-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
-
Phật Học Phổ Thông
- KHOÁ XII
- KINH KIM
CANG
Dịch nghĩa và lược giải
- --- o0o ---
- Bài Thứ
8
-
PHẦN CHÁNH
TÔN (tt)
-
-
48. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "BỔ TÁT CÓ ĐỘ SANH"
[^]
- Phật dạy:"
Tu Bồ Đề ! nếu Bồ Tát còn chấp mình hoá độ vô số chúng sanh
thì không phải là Bồ Tát. Tại sao vậy ? vì thật ra không có
một pháp gì gọi là Bồ Tát. Bởi thế nên Phật nói:"Tất cả các
pháp không ngã, không nhơn, không chúng sanh và không thọ
giả".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "thật có Bồ Tát,
thật có độ sanh" và Phật dạy:" Các pháp đều giả, không có bốn
tướng".
- Đúng theo
tinh thần kinh Bát Nhã, thì pháp nào hay việc làm nào của Bồ
Tát, hợp với tánh Bát Nhã chơn không, thì pháp đó hay việc làm
đó mới là thật.
- Nếu Bồ Tát
còn chấp có mình độ sanh tức là Bồ Tát còn nhơn (người được
độ) ngã (mình độ) v.v...thì không hợp với tinh thần
Bát Nhã, nên không phải là Bồ Tát. Đây là lần thứ hai (lần
thứ nhứt ở đoạn 3) Phật phá cái chấp "Bồ Tát có độ sanh".
- Vì Bồ Tát
hợp với tánh Bát Nhã chơn không, nên Phật dạy:" Không có một
pháp gì gọi là Bồ Tát". Cũng vì các pháp hợp với tánh Bát Nhã
chơn không, nên Phật dạy:" Tất cả các pháp đều không ngã,
không nhơn, không chúng sanh và không thọ giả".
- ***
-
49. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "BỔ TÁT CÓ LÀM TRANG NGHIÊM CÕI PHẬT"[^]
- Phật dạy:"
Tu Bồ Đề ! Nếu Bồ Tát chấp rằng:" Ta làm trang nghiêm cõi
Phật", thì không phải là Bồ Tát. Tại sao vậy? Như Lai nói:" Bồ
Tát làm trang nghiêm cõi Phật, mà không chấp mình có làm trang
nghiêm cõi Phật, mới thật là trang nghiêm cõi Phật.
- Tóm lại,
nếu Bồ Tát không còn chấp ngã chấp pháp, Như Lai mới gọi là
"thật Bồ Tát".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dạy: Bồ Tát không còn chấp ngã, chấp pháp, phải hợp với
tánh Bát Nhã chơn không, mới phải thật là Bồ Tát và mới phải
là trang nghiêm cõi Phật. Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt,
xem đoạn 16) Phật phá cái chấp "Bồ Tát có trang nghiêm cõi
Phật".
- Bồ Tát làm
trang nghiêm cõi Phật, mà không chấp minh có làm trang nghiêm,
như thế mới thật là trang nghiêm cõi Phật. Trái lại, nếu Bồ
Tát chấp mình có làm trang nghiêm cõi Phật, tức là Bồ Tát còn
chấp ngã (ta làm) chấp pháp (cõi Phật), không hợp với tinh
thần Bát Nhã, thì không phải là trang nghiêm và cũng không
phải là Bồ Tát.
- Tóm lại,
Phật dạy:" Nếu Bồ Tát nhập vào Bát Nhã chơn không, không còn
các vọng chấp ngã, pháp, thì Như Lai mới gọi là thật "Bồ Tát?.
- Ngài Xuyên
Thiền sư làm bài tụng tóm tắt lại ý nghĩa trên, như sau:
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Tá bà sam tử bái bà môn
-
Lễ số châu truyền dĩ thập phần
-
Trúc ảnh tảo dai, trần bất động
-
Nguyệt luân xuyên hải thuỷ vô ngần.
-
Dịch nghĩa:
-
Mượn áo tràng bà để lạy bà
-
Lễ rồi, áo trả lại cho bà
-
Bóng trúc quét sân, trần chẳng động
-
Vừng trăng xuyên biển, nước không xao.
