|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Phổ
Thông
- KHOÁ XII
-
KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giải
- --- o0o ---
- Bài Thứ 4
- PHẦN CHÁNH TÔN (tt)
-
-
Phật hỏi:"Tu Bồ Đề ! Nếu có người đựng đầy bảy báu trong đại
thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) đem bố thí (tài thí),
thì phước đức nhiều không?". Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn !
Nhiều lắm".
-
Phật dạy:" Tu Bồ Đề ! Nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này,
hoặc vì người giảng nói trọn quyển hoặc nửa quyển, cho đến tối
thiểu là bốn câu kệ, thì công đức (pháp thí) của người này
nhiều hơn người trước. Tại sao vậy? Vì tất cả Phật và Pháp đều
từ kinh này mà ra".
-
Phật dạy tiếp:" Tu Bồ Đề ! Gọi là "Phật, Pháp", thực ra cũng
không phải "Phật, Pháp", chỉ tạm gọi là "Phật, Pháp".
-
LƯỢC GIẢI
-
Đây
là lần thứ hai, Phật nói về công đức thọ trì đọc tụng kinh
này, nhiều hơn người bố thí thất bảo.
-
Đoạn nầy nên chia làm ba phần để giải thích.
-
1.
So sánh phước đức giữa tài thí và pháp thí
-
Ngọc ngà châu báu là vật rất quý, đã ít có và khó kiếm, nên
không ai có nhiều được. Nhưng nếu người nào có nhiều châu báu,
đựng đầy một nghìn triệu thế giới nhỏ (đại thế giới) đem ra bố
thí, tất nhiên phước đức nhiều lắm.
-
Nhưng, nếu có người thọ trì kinh này hoặc giảng nói cho người
nghe, từ một quyển, nửa quyển, hoặc một tờ cho đến tối thiểu
là bốn câu kệ, thì công đức của người sau, lại nhiều hơn người
trước. Tại sao vậy? Vì bố thí tiền tài, dù có nhiều bao nhiêu
cũng chỉ giúp về phần vật chất, làm cho người giàu có sung
sướng nhứt thời mà thôi. Còn bố thí về giáo pháp là giúp về
phần tinh thần, làm cho người hiểu biết giáo lý tu hành, thoát
ly sanh tử luân hồi, kiến tánh thành Phật, rồi trở lại độ
chúng sanh đều được giải thoát. Bởi thế nên bố thí pháp (tinh
thần) tuy ít, nhưng phước đức nhiều hơn bố thí tài (vật chất).
-
2.
Phật và Pháp đều từ kinh này sanh.
-
Kinh này là kinh "Kim Cang Bát Nhã", tức là kinh nói về "Trí
huệ Phật". Trí huệ này phá núi vô minh phiền não, nhưng không
bị hư hoại, nên gọi là "Kim Cang".
-
Nhờ
Trí huệ Kim Cang Bát Nhã phá hết vô minh, nên mới minh tâm
kiến tánh thành Phật, nên nói:"Kinh này sanh ra chư Phật". Và
sau khi thành Phật rồi, cũng nhờ có Trí huệ Bát Nhã mới nói ra
giáo pháp, nên nói "kinh này sanh ra Pháp".
-
3.
Phá cái chấp "thật có Phật, Pháp".
-
Đúng theo "tánh Bát Nhã Chơn không", thì nói năng không trúng,
suy nghĩ chẳng nhằm, nên không có thể kêu gọi là gì được cả.
Nhưng sở dĩ gọi "Phật, Pháp", là một danh từ, đặt ra để gọi
tạm mà thôi; thật ra cũng không phải là "Phật, Pháp". Nếu còn
chấp "thật có Phật, Pháp" thì không đúng với "Tánh Bát Nhã
chơn không", nên Phật dạy:" Gọi là Phật Pháp, thực ra cũng
không phải Phật Pháp, chỉ tạm gọi là Phật Pháp".
-
GIẢI DANH TỪ
-
Bảy
món báu: Vàng, bạc, ngọc lưu ly, ngọc xà cừ, ngọc mã não, ngọc
san hô và ngọc hổ phách.
