.
- Tuy nhiên,
nếu hành giả thành tâm chuyên nhứt, tinh tấn tu học pháp "chơn
như tam muội" này, thì sẽ được mười điều lợi ích như trên; mà
điều lợi ích thứ nhứt là được chư Phật và Bồ Tát thường hộ
niệm; như vậy, lo chi chẳng được thành đạo chú?ng quả.
- (Trên đã nói tu Chỉ, tiếp theo
đây sẽ nói tu Quán)
-
E. BẢY PHÁP
QUÁN
- CHÁNH VĂN
- Nếu người
tu Chỉ (Định) mà tâm bị trầm một (chìm lặng) sanh ra giãi đãi,
hoặc chẳng ưa làm việc lành, xa lìa tâm Đại bi, thì phải tu
Quán.
- 1. Quán vô
thường: Quán tất cả các pháp hữu vi trong thế gian, không có
lâu dài, giây phút biến hoại.
- 2. Quán
khổ: Quán tất cả tâm hạnh là khổ, vì mỗi niệm sanh diệt không
dừng.
- 3. Quán vô
ngã: Quán các pháp như quá khứ như chiêm bao, các pháp hiện
tại như chớp nhoáng, các pháp vị lai như mây tụ tán.
- 4. Quán bất
tịnh: Quán tất cả thân hình nam, nữ trong trần gian đều bất
tịnh, đủ các thứ ô uế, không có một chút gì sạch sẽ đáng ưa.
- 5. Quán Đại
bị: Hành giả phải thường nhớ tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến
giờ, đều bởi vô minh huân tập, làm cho tâm sanh diệt, và đã
thọ không biết bao nhiêu thân hình khổ não; hiện tại đây vẫn
bị vô lượng sự khổ sở đang áp bức, cho đến vị lai cũng còn
chịu các điều khổ não, không biết chừng nào cùng tận. Chúng
sanh bị các khổ sở như thế, không thể lìa bỏ được, thế mà
không hay không biết, thật đáng thương xót.
- 6. Quán Đại
nguyện: Hành giả thường suy nghĩ chúng sanh khổ sở như thế,
nên phát tâm dõng mãnh, tu tất cả công đức lành, lập lời thệ
nguyện rộng lớn: "Nguyện cho tâm tôi không cò phân biệt thân
sơ (đồng thể) để dùng vô lượng phương tiện cứu độ tất cả chúng
sanh khổ não khắp cả mười phương, cùng tận vi lai, đều được an
vui Niết bàn".
- 7. Quán
Tinh tấn: Do hành giả đã phát nguyện rộng lớn như vậy, nên
trong tất cả thời gian và tất cả mọi nơi, phải siêng năng tu
học, tuỳ theo khả năng của mình mà làm các việc lành, tâm
không giãi đãi.
- LƯỢC GIẢI
Hành giả nếu tu "Chỉ" mà không tu "Quán" thì có
thể sanh ra những tai hại là xa lìa tâm Đại bi, không ưa làm
các việc lành. Bởi thế nên muốn tránh những tai hại ấy, hành
giả phải tu "Quán".
- Trước nhứt,
hành giả phải quán"Tứ niệm xứ" để thấy rõ thâm tâm và thế giới
đều là vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh". Tiếp đó hành giả
dùng quán Đại bi cứu độ. Rồi tiếp dùng quán Đại nguyện, nghĩa
là khi đã thấy chúng sanh khổ quá, nên hành giả tự phát lời
thệ nguyện rộng lớn và dũng mãnh độ sanh với tâm bình đẳng,
không phân biệt thời gian và không gian. Hành giả đã lập Đại
nguyện rồi thì phải dùng quán Tinh tấn, nghĩa là phải tận lực
của mình làm các điều lợi ích cho chúng sanh trong mười
phương, không khi nào rảnh việc.
-
G. CHÆ VÀ QUÁN
ĐỔNG THỜI TU
- CHÁNH VĂN
- Chỉ trừ
những lúc ngồi chuyên tu pháp "Chỉ" còn ngoài ra tất cả thì
giờ khác, hành giả đều phải quan sát những việc gì nên làm,
việc gì không nên làm.
- Khi đi,
đứng, nằm, ngồi hành giả phải đồng thời tu cả Chỉ và Quán.
Nghĩa là hành giả tuy trong khi quán tự tánh của các pháp
không sanh (Chỉ), nhưng cũng quán do nhơn duyên hoà hiệp, nên
nghiệp lành dữ và quả báo khổ vui không mất (Quán)_ Tuy trong
lúc quán do nhơn duyên hoà hiệp nghiệp báo không mất (Quán),
nhưng hành giả cũng quán tự tánh của các pháp không sanh
(Chỉ).