- ĐẠI Ý BÀI
TỤNG
- Bài kệ này
nói về lý "vô trụ vô tướng? của kinh Bát Nhã, Bồ Tát làm trang
nghiêm cõi Phật; cũng như người mượn áo tràng của bà để lạy
bà. Nhưng Bồ Tát không chấp có trang nghiêm cõi Phật; như
người lạy rồi trả áo, không còn giữ lại vết tích gì cả.
- Bồ Tát độ sanh hay làm các
Phật sự mà không thấy có mình độ và chúng sanh được độ
v.v...cũng như bóng trúc quét bụi, tia sáng của vừng trăng
xuyên biển; bụi trần không động mà nước cũng không dợn.
- ***
-
50. PHẬT CÓ ĐỦ NĂM
LOẠI CON MẮT[^]
- Phật hỏi:"
Tu Bồ Đề ! Như Lai có nhục nhãn không? " Tu Bồ Đề thưa:" Bạch
thế Tôn ! Như Lai có nhục nhãn".
- "Tu Bồ Đề !
Như Lai có thiên nhãn không?"
- "Bạch Thế
tôn ! Như Lai có thiên nhãn ".
- " Tu Bồ Đề
! Như Lai có Huệ nhãn không?"
- "Bạch Thế
tôn ! Như Lai có Huệ nhãn ".
- " Tu Bồ Đề
! Như Lai có Pháp nhãn không?"
- "Bạch Thế
tôn ! Như Lai có Pháp nhãn ".
- " Tu Bồ Đề
! Như Lai có Phật nhãn không?"
- "Bạch Thế
tôn ! Như Lai có Phật nhãn ".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
phá cái chấp "Phật và Bồ Tát không thấy chi hết".
- Mục đích
của kinh Bát Nhã là phải phá hết các vọng chấp, thì chơn tâm
hay Phật tánh (Bát Nhã) mới hiện. Bởi thế nên, chấp "có" đã bị
bác, mà chấp "không" cũng bị bác.
- Từ trước đến đây, Phật đã
nhiều lần phá về chấp có. Như nói:"Bồ Tát phải không thấy có
mình độ sanh, không thấy có chúng sanh được độ. Bồ Tát không
thấy mình làm trang nghiêm và không thấy cõi Phật được trang
nghiêm v.v..."
- Sợ người
chấp:" ...như thế thì chư Phật và Bồ Tát không thấy chi hết",
nên đến đoạn này, Phật mới hỏi ông Tu Bồ Đề:" Như Lai có năm
món nhãn không?" . Ông Tu Bồ Đề thưa:"Như Lai có đủ năm món
nhãn"; nghĩa là có đủ năm loại con mắt, nên Như Lai thấy tất
cả.
- GIẢI DANH
TỪ
- 1. Nhục
nhãn: Con mắt thịt cùa phàm phu, chỉ thấy trong phạm vi nhỏ
hẹp; nếu bị vật gì che ngăn thì không thấy.
- 2. Thiên
nhãn: Con mắt của chư thiên, do tu thiền định hoặc sanh lên
các cõi trời, mới được con mắt này. Thiên nhãn thấy được xa và
thấu suốt tất cả, không bị vật gì làm chướng ngại.
- 3. Hụê
nhãn: Con mắt Trí huệ. Huệ nhãn chỉ thấy "ngã không"; nghĩa là
chúng sanh không thật, chỉ do ngũ uẩn và tứ đại hoà hợp. Hàng
Thinh văn và Duyên giác mới có Huệ nhãn.
- 4. Pháp
nhãn: Con mắt thấy suốt tất cả các pháp. Bồ Tát đặng pháp
nhãn, thất "ngã pháp", đều không; nghĩa là Bồ Tát không những
rõ thấu ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả đều không, mà cũng rõ
thấu tất cả các pháp đều không thật, chỉ do các duyên hoà hợp
sanh.
- 5. Phật
nhãn: Con mắt Phật. Phật thấy biết tất cả các pháp trong thế
gian và xuất thế gian. Phật thấy hoàn toàn viên mãn, dù hằng
sa thế giới, vô lượng chúng sanh. Phật cũng đều thấy và biết
tất cả.
