-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- KIẾN THỨC
CĂN BẢN PHẬT GIÁO
-
-
- CHƯƠNG 1
-
- KHÁI NIỆM
-
-
1.- KHỞI NGUYÊN PHẬT GIÁO
- Xã hội Ấn-Độ
lúc bấy giờ (năm 624 trước kỷ nguyên Tây lịch) chia ra thành nhiều
giai cấp khác nhau. Mỗi giai cấp giữ một thế sinh hoạt riêng biệt.
Lịch sử còn chứng minh có ít nhất là bốn giai cấp, trong mỗi giai
cấp đều có sự bất bình đẳng không thể tưởng tượng được trong kiếp
người !
- Giai cấp đứng
đầu là Bà-La-Môn (Blamon) hay giáo sĩ chuyên việc tế tự và có uy
tín tuyệt đối trong đám quần chúng. Thứ đến là giai cấp Sát-Đế-Lợi
(Ksatrya) hay dòng dõi vua chúa có uy quyền tối cao, chi phối toàn
thể dân tộc Ấn-Độ. Giai cấp thứ ba là Phệ-Xá (Vaisya) hay giới
bình dân và cuối cùng là giai cấp Thủ-Đà-La (Sudra) tức là hạng
người suốt đời làm nô lệ cho ba giai cấp trên, còn gọi là bất xúc
dân (untouchables). Họ sống một cuộc đời cơ cực lầm than, không có
quyền ăn nói và cũng không được đóng góp ngang hàng với mọi người,
như một giống dân mọi rợ sống bên lề của xã hội.
- Với một tình
trạng xã hội đầy bất công như thế, Đức Phật Thích-Ca thị hiện ra
đời tại thành Ca-Tỳ-La-Vệ, thuộc Trung Ấn-Độ vào ngày rằm tháng tư
âm lịch 624 năm trước kỷ nguyên (năm nay Phật lịch là 2541 - 1997
= 544 năm). Sau khi ra đời Đức Phật nhìn thấy cảnh khổ của chúng
sanh, Ngài quyết chí xuất gia tầm đạo để giải thoát cảnh khổ cho
con người trong xã hội. Ròng rã suốt sáu năm tu khổ hạnh trong
rừng sâu và 49 ngày nhập định dưới cây bồ-đề, Đức Phật đã giác ngộ
được đạo quả Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác vào ngày mùng 8 tháng
12 âm lịch. Bánh xe pháp bắt đầu chuyển lần đầu tiên tại vườn
Lộc-Uyển để độ cho năm người bạn đồng tu với Ngài lúc trước là các
ông Kiền-Trần-Như bằng pháp Tứ-Đế và chính năm vị tỳ kheo nầy liền
sau đó đều chứng quả A-La-Hán.
- Lịch trình và
khởi nguyên của Phật giáo qua nhiều chặng đường lịch sử do sự
chứng ngộ mà Phật đã đạt được để dẫn dắt người đời đồng tu đồng
chứng qua câu nói muôn đời bất diệt của Ngài :
- "Ta là Phật đã thành, các ngươi là
Phật sẽ thành".
-
2.- PHẬT GIÁO THÀNH HÌNH TỪ LÚC NÀO ?
- Phật giáo chỉ
thật sự thành hình sau khi đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni ra đời, hành
đạo và chứng quả. Phật giáo, do chữ Phật (Buddha) ghép chung với
chữ Pháp (Dharma) tức là giáo pháp của Ngài mà thành một tôn giáo
hay một triết thuyết.
- Sự xuất thế của
đức Phật Thích-Ca trải qua các giao đoạn thực hành phương pháp tu
tập, giác ngộ chân lý và thuyết pháp giáo hóa chúng sanh suốt
trong 49 năm tại thế là một bài học sống động, hùng hồn nhất trong
lịch sử xã hội loài người. Phật vì một đại sự nhân duyên là "khai
thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến" (chỉ bày cho chúng-sanh
giác-ngộ được trí-tuệ sáng-suốt Phật tánh) mà hiện thân ra cỏi
đời. Ngài không đến với loài người bằng uy quyền, thế lực mà đến
với một tâm đại từ-bi, đại hùng-lực để dẫn dắt con người tu-tập
pháp lành và cầu đạt được chân-lý giải-thoát mọi sự khổ ở đời.