- LƯỢC GIẢI
- Bồ Tát
MaMinh dạy hành giả trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi
đều phải tu cả Chỉ và Quán. Trong khi quán các pháp vô sanh,
để trừ tâm tham lam ái trước v.v...thì hành giả cũng quán nhơn
duyên hoà hiệp, nhơ quả lành dữ không mất, để rộng tu các việc
lành và giáo hoá chúng sanh. Tuy "quán không" mà chẳng bỏ môn
hạnh lành; "quán có" mà tâm tánh vẫn thanh tịnh, không nhiễm
trước, ái luyến một cảnh nào. Đó là lợi ích của Chỉ và Quán
đồng thời tu vậy.
-
H. LỢI ÍCH TU
CHÆ QUÁN
- CHÁNH VĂN
- Phàm phu tu
"Chỉ" thì trừ được tâm nhiễm trước thế gian; Nhị thừa tu
"Chỉ"thì bỏ được tâm khiếp nhược. Phàm phu tu "Quán", xa lìa
được cái bịnh chẳng ưa tu pháp lành; Nhị thừa tu "Quán", đối
trị được tâm hẹp hòi ích kỹ, chẳng khởi Đại bi. Bởi thế nên
phải tu cả Chỉ và Quán, giúp nhau mới thành, không thể rời
nhau được. Nếu hành giả không tu cả Chỉ và Quán thì sẽ không
thể vào đạo Bồ Đề.
- LƯỢC GIẢI
- Nhờ tu
"Chỉ" nên hành giả ngăn được sự tham trước và khiếp nhược. Nhờ
tu "Quán" nên hành giả phát khởi tâm Đại bi và làm lợi ích cho
chúng hữu tình. Bởi thế nên pháp Chỉ, Quán, (Định, Huệ) là con
đường lớn của hành giả để về cõi Phật.
-
I. PHÁP MÔN
NIỆM PHẬT
- CHÁNH VĂN
- Lại nữa,
nếu có chúng sanh mới tu pháp này, tâm còn khiếp sợ, muốn được
Chánh tín, nhưng lo sợ "ở cõi ta bà không thường găp Phật,
nghe pháp và cúng dường, e sợ lòng tin của mìnhkhông thành
tựu", muốn thối chí, thì những chúng sanh ấy biết rằng: Phật
còn có phương tiện thù thắng, bảo đảm tín tâm của hành giả
được thành tựu. Phương tiện ấy là "Nhơn duyên chuyên tâm niệm
Phật, cầu sanh về cõi Phật ở phương khác, để thường được thấy
Phật, nghe pháp", thì chắc chắn xa lìa được ác đạo.
- Trong Khế
kinh, Phật dạy: "nếu người chuyên tâm niệm Phật A di đà ợ thế
giới Cực lạc phương tây, và đem công đức tu hành hồi hướng
phát nguyện cầu sanh về đó, thì quyết định sẽ sanh về thế giới
Cực lạc, được thường thấy Phật và nghe pháp, không bao giờ
thối chuyển".
- Nếu hành
giả quán chơn như Pháp thân của Phật A di đà và thường siêng
năng tu tập, thì rốt ráo sẽ được sanh vào hàng ngũ chánh định
- LƯỢC GIẢI
- Hành giả
muốn hái quả Phật, tất nhiên phải leo lên cây Bồ Đề cao 6
thước, là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền địngh
và Trí huệ. Quan trọng nhứt là hai thước sau; trong Luận này
gọi lá Chỉ và Quán. Đó là điều duy nhứt của các vị Bồ Tát đã
và sẽ chứng quả Phật.
- Nhưng, có
người lo ngại: "Chúng phàm phu đến quả Phật, phải tu nhiều
kiếp và trải qua thời gian lâu xa là ba vô số kiếp; hơn nữa, ở
cõi Ta bà này có rất nhiều chướng ngại, và không thường gặp
Phật, sự tu khó thành công". Muốn cho những người ấy hết lo
ngại, bảo đảm sự tu hành chắc chắn được kết quả, nên Bồ Tát Mã
Minh chỉ thêm một phương tiện thù thắng của Phật, là dạy người
"Nhứt tâm niệm Phật, hồi hướng cầu sanh về cõi nước của Phật A
di đà, để thường găp Phật và làm bạn với các vị Bồ Tát, ngày
đêm sáu thời thường nghe tiếng pháp; cho đến gió thổi, cây
rung, suối reo, chim hót, cũng đều diễn ra những pháp: Ngũ
căn, Ngũ lực, Thất Bồ Đề, Bát chánh đạo v.v..."; như trong
kinh Di đà đã nói.
- Hành giả
găp hoàn cảnh thuận tiện, tốt đẹp như thế, thì lo gì chẳng
thành đạo chứng quả. Bởi thế nên pháp "Nhứt tâm niệm Phật" là
phương tiện thù thắng nhứt của đức Đại bi Thế tôn
- (Đã hết
chương thứ tư là Tín tâm, Tu hành)
- ***
-
CHƯƠNG THỨ NĂM
-
-
LỢI ÍCH VÀ
KHUYẾN TU
- --- o0o ---
- CHÁNH VĂN
- Pháp Đại
thừa bí mật của chư Phật, tôi đã nói một cách tổng quát rồi.