- Tóm lại,
Phật có đủ 5 con mắt; Bồ Tát có 4 con mắt; Nhị thừa còn 3;
phàm phu chỉ một; chư thiên có 1 hoặc 2.
- Cổ nhơn làm
bài tụng nói về ngũ nhãn như sau:
-
Dịch âm (nguyên văn):
-
Thiên nhãn thông phi ngại
-
Nhục nhãn ngại phi thông
-
Pháp nhãn phi quán tục
-
Huệ nhãn liễu trí thông
-
Phật nhãn như thiên nhựt
-
Chiếu dị thể hoàn đồng.
-
Dịch nghĩa:
-
Mắt Trời thấy thông suốt
-
Mắt Thịt thấy có ngại
-
Mắt Pháp thấy pháp không
-
Mắt Huệ thấy ngã không
-
Mắt Phật thất tất cả
-
Muôn pháp đồng nhứt thể.
- ***
-
51. PHẬT THẤY BIẾT
HẾT TÂM NIỆM CỦA CÁC CHÚNG SANH, TRONG HẰNG SA THẾ GIỚI[^]
- Phật hỏi:
"Tu Bồ Đề ! Cát ỏ trong song hằng, Như Lai có gọi là cát
không?".
- Tu Bồ Đề
thưa: "Bạch Thế Tôn ! Như Lai cũng gọi là cát".
- Phật hỏi: "Như một sông Hằng
có vô số cát, rồi lấy mỗi một hạt cát,để thí dụ một song Hằng,
thì có vô số sông Hằng. Trong vô số sông hằng, mỗi một sông
Hằng lại có vô số cát nữa, rồi đem vô số hạt cát trong vô số
sông Hằng đó, lại thí dụ nữa, mỗi một hạt cát là một hạt cát
của Phật (Đại thế giới). Như thế, thế giới của Phật có nhiều
không?".
- Tu Bồ Đề
thưa: "Bạch Thế Tôn nhiều lắm".
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Tất cả chúng sanh ở trong vô số thế giới như vậy,
có bao nhiêu tâm niệm, Như Lai đều thấy biết tất cả".
- Phật dạy
tiếp: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói tâm, không phải thật có tâm, chỉ
giả gọi là "tâm". Tại sao vậy?_ Vì tâm quá khứ tìm không được,
tâm hiện tại tìm không được, tâm vị lai cũng tìm không được".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn nay
tiếp với đoạn trên (50), Như Lai có 5 con mắt, nên Như Lai
thấy biếtvô cùng thế giới và vộ tận chúng sanh.
- Trong vô số
thế giới, mỗi thế giới có vô số chúng sanh, mỗi chúng sanh có
bao nhiêu tâm niệm, Như Lai đều thấy biết tất cả.
- Vừa nói đến
"tâm", sợ chúng sanh vọng chấp "có tâm" mà không nhhập được
Kim Cang Bát Nhã, nên Phật liền phá: "Như Lai nói "tâm" không
phải thật có tâm, chỉ giả gọi là "tâm".
- Phật giải
thích thêm: Vì tâm quá khứ đã diệt, tâm vi lai chưa đến, tâm
hiện tại không dừng trụ, nên trong ba đời tìm tâm không thể
được.
- Thuở xưa,
Ngài Huệ Khả (Nhị Tổ) đến cầu Tổ Đạt Ma (Sư Tổ) về pháp an tâm
(xen "bản đồ tu Phật" tập 4).
- Tổ Đạt ma
hỏi: "Ông đến đây để làm gì?".
- Ngài Huệ Khả thưa: "Bạch Tổ Sư
! Con đến đây để cầu pháp an tâm".
- Tổ Đạt Ma
hỏi:" Quá khứ tâm bất đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai
tâm bất khả đắc, vậy ông muốn an cái tâm nào?".
- Ngài huệ Khả thưa: "Trong ba
thời (quá khứ, hiện tại và vị lai) con tìm tâm đều không thể
được".