- Lịch-sử
chứng-minh rõ-ràng, sau khi Phật nhập diệt, giáo pháp của Ngài
được các chúng đệ tử kiết tập lại thành giáo điển qua bốn lần diễn
ra tại những địa điểm và thời gian khác nhau. Điều nầy còn chứng
tỏ rằng Phật giáo đã thành hình ngay từ khi đức Phật còn tại thế
và suốt trong 25 thế kỷ trôi qua với biết bao nhiều triều đại đã
sụp đỗ mà giáo pháp của Phật và sự hiện diện của Phật giáo trong
xã hội loài người khắp nơi trên mặt trái đất vẫn còn tồn tại mãi
mãi với thời gian...
- Đạo Phật là đạo
như thật, lấy từ bi, trí giác soi sáng lương tâm nhân loại qua mọi
thời đại để cải tạo con người và xã hội được công bằng, hợp lý
trong tinh thần lợi tha, vô ngã. Vì thế các dân tộc Tây-phương
ngày nay đang tìm về với triết học Đông-phương mà Phật giáo là đề
tài hấp dẫn qua môn Thiền-học hay Tư-duy (meditation) để định tỉnh
tâm tư mà họ đang quay cuồng trong xã hội văn minh vật chất nên
không tìm ra được một lối thoát thoải mái cho đời sống nội tâm.
- Sự có mặt của
Phật giáo trong cuộc đời cũng có nghĩa là còn ánh sáng của chân lý
soi thấu tận cùng trong tâm thức tối tăm của loài người đang tới
hồi kiệt lực vì sự cạnh tranh sanh tồn của cuộc sống phức tạp, đa
diện hiện nay.
-
3.- PHẬT GIÁO QUAN NIỆM THẾ NÀO VỀ
CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI ? (NHÂN SINH QUAN)
- Con người là
một hợp chất do 4 yếu tố : Đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành
hình và chỉ tồn tại trong khoảng thời gian hữu hạn chừng trăm năm,
rồi các yếu tố vật chất kia đều tan rã trở về nguyên trạng thái
cũ, còn phần thần thức đi đầu thai làm kiếp khác do một nghiệp lực
dẫn dắt đến cảnh giới an vui hay khổ sở.
- Như vậy con
người theo quan niệm của Phật giáo có hai phần là tinh thần và
thân xác. Tinh thần không thể tồn tại ngoài thân xác, cũng như
thân xác không thể thiếu tinh thần là phần trí tuệ hiểu biết, sự
phán đoán đúng sai mọi sự mọi vật. Vì thế, sống ở đời con người cố
gắng tu sửa hành vi, ngôn ngữ, tư tưởng ... để khi thân xác nầy
tan rã được sanh về cảnh giới an lành.
- Chư Phật xuất
thế, các vị Bồ-Tát hiện thân ra đời đều mang thân xác như người,
nhưng các Ngài giác ngộ được nhờ vận dụng tinh thần và chuyên tâm
tu tập mà thành tựu viên mãn. Cuộc đời nầy được coi như là cỏi tạm
và con người chỉ hiện diện được theo đúng chu kỳ có giới hạn rồi
thân xác lại trả về cho 4 trạng thái như lúc ban đầu và tinh thần
rời khỏi xác để nương vào một lớp khác mà tồn tại. Do đó, câu nói
"sống gởi thác về" để chỉ cho cỏi thế gian lúc ta sống và sau khi
chết sẽ về một cảnh giới an lành khác là thế giới Cực-Lạc của đức
Phật A-Di-Đà. Nơi đó vĩnh viễn không già, không chết mà mọi người
được sống đời an lạc tự tại. Đó là quan niệm theo pháp môn tu
Tịnh-Độ, còn người thực hành pháp tu Thiền-Định một khi tỏ ngộ
được chân tâm tức kiến tánh thành Phật. Nếu không tận lực tu tập
đạo hạnh, chúng ta khó mong giải thoát được các nghiệp chướng ràng
buộc mà muốn được như vậy con người sống ở đời phải làm tròn bổn
phận của mình để xây dựng xã hội nhân gian tốt đẹp, đó là một cách
cải thiện hay trang nghiêm cõi Tịnh-Độ trong tương lai sau khi
nhắm mắt lìa đời.