-
1.000 thế giới nhỏ, gọi là "Tiểu thiên thế giới"; 1.000 Tiểu
thiên thế giới, gọi là "Trung thiên thế giới"; 1.000 Trung
thiên thế giới, gọi là "Đại thiên thế giới". Một Đại thiên thế
giới là một nghìn triệu thế giới nhỏ. Thế giới Ta bà là một
Đại thiên thế giới.
-
Kệ:
Một bài kệ là 4 câu, hoặc nhiều câu, như thơ tứ cú, bát cú
v.v...ở nước ta.
-
Thọ trì: Lãnh thọ và
hành trì.
- ***
-
14. BỐN QUẢ THINH VĂN, KHÔNG NÊN CHẤP
MÌNH CÓ CHỨNG QUẢ. [^]
-
Phật hỏi:"Tu Bồ Đề ! Nếu vị Tu đà hoàn tự nghĩ rằng:"Tôi đã
đặng quả Tu đà hoàn", nghĩ như thế có được không?"
-
Tu
Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị
Tu đà hoàn, phải không còn có thấy mình có chứng quả Tu đà
hoàn (Tàu dịch Nhập lưu), thế mới thật là chứng quả Tu đà
hoàn".
-
Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị Tư đà hàm tự nghĩ rằng:"Tôi đã
đặng quả Tư đà hàm"; nghĩ như thế có được không?".
-
Tu
Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị
Tư đà hàm, phải không còn có thấy mình có chứng quả Tư đà hàm
(Tàu dịch Nhứt lai), thế mới thật là chứng quả Tư đà hàm".
-
Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị A na hàm tự nghĩ rằng:"Tôi đã
đặng quả A na hàm"; nghĩ như thế có đặng không?".
-
Tu
Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị A
na hàm, phải không còn có thấy mình có chứng quả A na hàm (Tàu
dịch là Bất lai), thế mới thật là chứng quả A na hàm".
-
Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị A la hán tự nghĩ rằng:"Tôi đã
đặng quả A la hán"; nghĩ như vậy có đặng không?".
-
Tu
Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị A
la hán, phải không còn có thấy mình có chứng quả A la hán, thế
mới thật là chứng quả A la hán. Nếu còn thấy mình chứng quả A
la hán tức là còn trụ chấp (dính mắc) về bốn tướng:ngã, nhơn,
chúng sanh và tu hành giả, thì không phải thật chứng A la hán.
-
Bạch Thế Tôn ! Cũng như con đây, vì con không còn chấp mình có
tu chứng, nên mới được Như Lai chứng nhận:"Tu Bồ Đề đã đặng
pháp Tam muội vô tránh; Tu Bồ Đề là người ưa tu hạnh tịch tịnh
(A lan na); Tu Bồ Đề là vị A la hán ly dục thứ nhứt. Trong
chúng, Tu Bồ Đề là hơn hết".
-
Bạch Thế Tôn ! Nếu con nghĩ (châp rằng:"Con đã đặng quả A la
hán, con l;à vị A_la hán ly dục thứ nhứt v.v...thì Đức Như Lai
không chứng nhận và không khen ngợi con như vậy".
-
LƯỢC GIẢI
-
Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp của bốn
quả Thinh văn, tự thấy mình có chứng quả.
-
Trong kinh Tứ thập nhị chương có chép:
-
"Tu
vô tu tu, chứng vô chứng chứng v.v..."
-
Nghĩa là: Tu mà không còn chấp mình tu, thế mới thật là tu.
Chứng quả, mà không chấp mình chứng quả, thế mới thật là chứng
quả v.v....
-
Nếu
người tu chứng, đúng theo tinh thần của "Kim Cang Bát Nhã",
nghĩa là không còn các vọng chấp ngã và pháp hay bốn tướng,
thì mới thật tu và thật chứng.
-
Trái lại, nếu còn chấp ngã, pháp hay bốn tướng (ngã, nhơn
v.v..) tức là không nhập được "Kim Cang Bát Nhã", thì không
phải thật tu và thật chứng.
