|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ XII
- KINH KIM
CANG
Dịch nghĩa và lược giải
- --- o0o ---
- Bài Thứ
3
-
PHẦN CHÁNH
TÔN (tt)
-
-
7. KHÔNG NÊN
CHẤP:"THẤY ĐƯỢC THÂN CỦA PHẬT LÀ THẤY ĐƯỢC PHẬT
[^]
- Phật hỏi:
"Tu Bồ Đề ! Ông có thể cho thấy cái thân tướng của ta đây là
thấy được Như Lai chăng?".
- Tu Bồ Đề
thưa: "Bạch thế Tôn ! không thể cho thấy cái thân tướng của
Ngài đó là thấy Như Lai. Tại sao vậy?_ Vì Như Lai nói: "Cái
thân tướng này, không phải thật là thân tướng của Như Lai".
- Phật dạy
tiếp: "Tu Bồ Đề ! Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng.
Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều hư vọng, không thậ (phi
tướng) tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp).
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này,
Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp: "Thấy sắc thân của
Phật là thấy được Phật". Đây là lần thứ nhứt, nói về việc thấy
Phật.
- Trên đường
tu hành, phải có đủ cả Sự và Lý. Nhờ Sự tướng bên ngoài, mới
ngộ được lý tánh bên trong; có ngộ Lý tánh bên trong, mới thấy
rõ được Sự tướng bên ngoài.
- Người chấp
Lý mà bỏ Sự, cũng như người chỉ kể suông đủ các thức ăn caso
lương mỹ vị, nhưng bụng vẫn đói. Người mê Sự mà bỏ Lý, cũng
như trẻ con mê bánh vẽ.
- Nhờ có
tượng cốt giả, kinh giấy, tăng phàm v.v...là sự tướng bên
ngoài, để giúp chúng ta nhớ lại tìm cầu Phật thiệt, Pháp thiệt
và Tăng thiệt trong tự tâm của chúng ta.
- Nếu bác bỏ
Sự tướng bên ngoài là hư giả (không thờ Phật, tụng kinh
v.v...) mà chỉ chấp suông về phần Lý tánh bên trong (Phật
tức tâm), thì đức Phật nơi tâm ta cũng không làm sao biểu lộ
ra được.
- Chư Tổ dạy:
- "Thật tế lý
địa, bất thọ nhứt trần
- phật sự
muôn trung, bất xả nhứt pháp".
- Nghĩa là:
Về Phật tâm thanh tịnh, thì không có một nảy trần. Nhưng về
phần Sự tướng tu hành, thì không thể bỏ qua một pháp nào.
- Trái lại,
nếu chấp về Sự tướng (cầu Phật bên ngoài) mà không tìm
Phật thiệt nơi tự tâm của mình, thì cũng không bao giờ thấy
được Phật. Bởi thế nên phật dạy:
- "Nếu người
chấp: "thấy sắc thân của ta cho là thấy được Phật, nghe tiếng
nói Pháp của ta cho là nghe được tiếng Phật", thì người đó đã
đi lạc về đường tà, không bao giờ thấy được Phật".
- (KINH KIM
CANG)
- Ngày xưa có
hai vị Tỳ kheo, từ phương xa đến chiêm bái Phật. Đi đường xa
hết nước, bị khát lâu ngày, vừa gặp ao nước có sinh trùng, một
vị giữ giới không uống nên chết giữa đường; một vị uống nước
được sống, đi đến ra mắt Phật.
- Phật quở rằng: "Ông Tỳ kheo
giữ giới kia tuy chết, nhưng ông vẫn sống và đã thấy ta rồi.
Còn ông không giữ giới tuy sống, ở sát bên ta, nhưng thật ra
ông đã chết và cách ta ngàn dặm".
- Tại sao, vị
Tỳ kheo giữ giới bị chết giữa đường không thấy Phật, mà Phật
lại cho "đã thấy được ta rồi"; trái lại, vị Tỳ kheo không giữ
giới còn sống ở bên Phật thấy được Phật, mà Phật lại cho là
"cách Phật ngàn dặm?".
- Cho biết, thấy cái sắc thân có
32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp bên ngoài của Phật, chưa phải là
thấy được phật; phải thấy "Phật tâm thanh tịnh" hay "pháp thân
Phật" mới thật là thấy Phật.
- Song le, đa
số chúng sanh, chỉ rong ruổi chạy theo giả tướng, tìm ohật bên
ngoài, mà không biết xoay trở lại tìm đức Phật thiệt trong tâm
của mình. Bởi thế nên cổ nhơn quở: "Phật trong nhà không thờ,
mà thờ đức Phật Thích Ca ngoài đường" là vậy.