- Tổ Đạt Ma
dạy: "ta đã an tâm cho ông rồi". Ngài huệ Khả liền tỏ ngộ.
- Ngài Xuyên
Thiền sư có làm bài kệ nói về ba tâm
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Tam tế cầu tâm, tâm bất biến
-
Luỡng nhãn y nhiên đối lưỡng nhãn
-
Bất tu di kiếm khắc chu tầm
-
Tuyết tuyệt phong hoa thường kiến diện
-
Dịch nghĩa:
-
Hai mắt trơ trơ chỉ ngó chăm
-
Tìm mãi ba đời chẳng thấy tâm
-
Tuyết nguyệt phong ba thường đối diện
-
Kiếm rơi hà tất khắc khe tầm
- LƯỢC GIẢI
VÀ ĐẠI Ý
- Thuở xưa,
có người đi thuyền làm rơi cây kiếm dưới sông. Người ấy liền
lấy dao khắc be thuyền, để chờ thuyền đậu nghỉ sẽ tìm. Đến khi
thuyền đậu, người ấy xuống sông mò hoài không được kiếm. Anh
ta thắc mắc: "Cây kiếm mới rớt, tôi khắc thuyền làm dấu ngay
chỗ này, sao tìm hoài không được".
- Người trí
thấy vậy bảo:"Anh dại quá ! Kiếm rớt hồi nãy, thì anh phải tìm
ngay chỗ hồi nãy và tại chỗ đó; chớ đợi đến bây giờ, đã khác
chỗ rồi, thì làm sao tìm được".
- Cũng thế, người tu hành phải
trực ngộ bản tâm mình. Nếu còn móng tâm để tìm tâm ở đâu đâu,
thì không bao giờ tìm được; vì tâm quá khứ đã diệt, tâm hiện
tại không dừng, tâm vị lai chưa đến.
- Tóm lại,
đại ý bài tụng:
- Những cảnh vật thiên nhiên,
như tuyết trong, trăng sáng, gió mát, hoa tươi ở trước mắt,
d8èu biểu lộ bản thể chơn tâm thường trú. Hành giả phải tức
nơi muôn vật đó mà trực ngộ bản tâm mình, cần gì phải tìm đâu
xa. Nếu hành giả không trực ngộ, mà cứ lo tìm tâm quá khứ,
hiện tại và vị lai, thì cũng như người khắc dấu lên thuyền để
mò kiếm, không bao giờ mò được.
- ***
-
52. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "PHƯỚC ĐỨC NHIỀU"[^]
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Nếu có người dùng 7 món báu, đựng đầy trong một
Đại thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) đem bố thí, người
này được phước đức không?".
- Tu Bồ Đề thưa: "nếu chấp phước
đức này thật có, thì Như Lai nói phước đức này không nhiều.
Không chấp phước đức nhiều, Như Lai mới nói "đặng nhiều phước
đức".
- LƯỢC GIẢI
- Nếu đem tân
chấp tướng mà làm việc phước đức, thì phước đức đó thành hữu
vi hữu lậu; dầu có nhiều bao nhiêu cũng có ngày cùng tận. Trái
lại, nếu đem tâm vô tướng (không cầu danh, cầu lợi, không chấp
nhơn, chấp ngã v.v...) mà làm việc phước đức, thì phước dức
này thuộc về vộ lậu thanh tịnh, hợp với tánh Bát Nhã chơn
không (chơn tâm) dù làm ít, nhưng phước đức vô cùng tận.
- Thuở xưa,
Tổ Đạt Ma đến Trung Hoa truyền đạo. Vua Lương Võ Đế đem việc
bố thí làm phước, đúc chuông, tạo tượng và lập 72 cảnh chùa
v.v...để hỏi Tổ Đạt Ma. Trong câu hỏi có tánh cánh khoe khoang
chấp tướng.
- Vua hỏi:
"Trẫm lập 72 cảnh chùa, đúc chuông, tạo tượng, tu kiều, bồi lộ
v.v...phước đức có nhiều không?".