-
Bởi
thế nên bốn quả Thinh văn, nếu còn tự thấy mình có chứng quả
Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, tức là còn chấp ngã
(ta chứng đặng) và chấp pháp (quả vị để chứng) thì không nhập
được "Kim Cang Bát Nhã", nên không phải là Tu đà hoàn, Tư đà
hàm, A na hàm, A la hán.
-
Ông
Tu Bồ Đề, tự đem mình ra làm thí dụ điển hình. Đại ý ông nói:
Nếu ông chấp rằng:"Tôi đã đặng pháp Tam muội và đặng quả A la
hán v.v..." tức nhiên ông còn chấp ngã (quả A la hán) chấp
pháp ( Tam muội), chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, thì Phật
đâu có ấn chứng cho ông là vị A la hán ly dục thứ nhứt v.v....
-
Ngài Phó Đại sĩ nói bài tụng giải thích rằng:
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Vô
sanh tức vô diệt
-
Vô
ngã phục vô nhơn
-
Vĩnh trừ phiền não chướng
-
Trường từ hậu hữu thân
-
Cảnh vong tâm diệc diệt
-
Vô
phục khởi tham sân
-
Vô
bi không hữu trí
-
Hốt
nhiên độc nhậm chơn.
-
Dịch nghĩa:
-
Không sanh cũng không diệt
-
Không ngã cũng không nhơn
-
Dứt
trừ phiền não chướng
-
Không còn có thân sau
-
Tâm
cảnh đều vắng lặng
-
Do
đâu khởi tham sân
-
Không bi cũng không trí
-
Thế
mới nhập Chơn như.
-
ĐẠI
Ý
-
Nếu
không còn các vọng chấp nhơn, ngã, sanh, diệt v.v...thì các
phiền não không do đâu mà sanh ra. Phiền não không sanh, tức
không tạo nghiệp, nên không bị sanh tử luân hồi. Vì tâm và
cảnh đã vắng lặng thì do đâu khởi tâm, sân, si. Cho đến bi và
trí cũng không chấp, nên chơn tâm hay chơn như tự hiện bày.
-
Tóm
lại, vì không còn các vô minh vọng chấp: nhơn, ngã, tâm, cảnh,
sanh, diệt v.v...nên mới chứng đặng chơn tâm thanh tịnh. Như
thế mới thật tu và thật chứng.
-
GIẢI DANH TỪ
-
Tu
đà hoàn: trong bốn quả Thanh văn của Tiểu thừa, Tu đà hoàn là
quả Thánh nhỏ nhứt. Tu đà hoàn là dịch âm tiếng Phạn, Trung
hoa dịch là "Dự lưu" hoặc "Nhập lưu", nghĩa là mới dự vào dòng
Thánh nhơn.
-
Tu
đà hàm: Quả Thánh thứ hai trong bốn quả Thinh văn. Trung hoa
dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa là "Nhứt vãng lai"; nghĩa
là còn một lần qua cõi nhơn, thiên để tu hành đoạn hoặc, rồi
mới chứng đặng quả A la hán.
-
A
na hàm: Quả Thánh thứ ba trong bốn quả. Trung hoa dịch âm
tiếng Phạn, dịch nghĩa "Bất lai"; nghĩa là không còn trở lại
thọ sanh trong Dục giới nữa.
-
A
la hán: Quả Thánh thứ tư trong bốn quả. Trung hoa dịch âm
tiếng Phạn, nếu dịch nghĩa, có ba:
-
a.
Vô sanh: Không còn sanh trở lại ba cõi
-
b.
Sát tặc: Đã giết hết các giặc phiền não.
-
c.
Ứng cúng: Xứng đáng cho nhơn thiên cúng dường.
-
Do
tu nhơn Tỳ kheo có 3 nghĩa, nên chứng quả A la hán cũng có 3
nghĩa:
-
Nhơn Phá ác ..... Vô sanh Quả
-
Tỳ
kheo Bố ma ... Sát tặc A la hán
-
Khất sĩ .... Ứng cúng
-
TAM
MUỘI: Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa là "Chánh
định".
-
TAM
MUỘI VÔ TRÁNH: Pháp chánh định hơn hết.
-
A
LAN NA: Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, nghĩa là không ồn ào náo
nhiệt, vắng vẻ thanh tịnh, giải thoát không bị trần luî.