- Vì phá cái
mê lầm này, nên Tổ Đơn Hà đốt một vị Phật gỗ (Phật giả).
Có người hỏi ngài: "đốt để làm gì?"._ Ngài trả lời: "đốt để
tìm xa lợi" (tìm Phật thiệt). Ông chủ chùa thấy vậy sợ khủng
khiếp, nên rụng hết râu mày; vì huỷ kinh đốt Phật là tội rất
nặng.
- Vì sự kiện
này, nên cổ nhơn có lám bài kệ:
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Đơn Hà thiêu mộc Phật
-
Viện chủ lạc tu mi
-
Nhứt trường kỳ đặc sự
-
Thiên hạ thiểu nhơn tri
-
Dịch nghĩa:
-
Tổ Đơn Hà đốt Phật gỗ
-
Ngài viện chủ rụng râu mày
-
Một trường hợp rất đặc biệt
-
Trong thiên hạ ít người biết.
- Trọng tâm
trong đoạn văn này là hai chữ "thấy Phật". Phật hỏi: "Ông có
thể cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như Lai
chăng?"_ Ngài Tu Bồ Đề đáp: "Không thể cho thấy cái thân tướng
của Phật là thấy Phật".
- Phật dạy
tiếp: "Phàm cái gì có hìng tướng đều là hư vọng", (phàm sở
hữu tướng giai thị hư vọng). Sắc thân của Phật do tứ đại
giả hợp, có hình tướng nên cũng là hư vọng. Bởi thế nên thấy
sắc thân của phật, chưa phải là thấy được Phật.
- Vậy thì thấy cái gì mới thấy
được Phật?
- Phật dạy
tiếp: "Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều là hư vọng,
tức là thấy đượcNhư Lai (thật tướng các pháp).
- Ngài thái
Hư Pháp sư giảng:
- Đoạn này
không những nói sắc thân của Phật là hư vọng, mà tất cả các
hình tướng, như thế giới chúng sanh v.v...cũng đều hư vọng,
như hoa trong gương, như trăng duới nước, không có chơn thật.
Nếu người rõ thấu được các tướng đều hư vọng như vậy, tức là
đã thấy được "pháp thân của Như Lai", tức là rõ thấu được
"tướng chân thật của các pháp", cũng tức là "Trí huệ vô
thượng", và cũng tức là "Kim Cang Bát Nhã diệu tâm".
- (KIM CANG
GIẢNG LỤC)
- Tóm lại,
đoạn kinh nầy, Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã, phá trừ
vọng chấp: "Thấy sắc thân có 32 tướng tốt, và 80 vẻ đẹp bên
ngoài của Phật, rồi chấp là thấy được Phật", mà quên xoay trở
lại, tự tìm cấu đức Phật thiệt trong tự tâm của minh.
-
8. NGƯỜI TIN ĐƯỢC
KINH NÀY, DO ĐÃ TRỔNG CĂN LÀNH TỪ NHIỀU KIẾP
[^
- Ông Tu Bồ
Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn ! chúng sanh nghe đến kinh này,
chẳng biết có tin được không?".
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Ông chớ nên lo như vậy. Không những hiện tại mà cả
vị lai đều có người nghe và tin được kinh này. Sau 500 năm,
khi Như Lai nhập diệt, nếu có người xuất gia (trì giới) hoặc
tại gia (tu phước) nghe đến kinh này, mà sanh lòng tin thọ,
thì biết người này đã trồng căn lành (đã tu), không phải mới
bốn năm đời Phật, mà đã nhiều kiếp tu hành, từ vô lượng vô số
chư Phật đến nay
- LƯỢC GIẢI
- Ông Tu Bồ
Đề hỏi Phật: "Không biết chúng sanh nghe đến kinh này, có tin
được không?". Đây là lần thứ nhứt hỏi về việc tin thọ.
- Phật vì
những hàng Đại thừa Bồ Tát, nói kinh Kim Cang Bát Nhã, dạy các
vị Bồ Tát, dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ các vô minh vọng chấp
ngã, pháp, để trở vềvới bản tâm thanh tịnh là tánh Bát Nhã
chơn không, vô trụ vô tướng.
- Ông Tu Bồ
Đề lo ngại cho chúng sanh căn cơ thấp kém, sợ e không hiểu và
không tin, nên ông hỏi Phật: "Không biết chúng sanh nghe đến
kinh này, có tin được không?".