- Việc làm đẹp cá
nhân và xây dựng tâm thể vững mạnh để tạo được một xã hội có trật
tự và hòa bình mà Phật giáo chủ trương, nếu không gọi là sự tích
cực lành mạnh hóa cỏi đời uế trược thành cảnh Tịnh-Độ nhân gian là
gì ?
-
4.- PHẬT GIÁO QUAN NIỆM THẾ NÀO VIỆC
HÌNH THÀNH THẾ GIỚI ? (VŨ TRỤ QUAN)
- Một
Thái-dương-hệ gồm mặt trời, mặt trăng và trái đất gọi là vũ trụ.
Phật giáo quan niệm thế nào về thế giới hiện thực mà chúng ta đang
sống ?
- Phật giáo không
cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất mà ngoài vũ trụ nầy còn có
vô số cảnh giới khác nhau, như 33 cõi trời thuộc về Sắc-giới và
Vô-sắc-giới, còn cõi thế gian nầy thuộc về Dục-giới. Theo như kinh
Hoa-Nghiêm luận rằng pháp giới trùng trùng duyên khởi tức là các
cảnh giới chồng chất nhau do nhân duyên hình thành. Ngoài ra, Kinh
Kim-Cang chủ trương phá ngã chấp, sắc thân để chứng nhập chân tâm
hay bản lai diện mục của con người, trong khi kinh Bát-Nhã với vạn
pháp đều vô tướng, vì tất cả đều không tăng, không giảm, không
sanh, không diệt, không dơ, không sạch ... để hướng dẫn con người
đừng mê chấp vào đó mà bị kẹt không thoát ra được ngoài quan niệm
thường tình của thế gian về sự vọng chấp qua tướng mạo, hình dung.
- Vũ trụ nầy hình
thành là do các nhân duyên hợp lại và tồn tại đúng chu kỳ rồi cũng
bị hoại diệt như con người qua 4 thời kỳ : Thành, trụ, hoại,
không. Vì căn thân và thế giới có là do nơi mỗi niệm của chúng
sanh mà tồn tại, cũng như vũ trụ chỉ là một tập hợp các tinh thể
lại và đây chỉ là một trong những cõi khác nhau, không có gì lớn
lao, vĩ đại cả. Hơn nữa, vũ trụ không làm áp đảo được con người mà
chính loài người ngày nay đã chinh phục được cả vũ trụ như việc
thám hiểm cung trăng qua những cuộc bắn hỏa tiển và đưa người vào
không gian. Điều khoa học khám phá ra được hiện giờ đủ chứng minh
cho thấy rằng những lời dạy của đức Phật cách đây 25 thế kỷ vẫn là
chân lý và sẽ còn được nhân loại triển khai ở các mức độ khác nhau
do tầm hiểu biết của con người.
- Vũ trụ được
quan niệm một cách có khoa học như Phật giáo, điều nầy có nghĩa là
ngày nào khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì Phật giáo càng đứng
vững vàng trong phạm vi nghiêm cứu về thế giới hữu hình và vô
hình.
-
5.- PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC
- Phật giáo là
một tôn giáo hay triết học ? Câu hỏi nầy được nêu ra và mãi cho
đến trong khoảng thời gian gần đây, khi khoa học tiến bộ, nhất là
về khoa nhân chủng học (khoa học nhân văn), khoa-học xã-hội,
tôn-giáo, xã-hội-học ... đã tìm ra được lời giải đáp cho vấn đề
trên một cách thỏa đáng.