- ***
-
15. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐẮC
PHÁP". [^]
-
Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Về quá khứ đối với trước Phật Nhiên
Đăng, ta có đắc pháp không?".
-
Tu
Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Đức Như Lai thật không có "đắc
pháp" gì cả".
-
LƯỢC GIẢI
-
Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai
thật có đắc pháp".
-
Kinh chép:"Về quá khứ, vô lượng, vô số kiếp về trước, Đức
Thích Ca đối trước Phật Nhiên Đăng, được Ngài truyền chánh
pháp và thọ ký, tương lai sẽ được thành Phật, hiệu là Thích Ca
Mâu Ni".
-
Nhưng, nếu Như Lai còn chấp mình có "đắc pháp và được thọ ký"
tức là Như Lai còn chấp ngã (ta được) chấp pháp (đắc pháp) thì
không phải là Như Lai. Bởi thế nên ông Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế
Tôn ! Như Lai không có đắc pháp gì cả".
-
Vì Như Lai không chấp
mình có "đắc pháp" và "thọ ký", nên không mắc vào bốn tướng
ngã, nhơn v.v...được nhập Kim Cang Bát Nhã. Như thế mới thật
là "đắcpháp" và "được thọ ký".
- ***
-
16. PHẬT PHÁ CHẤP "BỔ TÁT THẬT CÓ LÀM
TRANG NGHIÊM CÕI PHẬT". [^]
-
Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Bồ Tát có làm trang nghiêm cõi Phật
không?"
-
Tu
Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát không làm trang nghiêm cõi
Phật. Tại sao vậy? Bồ Tát làm trang nghiêm cõi Phật, mà không
thấy (chấp) mình có trang nghiêm cõi Phật, như thế mới thật là
trang nghiêm cõi Phật".
-
LƯỢC GIẢI
-
Đoạn này phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Bồ Tát có
làm trang nghiêm cõi Phật"
-
Bồ
Tát làm các Phật sự, giáo hoá chúng sanh, đó là trang nghiêm
cõi Phật. Nhưng, nếu Bồ Tát còn chấp mình có làm Phật sự, giáo
hoá chúng sanh, thì Bồ Tát còn tâm nhiễm ô vọng chấp ngã (ta
giáo hoá) nhơn (người được giáo hoá). Đem tâm nhiễm ô vọng
chấp mà làm "trang nghiêm cõi Phật", thì cõi Phật thành nhiễm
ô, không thể "trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh" được.
-
Trái lại, phải dùng tâm thanh tịnh (không còn các nhiễm ô vọng
chấp, chấp ngã, chấp pháp v.v...) mà trang nghiêm cõi Phật,
thì cõi Phật mới thanh tịnh trang nghiêm được.
-
Ngài Xuyên Thiền sư dạy:
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Chánh nhơn thuyết tà pháp, tà pháp tất qui chánh
-
Tà
nhơn thuyết Chánh pháp, chánh pháp tất qui tà
-
Giang Bắc thành chỉ, Giang Nam quít.
-
Xuân lai đô phóng nhứt ban hoa.
-
Dịch nghĩa:
-
Người chánh nói pháp tà, tà pháp trở về chánh
-
Người tà nói pháp chánh, pháp chánh trở thành tà.
-
Cũng một cây, nhưng ở Giang bắc thì cây chỉ xát, Giang nam thì
thành cây quít.
-
Xuân về đều trổ một thứ hoa.
-
ĐẠI
Ý
-
Người đem tâm đời (danh, lợi, sân, si v.v...) mà làm việc Đạo
(làm các phật sự) thì việc Đạo biến thành việc đời. Trái lại,
người đem tâm Đạo (từ bi, hỷ xả v.v...)mà làm việc đời (tiếp
xúc làm việc với chúng sanh) thì việc đời trở thành việc Đạo
(tứ nhiếp pháp, ngũ minh v.v...) cũng như một thứ cây, nhưng
nếu ở đất Giang Bắc thì thành cây chỉ xát, trái đặc ruột và
chua, ăn không được; còn ở đất Giang Nam thì thành cây quít,
trái ngọt.