- Đại ý, Phật
dạy: không những hiện tại ở đời Chánh pháp, có chúng sanh hiểu
và tin được kinh này, mà vị lai, sau khi Phật nhập diệt 500
năm, trong đời Tượng pháp hoặc Mạt pháp, cũng có chúng sanh
hiểu và tin được kinh này. Nhưng, những chúng sanh đời Tượng
pháp hoặc Mạt pháp tin được kinh này, là do họ đã nhiều kiếp
có tu hành, trồng căn lành từ vô lượng đức Phật về trước
(như Ngài Huệ Năng chỉ nghe một câu "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm" trong kinh này mà được tỏ ngộ), chứ không phải mới tu
từ bốn năm đời đức Phật trở lại đây.
-
9. NGƯỜI THỌ TRÌ KINH
NẦY CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG
[^]
- Phật dạy
tiếp: "Tu Bồ Đề ! Như Lai thấy rõ ràng và biết chắc chắn: Nếu
có chúng sanh nào nghe đến kinh này, sanh tâm tin thọ, cho đến
trong thời gian rất ngắn, chỉ nhứt niệm, thì chúng sanh đó sẽ
được phước đức vô lượng vô biên.
- Tại sao
vậy"_ Vì chúng sanh này không còn chấp tướng ngã tướng nhơn,
tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tướng phải pháp và tướng
không phai pháp".
- LƯỢC GIẢI
- Phật khuyên
người tin và thật hành theo kinh này, sẽ được công đức vô
lượng. Đây là lần khuyên thứ nhứt.
- Người có
cái khiếu về âm nhạc, mới nhận được cái hay và ưa thích về âm
nhạc. Người có cái khiếu về hội hoạ mới thấy được cái đẹp và
ưa thích về hội hoạ. Người có cái khiếu về văn chương mới thấy
cái hay và ưa thích về văn chương.
- Cũng thế,
người có cái khiếu về Bát Nhã, hay nói theo danh từ Duy thức
là "hạt giống Bát Nhã", mới hiểu và tin được kinh Bát Nhã.
- Người đã có
hạt giống Bát Nhã, tất nhiên không còn chấp các tướng: ngã,
nhơn, chúng sanh, thọ giả, tướng phải pháp (Phật pháp)
và tướng không phải pháp (tà pháp). Người này đuợc nghe
thêm kinh Bát Nhã làm cho hạt giống Bát Nhã của mình được sanh
trưởng, sẽ mau đặng quả Bồ Đề. Bởi thế nên phật dạy: " ta thấy
rõ ràng và biết chắc chắn: chúng sanh nào nghe hiểu và tin
được kinh này, thì sẽ được phước đức vô lượng vô biên".
-
10. GIÁO PHÁP CỦA
PHẬT CŨNG NHƯ CHIẾC THUYỀN ĐƯA NGƯỜI QUA BỂ KHỒ
[^]
- Phật dạy:
"Nếu các ông còn chấp các tướng, hoặc chấp "tướng chánh pháp"
hay chấp "tướng phi chánh pháp" thì cũng đều bị dính mắc nơi
bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Bởi thế nên
khôngđược chấp "tướng chánh pháp" hay chấp "tướng phhi chánh
pháp".
- Cũng vì lẽ
đó, nên Như Lai thường dạy: "Các thầy Tỳ kheo phải biết: giáo
pháp của ta cũng như chiếc đò, đưa người qua sông; các ông
không nên trụ chấp nơi giáo pháp.
- "Chánh pháp" còn không nên trụ
chấp huống chi là "phi pháp".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp "chánh pháp" và
chấp "phi chánh pháp".
- Phật dạy
hành giả, không nên chấp một tướng gì cả; dù là "chánh pháp"
(hay Phật pháp) cũng không được chấp. Nếu còn trụ chấp, bất
luận một tướng gì, thì cũng đếu bị mắc vào bốn tướng: ngã,
nhơn, chúng sanh và thọ giả, hay nói gọn hơn là mắc vào tướng
ngã, pháp. Nếu còn chấp ngã, pháp thì phiền não vọng chấp đua
nhau sanh khởi. Phiền não vọng chấp sanh khởi, thì hành giả
không thể hàng phục được vọng tâm và an trụ chơn tâm.
- Bởi thế nên
Phật dạy:" Giáo pháp của Phật cũng như chiếc đò đưa người qua
sông". Khi đến bờ rồi hành giả phải bỏ chiếc đò, mà lên bờ.