Nếu có người nào đối với pháp Đại thừa của Như Lai (thậm thâm
cảnh giới) đã không nghi ngờ hay bài báng, lại còn sanh tâm
chánh tín muốn vào Đại thừa, nên họ thọ trì (văn) suy nghĩ
(tư) và tu tập (tu) theo Luận này, thì người ấy sẽ được đạo vô
thượng Bồ Đề. Nếu người nào nghe đến Pháp Đại thừa này mà tâm
không nghi sợ thì người ấy sẽ được chư Phật thọ ký và quyết
định sẽ nối dòng Phật.
- Giả sử có
người giáo hoá chúng sanh cả Đại thiên thế giới (một nghìn
triệu thế giới nhỏ) đều tu thập thiện, công đức của người này
tuy nhiều, nhưng không bằng có người chỉ ở thời gian ngắn như
trong bữa ăn, tu pháp Đại thừa này, thì công đức lài nhiều hơn
người trước không thể so sánh được.
- Lại nữa, nếu có người, hoặc
trong một ngày đêm, thọ trì, quán sát và tu hành theo Luận
này, thì người ấy sẽ được công đức vô lượng vô biên, không thể
nói hết. Dầu cho mười phương chư Phật ở trong vô lượng vô
biên, a tăng kỳ kiếp (vô số kiếp) tán thán công đức của người
đó cũng không hết. Tại sao vậy?_ Bởi vì pháp Đại thừa (Phật
tánh) có công đức không cùng tận; Luận này nói về pháp Đại
thừa nên người thọ trì và tu tập, theo luận này, cũng được
công đức vô lượng vô biên như vậy.
- Nếu chúng
sanh nào đối với Luận này mà huỷ báng, không tin, thì chúng
sanh đó sẽ bị tội báo lớn, trải qua vô lượng kiếp thọ khổ não.
Vì thế nên chúng sanh phải tin tưởng không nên huỷ báng Luận
này, bởi có hại cho mình và người, đoạn tuyệt giống Tam bảo.
- Tất cả chư
Phật đều do pháp Đại thừa này mà được Niết bàn; các vị Bồ Tát
cũng nhờ tu pháp Đại thừa này mà đặng vào trí Phật. Các vị Bồ
Tát quá khứ, hiện tại và vi lai đều tu theo pháp Đại thừa này
mà được thành tựu đức tin thanh tịnh. Bởi thế nên chúng sanh
phải siêng năng tu học.
- LƯỢC GIẢI
- Chương thứ
năm này nói về sự lợi ích và khuyên người tu hành. Bộ Luận này
nói về pháp Đại thừa, tức là tâm chúng sanh hay Phật tánh,
hoặc gọi chơn như hay Pháp thân v.v...Chư Phật, Bồ Tát quá
khứ, hiện tại và vị lai đều tu theo pháp Đại thừa mà được
thành đạo chứng quả. Bởi thế nên người tu theo pháp Đại thừa
chỉ trong thời gian ngắn, như trong bữa ăn hay một ngày đêm,
công đức người này nhiều hơn người dạy chúng sanh trong Đại
thiên thế giới tu Thập thiện; vì tu Thập thiện chỉ hưởng phước
hữu lậu ở cõi trời; và mười phương chư Phật tán dương công đức
của người tu theo Đại thừa cũng không hết lời, vì công đức này
thuộc về chơn tâm thanh tịnh vô lậu, biến khắp tất cả.
- Trái lại
nếu chúng sanh nào huỷ báng không tin Luận này, tức là huỷ
báng không tin pháp Đại thừa hay không tin tánh Phật, tâm chơn
như v.v...của mình thì chúng sanh đó tự đoạn pháp thân huệ
mạng của mình, làm mất giống Phật pháp của mình nên nhiều kiếp
phải chịu sanh tử luân hồi trầm luân trong biển khổ.
- Vì thế nên
chúng sanh không nên nghi ngờ huỷ báng, mà phải tin tưởng và
tu theo Luận này.
-
BÀI KỆ HỔI
HƯỚNG
- CHÁNH VĂN
- Nghĩa lý
rộng sâu của chư Phật
- Tôi nay
tổng quát nói đã rồi
- Nguyện đem
công đức về Pháp tánh
- Tất cả
chúng sanh đều được lợi
- LƯỢC GIẢI
- cầu Tam bảo
gia hộ cho việc làm của mình được khế lý và hợp cơ; rốt sau
nói bài kệ hồi hướng, để hồi hướng cho tất cả chúng sanh đều
nhờ công đức này mà được lợi lạc.
- Đây là bài
kệ hồi hướng.
- Dịch chánh văn xong ngày 27
tháng Giêng Tân Sữu
Lược giải và tu chỉnh, xong ngày 28 tháng Chạp năm Tân Sữu
(1961)
In xong giữa mùa Sen nỡ, năm Nhâm Dần (1962)
--o0o--
|
|