-
Dù
việc chánh hay tà, việc đời hay đạo, đều có nhơn và có quả,
chẳng qua tốt hay xấu mà thôi. Cũng như cây chỉ xát hay cây
quít, Xuân về đều trổ một thứ hoa và một thứ trái; nhưng trái
quít thì ngọt, mà chỉ xát lại chua.
- ***
-
17. PHẬT DẠY: "ĐỪNG SANH VỌNG TÂM TRỤ
CHẤP MỘT NƠI NÀO" [^]
-
Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Các vị Đại Bồ Tát phải giữ tâm thanh
tịnh, chớ nên sanh vọng tâm trụ chấp nơi sắc trần, thinh trần,
hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần. Tóm lại, Bồ Tát
đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả" (Ưng vô sở trụ nhi
sanh kỳ tâm).
-
LƯỢC GIẢI
-
Hai
đoạn trên phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp" và "Bồ Tát có làm
trang nghiêm cõi Phật". Đoạn này tóm lại, Bồ Tát phải giữ tâm
thanh tịnh, không nên sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả.
-
Tất
cả sự vật trong vũ trụ, tuy vô cùng vô tận, nhưng không ngoài
18 giớilà 6 căn, 6 trần và 6 thức; căn và trần thuộc về vật
chất, còn thức thuộc về tinh thần.
-
Phật dạy các vị Bồ
Tát, phải giữ tâm thanh tịnh, không nên sanh vọng tâm dính mắc
(trụ chấp) nơi sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc
trần và pháp trần v.v...
-
Tóm
lại, chỉ trong một câu, Phật dạy: "Đừng sanh vọng tâm dính mắc
(trụ chấp) một nơi nào".
-
Thuở xưa, ngài Huệ Năng vừa nghe phú ông tụng kinh Kim Cang
Bát Nhã vừa đến câu:
-
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"
-
Đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào).
-
Ngài liền tỏ ngộ lý Kim Cang Bát Nhã !...Ngài hân hoan ca
ngợi: "Hay quá ! kinh Kim Cang Bát Nhã hay quá !"(1)
-
"Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào", tức là "đừng sanh
vọng tâm chấp ngã, chấp pháp v.v..." không chấp ngã, pháp thì
phiền não không sanh. Phiền não không sanh thì tâm dược thanh
tịnh, không tạo nghiệp sanh tử luân hồi. Đó là phương pháp tu
của Đại thừa Đốn giáo, rất giản di và mau chóng, để hàng phục
vọng tâm và an trụ chơn tâm.
-
Sau
khi đại ngộ lý kinh Bát Nhã, Tổ Huệ năng đã minh tâm kiến
tánh, nên Ngài có dạy rằng:
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Hà
kỳ tự tánh bổn tự thanh tịnh
-
Hà
kỳ tự tánh bổn bất sanh diệt
-
Hà
kỳ tự tánh bổn tự cụ túc
-
Hà
kỳ tự tánh bổn vô diêu động
-
Hà
kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp
-
Dịch nghĩa:
-
Ai
ngờ tâm mình vốn tự thanh tịnh
-
Ai
ngờ tâm mình vốn không sanh diệt
-
Ai
ngờ tâm mình vốn tự đầy đủ
-
Ai
ngờ tâm mình vốn không diêu động
-
Ai
ngờ tâm mình hay sanh muôn pháp
-
Đức
Ngũ Tổ đến lúc tuổi già, muốn chọn người để truyền Tổ vị, nên
Ngài truyền dạy trong chúng, mỗi người phải làm một bài kệ, để
trình bày sự tu chứng của mình, nếu người nào tỏ ngộ được lý
Đạo, ngài sẽ truyền Tổ vị, làm Tổ thứ Sáu.
-
Ngài Thần Tú là bực
Thượng toạ, tài đức siêu quần, làm kệ rất hay, nhưng vì chưa
tỏ ngộ được lý Kim Cang Bát Nhã, còn trụ chấp các tướng, có
tu, có chứng v.v...nên bị Tổ Huệ Năng quở rằng: "Còn đứng
ngoài hàng rào".