Trái lại, nếu hành giả cứ khư khư chấp giữ chiếc đò, thì không
bao giờ lên bờ được. Người tu hành cũng thế, phải bỏ cái
"chấp", mới lên bờ giải thoát được.
- Trong kinh
Viên giác chép:"Tất cả kinh giáo của Phật, cũng như ngón tay
để chỉ mặt trăng. Người xem, phải nương ngón tay mới thấy được
mặt trăng. Nhưng nếu chấp ngón tay (chỉ xem ngón tay)
thì không bao giờ thấy được mặt trăng".
- Tóm lại,
Phật dạy:"chánh pháp" (Phật pháp) còn không nên chấp, huống
chi là "phi pháp".
- ***
- Ngài Xuyên
Thiền sư ngộ được lý vô trước của kinh Bát Nhã, nên làm bài kệ
rằng:
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Đắc thọ phàn chi mạt túc kỳ
-
Huiyền nhai tán thủ trượng phu nhi
-
Thuỷ hàn dạ lãnh ngư nan mích
-
Lưu đắc không thuyền tải nguyệt qui.
-
Dịch nghĩa:
-
Niu nhánh chuyền cây chẳng phải tài
-
Dốc đứng buông tay mới trượng phu
-
Gió lạnh đêm khuya câu chẳng có
-
Thuyền không chỉ chở bóng trăng thanh.
- ĐẠI Ý
- Câu thứ
nhứt, nói về tiệm tu, phải lần hồi, còn chấp trụ nơi danh
tướng; cũng như người đi mà níu nhánh vịn cây, thì không có gì
hay cả.
- Câu thứ
hai, nói về đốn tu, không trụ chấp các tướng; cũng như người
đi lên dốc ngược, mà không níu vịn đâu hết, mới là bực đại
tài.
- Câu thứ ba,
nói về tâm cảnh đều vắng lặng, cũng như canh khuya thanh vắng,
bầu trời yên lặng, mặt nước phẳng lặng như tờ, cá chim cũng
đều lặng nghỉ, không hoạt động.
- Câu thứ tư, nói về khi các
vọng chấp các tướng ngã, pháp đã hết, thì chỉ còn ánh Trí huệ
Bát Nhã chơn không; cũng như chiếc thuyền không (không
chấp) chỉ chở bóng trăng thanh (Trí huệ Bát Nhã).
-
11. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "NHƯ LAI CÓ THÀNH PHẬT VÀ THUYẾT PHÁP"
[^]
- phật hỏi
ông Tu Bồ Đề:"Như Lai có thành Phật không? Và Như Lai có
thuyết pháp không?".
- Tu Bồ Đề
thưa:"Bạch Thế Tôn ! Như Lai không thành Phật và Như Lai cũng
không thuyết pháp. Tại sao vậy? Vì pháp của Như Lai, không thể
chấp thủ, nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, không
phải chánh pháp, mà cũng không phải phi pháp.
- Như thế thì
làm sao, có cái gì quyết định là "thành Phật", và có cái gì
quyết định là "nói pháp".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai thật có
thành Phật, và thật có nói pháp".
- Trong Duy
thức Tam thập tụng có chép:
-
Hiện tiền lập thiểu vật
-
Vị thị Duy thức tánh
-
Dĩ hữu sở đắc cố
-
Phi thật trụ Duy thức
- Nghĩa là:
nếu hành giả hiện tiền còn phần nào chấp mình có chứng Duy
thức tánh, thì chưa phải thật chứng Duy thức tánh, vì còn vọng
chấp có "sở đắc" vậy.
- Nếu Như Lai có thành Phật, tất
nhiên phải có chúng sanh chưa thành Phật, thế thì bốn tướng:
ngã, nhơn v.v....đua nhau sanh khởi. Nếu còn ngã, nhơn
v.v...thì không phải là Phật.
- Nếu Như Lai
có nói pháp, tất nhiên phải có chúng sanh nghe pháp. Nếu còn
có kẻ nói người nghe, tức nhiên còn nhơn, ngã, bỉ, thứ. Nếu
còn ngã, nhơn thì không phải là thuyết Phật pháp. Bởi thế, nên
Phật thuyết pháp 49 năm, mà rốt cuộc Phật nói:"Ta không nói
một chữ".
- Đức Lão Tử
nói:"Cái "đạo" mà có thể nói được, thì không phải thật là đạo.