- Trả lới
đúng theo tinh thần "vô trụ, vô tướng" của kinh Bát Nhã, Tổ
Đạt Ma nói: "Không có phước đức". Vua Lương Võ Đế vì trình độ
quá kém, không hiểu được lời của Tổ dạy, nên nghi rằng không
phải Tổ, lại đem dâng thuốc độc cho Tổ Đạt Ma uống ...(xem
quyển "Tổ Đạt Ma", do Hương Đạo xuất bản).
- Ngài Xuyên
Thiền sư tả về cảnh: khi các mây vô minh vọng chấp hết, thì
mặt trăng Trí huệ Bát Nhã hiện ra, bằng hai câu như sau:
-
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Vô hạn dã tâm phong quyển tận
-
Nhứt luân cô nguyệt chiếu thiên tâm
-
Dịch nghĩa:
-
Gió cuốn mây đen về biển cả
-
Một vừng trăng sáng giữa trời không
- ***
-
53. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "THẤY SẮC THÂN VÀ TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT LÀ THẤY PHẬT"[^]
- Phật hỏi:
"Tu Bồ Đề ! ông có thể cho thấy sắc thân của ta đây là thấy
được Phật không?".
- Tu Bồ Đề
thưa: "Bạch Thế Tôn ! Không thể cho thấy sắc thân của Phật là
thấy được Phật. Tai sao vậy? Vì Như Lai nói sắc thân, không
phải thật sắc thân, chỉ giả gọi là sắc thân".
- Phật hỏi
tiếp: "Tu Bồ Đề ! ông có thể cho thấy các tướng tốt (32 tướng
tốt, 80 vẻ đẹp) của ta đây là thấy được Phật không?".
- Tu Bồ Đề
thưa: "Bạch Thế Tôn ! không thể cho thấy các tướng tốt của
Phật là thấy được Phật. Tại sao vậy? Vì Như Lai ní các tướng
tốt, không phải thật tướng tốt, chỉ giả gọi là tướng tốt".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã phá trừ cái chấp: "Thấy sắc
thân và tướng hảo của Phật lá thấy được Phật". Đây là lầ thứ
ba (lần thứ nhứt và nhì ở đoạn 7 và 25) Phật phá cái chấp về
việc thấy Phật.
- Kinh Kim
Cang, Phật dạy: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng" (phàm
cái gì có hình tướng đều là hư dối).
- Sắc thân
của Phật,do bốn đại hoà hợp giả tạo ra thân tướng, nên thân
tướng của Phật cũng hư vọng không thật, chỉ giả gọi là thân
Phật.
- Rồi từ trên
thân tướng, do bốn đại giả tạo, lại sanh ra nhiều tướng, những
tướng ấy cũng hư vọng không thật, chỉ giả gọi là 32 tướng tốt
và 80 vẻ đẹp.
- Đến lúc
hoàn thành nhiệm vụ độ sanh, Phật thâu thần nhập diệt, xả thân
tướng tứ đại để vào cõi Niết bàn, thì xác thân và 32 tướng
tốt, do tứ đại giả hợp của Phật cũng thao luật "sanh, trụ, dị,
diệt" mà biến đổi. Lúc bấy giờ không còn cái gì để gọi là sắc
thân và tướng tốt.
- Bởi thế nên
Phật dạy: "Không phải sắc thân, chỉ giả gọi sắc thân; không
phải tướng tốt, chỉ giả gọi là tướng tốt". Vì thế nên ông Tu
Bồ Đề thưa: "Không thể cho thấy sắc thân hay thấy tướng tốt
của Phật mà cho là thấy được Phật".
- ***
-
54. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "NHƯ LAI CÓ THUYẾT PHÁP"[^]
- Phật dạy:
"Tu Bồ Đề ! Ông chớ nên nghĩ rằng: "Như Lai có thuyết pháp".
Tại sao vậy? Nếu người nào không hiểu lời của Phật dạy, lại
nói rằng: "Như Lai có thuyết pháp", thì người ấy khinh báng
Phật".
- Tu Bồ Đề !