-
Bài
kệ của Ngài Thần Tú:
-
Nguyên văn (dịch nghĩa):
-
Thân thị Bồ Đề thọ
-
Tâm
như minh cảnh đài
-
Thời thời thường phất thức
-
Vật
sử nhá trần ai.
-
Dịch nghĩa:
-
Thân là cây Bồ Đề (có tướng)
-
Tâm
như đài gương sáng (có tướng)
-
Mỗi
giờ thường lau quét (có tu)
-
Chớ
cho dính bụi trần (có chứng)
-
Tổ
Huệ Năng, đã ngộ được lý Kim Cang Bát Nhã, không trụ chấp các
tướng, nên được đức Ngũ Tổ truyền trao y bát và làm vị Tổ thứ
sáu.
-
Bài
kệ của Tổ Huệ Năng:
-
Nguyên văn (dịch nghĩa):
-
Bồ
Đề bổn vô thọ
-
Tâm
phi minh cảnh dài
-
Bổn
lai vô nhứt vật
-
Hà
xá nhá trần ai.
-
Dịch nghĩa:
-
Bồ
Đề không phải cây (vô tướng)
-
Chơn tâm không phải đài (vô tướng)
-
Xưa
nay không một vật (vô tướng)
-
Chỗ
nào dính bụi trần (vô tướng)
- ***
-
18. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "THÂN PHẬT CAO LỚN
NHƯ NÚI TU DI" [^]
-
Phật hỏi: "Tu Bồ Đề !báo thân của Phật như núi Tu di. Vậy Báo
thân của Phật có cao lớn không?".
-
Ông
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Lớn lắm. Nhưng, Phật nói:
"Không chấp thân cao lớn, mới thật là cao lớn".
-
LƯỢC GIẢI
-
Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp "Báo thân
Phật cao lớn".
-
Từ
trước đến đây, đã nhiều lần hỏi và đáp. Vì muốn phá các vọng
chấp, để nhập với "Tánh Bát Nhã chơn không", cho nên Phật hỏi.
Và cũng vì muốn phá các vọng chấp, để nhập với "Tánh Bát Nhã
chơn không" cho nên ông tu Bồ Đề đáp. Nếu chúng sanh chấp có,
thì Ngài nói không; chúng sanh chấp không, thì Ngài nói có
v.v...Dù nói có, nói không, nói lớn, nói nhỏ v.v...đều để phá
các chấp của chúng sanh, đem về "Tánh Bát Nhã chơn không".
-
Phật hỏi ông tu Bồ Đề: "Báo thân cùa Phật có cao lớn không?".
-
Tu
Bồ Đề đáp: "Báo thân của Phật cao lớn lắm".
-
Nhưng sợ chúng sanh chấp "thân Phật cao lớn", nên ông Tu Bồ Đề
liền dẫn lời Phật nói để phá chấp: "Phật nói không chấp thân
cao lớn, mới thật là cao lớn". Nghĩa là: Phàm cái gì còn thấy
nghe và suy nhgĩ được, thì cái đó không phải tuyệt đối; phải
siiêu thoát ra ngoài sự thấy nghe và suy nghĩ, mới là tuyệt
đối.
-
Đức Lão tử nói: "Đạo
mà có thể nói được, thì không pghải là Đạo".
-
Tóm
lại, nếu còn "chấp thân cao lớn", tất nhiên còn chấp ngã và
chấp pháp, thì không nhập được Kim Cang Bát Nhã, nên chưa phải
thân cao lớn.
-
GIẢI DANH TỪ
-
BÁO
THÂN: Phật có 3 thân:
-
1.
Pháp thân: tức là Pháp tánh hay chơn tâm, không có hình tướng
-
2.
Báo thân: Thân do phước báo tu hành, trải qua 3 vô số kiếp mới
được. Kinh chép: Báo thân của Phật lớn bằng núi Tu di; duy có
bực Bồ Tát mới thấy được.
-
3.
Ứng thân hay Hoá thân: Phật tuỳ các loại chúng sanh mà ứng
hiện hay hoá hiện ra mỗi thân, để tế độ
--o0o--
|
|