Cái "tên? mà có thể kêu gọi được, thì không phải thật là "tên"
(Đạo khả đạo, phi thường đạo giả, danh khả danh, phi thường
danh).
- Kinh
chép:"Một hôm, ông Tu Bồ Đề ngồi yên lặng dưới gốc cây. Trời
Đế Thích đến rưới hoa cúng dường. Ô ng Tu Bồ Đề hỏi:"Ai rãi
hoa và rãi hoa để làm gì?". Trời Đế Thích thưa:"Ngài nói kinh
Bát Nhã hay quá ! Con đến rãi hoa cúng dường". Ông Tu Bồ Đề
nói:"Ta không nói kinh Bát Nhã". Trời Đế Thích thưa:"Ngài
không nói, con không nghe".
- Kết
luận:"Không nói Bát Nhã và không nghe Bát Nhã", như thế mới
thật là "nói Bát Nhã và nghe Bát Nhã".
- Ông Tu Bồ
Đề đã hiểu:"Phật pháp" không thể nghĩ bàn, không thể chấp thủ,
chẳng phải "có", chẳng phải "không", không phải "chánh pháp"
và cũng không phải "phi chánh pháp"; nên bạch Phật rằng:"Như
Lai không thành Phật và Như Lai cũng không thuyết pháp".
- Tóm lại,
phải rời các vọng chấp, không còn dụng tâm suy nghĩ và lời nói
luận bàn, mới thật là "thành Phật" và "thuyết pháp".
-
12. PHẬT PHÁP KHÔNG
CÓ SAI KHÁC, DO TRÌNH ĐỘ CỦA CHÚNG SANH MÀ THẤY CÓ SAI KHÁC
[^]
- Ông Tu Bồ
Đề bạch Phật:"Phật pháp đã như thế, tại sao lại có các quả
thánh hiền cao thấp khác nhau?". Phật dạy:"Vì trình độ của
chúng sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác,
chứ không phải Phật pháp (vô vi) có sai khác".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn nầy
phá cái chấp "Phật pháp có sai khác".
- Đoạn trên
đã nói:"Pháp của Như Lai, không thể chấp thủ, nói năng không
trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, không phải chánh pháp và cũng
không phải phi pháp" . phật pháp đã cao siêu như vậy, vượt ra
ngoài nói năng và suy nghĩ, tại sao lại có các quả thánh hiền
cao thấp khác nhau?
- Phật giải
thích:"Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả
thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác"
- Trong kinh
thường thí dụ:"Như ba con thú qua sông". Nghĩa là Phật pháp
như con sông, không cạn không sâu. Hành giả như ba con thú lội
qua sông: Con Dê thì lội ngập đầu (dụ cho Tiểu thừa); con Nai
thì lội ngập cổ (dụ cho Trung thừa); con Voi thì lội ngập ống
chân (dụ cho Đại thừa).
- ***
- Phật pháp
cao siêu huyền diệu, không thể nói năng và luận bàn, nên Ngài
Xuyên Thiền sư có làm bài tụng rằng:
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Hư không cảnh giới khởi tư lương
-
Đại đạo thanh u lý cánh trường
-
Đản đắc ngũ hồ phong nguyệt tại
-
Xuân lai y cựu bách hoa hương.
-
Dịch nghĩa:
-
Hư không rộng rãi lớn bao la
-
Lý đạo lại càng quá thẩm xa
-
Trăng, gió, nước hồ thường tự tại
-
Chào xuân đua nở trăm nghìn hoa.
- ĐẠI Ý
- Hư không đã
rộng lớn bao la không thể nghĩ bàn, Phật pháp lại càng cao
siêu huyền diệu rộng lớn hơn hư không. Cảnh vật thiên nhiên
của vũ trụ, như trăng thanh gió mát, nước hồ phẳng lặng, xuân
về trăm hoa đua nở v.v...đều nói lên tinh thần tự tại giải
thoát của Phật pháp.
- Kinh
chép:"Nhứt thế chư Pháp vô phi Phật pháp". Nghĩa là "Tất cả
các pháp thế gian cũng đều là Phật pháp". Nếu mê thì pháp thế
gian, còn ngộ là Phật pháp.
- GIẢI DANH
TỪ
- Chấp thủ:
nắm giữ
- Chánh Pháp:
Pháp chơn chánh
- Phi Pháp:
Pháp không chơn chánh
- Vô vi: Pháp
không bị tạo tác thi vi, không sanh diệt, tức là chơn như hay
Phật tánh.
--o0o--
|
|