Như Lai nói: "Thuyết pháp, tức là không có pháp gì có thể nói
được, mới gọi là thuyết pháp".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai
có thuyết pháp". Đây là lần thứ 3, Phật phá cái chấp về "Như
Lai có thuyết pháp" (lần thứ nhứt ở đoạn 11 và 23)
- Nếu người
nào chấp: "Phật có thuyết pháp", thì người đó còn chấp ngã
(Phật) và chấp pháp (thuyết pháp). Đem tâm vọng chấp ngã pháp
cuả phàm phu mà suy nghĩ luận bàn đến chánh pháp của Phật, thì
chánh pháp của Phật, trở thành vọng chấp của phàm phu. Ngài
Xuyên Thiền sư nói: "Tà nhơn thuyết chánh pháp, chánh pháp tức
qui tà" (người tà nói pháp chánh, pháp chánh trở thành tà).
Bởi thế nên Phật nói: "người đó khinh báng Phật ". Vì họ không
nhập được "lý Kim Cang Bát Nhã", nên Phật nói: "Họ không hiểu
được lời của Phật dạy".
- Đức Lão Tử
nói: "Đạo mà có thể nói được, thì không phải thật là Đạo (Đạo
khả đạo, phi thường đạo)". Cũng đồng một ý này, Đức Phật dạy:
"Không có pháp gì có thể nói được, mới gọi là thuyết pháp".
- Phật nói
bài kệ như sau:
-
Nguyên văn (diịch âm):
-
Thị tùng thành đạo hậu
-
Chung chí Bạt đề hà
-
Ư thị nhị trung gian
-
Vị thường thuyết nhứt tự
-
Dịch nghĩa:
-
Từ khi mới thành đạo
-
Đến lúc nhập Niết bàn
-
Trong khoảng thời gian ấy
-
Ta không nói một chữ.
- ĐẠI Ý BÀI
KỆ
- Bài kệ này,
nói về lý kinh Bát Nhã. Cổ nhơn dạy: "vô thuyết vô văn chơn
Bát Nhã", (không nói Bát Nhã và không nghe Bát Nhã, mới thật
là nói Bát Nhã và nghe Bát Nhã), (xin độc giả xem lại đoạn
giải 11 và 23).
- ***
-
55. PHẬT PHÁ CÁI
CHẤP "THẬT CÓ CHÚNG SANH"[^]
- Khi đó, ông
Tu Bồ Đề thưa Phật: "Bạch Thế Tôn ! Đời sau, nếu có chúng sanh
nào nghe đến kinh Bát Nhã, không biết họ có thể tin được
không?". Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Chúng kia, không phải chúng
sanh, cũng không phải phi chúng sanh. Tại sao vậy? Như Lai nói
chúng sanh, thật không phải chúng sanh, chỉ giả gọi là chúng
sanh".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này
Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã phá cái chấp "thật có chúng
sanh". Trong tánh Bát Nhã chơn không thì ngã và pháp đều
không, bốn tướng chẳng còn.
- Bốn tướng đã không, ngã chấp
chẳng còn, thì đâu có gì là chúng sanh hay phi chúng sanh. Đã
không phải chúng sanh hay phi chúng sanh, thì có gì là tin hay
không tin. Đúng theo tinh thần kinh Bát Nhã, nếu còn phân biệt
vọng chấp, thì không phải là thật. Bởi thế nên Phật dạy tiếp:
"Như Lai nói chúng sanh, không phải thật chúng sanh, chỉ giả
gọi là chúng sanh".
- Ngài Phó
Đại sĩ làm bài tụng, để tóm tắt lại đoạn này, như sau:
-
-
Nguyên văn (dịch âm):
-
Chúng sanh dữ thọ giả
-
Uẩn thượng lập hư danh
-
Như qui mao bất thật
-
Tợ thố giác vô hình
-
Dịch nghĩa:
-
Ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả
-
Trên năm uẩn chỉ có giả danh
-
Như lông rùa không có thậ thể
-
Tợ như sừng thỏ chẳng có hình.
- ĐẠI Ý BÀI
TỤNG
- Tất cả các
pháp trên năm uẩn như ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả
v.v...đều không thật có, như lông rùa, sừng thỏ, chỉ có giả
sanh mà thôi.
--o0o--
|
|