- Phật giáo với
kho tàng kinh điển phong phú gồm Kinh, Luật, Luận gọi là tam tạng
mà trong đó chỉ dẫn phương pháp tu tập rõ ràng rành mạch để giúp
cho con người vượt ra khỏi cảnh giới tối tăm đau khổ của thế gian
và đạt đến quả vị giải thoát an vui. Đối với muôn loài vạn vật
trong các cõi, nếu biết áp dụng đúng cách, chúng sinh cũng đều
được quả báo tốt đẹp trong kiếp tương lai. Như thế, chúng ta có
thể gọi Phật giáo là một tôn giáo. Nhưng nếu chỉ luận như trên rồi
dừng lại và cho rằng Phật giáo là tôn giáo như nhiều tôn giáo khác
hẳn không được đúng. Vì sao ? Ngoài sự hiện hữu của muôn vật trong
vũ trụ ra, Phật giáo còn chủ trương có các cảnh giới khác nhau.
Các cảnh giới đó ở trọng 3 cõi : Dục-giới, Sắc-giới và
Vô-sắc-giới. Mỗi một cảnh giới đều có sự cấu tạo theo một chu kỳ
qua 4 giai đoạn thành, trụ, hoại, không (diệt) mà ngày nay khoa
học đã khám phá ra được sự hình thành của những tinh thể quả đúng
như chân lý mà đức Phật đã khám phá ra cách đây 25 thế kỷ. Điều
nầy cho chúng ta kết luận được rằng Phật giáo là triết học. Đứng
về mặt tu chứng và các quả vị để nhìn, người ta cho rằng Phật giáo
là tôn giáo cũng đúng, còn đứng trên lý luận thành lập vũ trụ và
các cảnh giới khác nhau để phân tích, chúng ta có thể kết luận
Phật giáo là triết học cũng không sai.
- Riêng đối với
những ai ít có dịp nghiên cứu tới kinh điển của đạo Phật, có thể
ngộ nhận cho rằng lối lập luận như thế nào có tính cách co dản
quá, nhưng nếu đi sâu vào rừng giáo điển của Phật giáo và phóng
cái nhìn ngay thật, người ta sẽ không còn có điểm nghi ngờ và hiểu
thiên lệch sự vật được.
- Tóm lại, Phật
giáo bao hàm cả triết học và tôn giáo. Tùy theo tầm nhìn của chúng
ta mà Phật giáo được quan niệm như một tôn giáo hay như môn triết
học cũng đều được cả.
-
6.- ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
- Đức Phật
Thích-Ca Mâu-Ni (Sakya Muni) là thái tử Tất-Đạt-Đa (Shidartha),
con vua Tịnh-Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma-Da (Maya), nước
Ca-Tỳ-La (Kapilavastu) thuộc miền Trung Ấn-Độ.
- Họ của Phật là
Kiều-Đáp-Ma hay còn gọi là Cù-Đàm. Còn chữ Thích-Ca (Sakya) có
nghĩa là "năng nhân", có ý nói người ưa làm việc lợi lành trong
tinh thần nhân đạo và là tên của một chủng tộc ; chữ Mâu-Ni (Muni)
là tịch mặc, chỉ cho sự yên tỉnh của tâm thức. Danh từ Phật chỉ có
sau khi Ngài chứng được đạo quả và đạt được 3 yếu tính : Tự giác,
giác tha, giác hạnh viên mãn. Sự giác ngộ ấy do công trình tu tập
tự thân mà đạt thành rồi đức Phật đem điều đã giác ngộ chỉ dạy cho
nhiều người tu tập để đạt tới được sự thanh thảnh của tâm thức,
cho đến khi trọn được hạnh nguyện nên gọi Phật hay Thế-Tôn, là lời
tôn sùng tán dương đức Giáo-chủ Thích-Ca Mâu-Ni.
- Đức Phật nhờ
công tu hành mà đạt được đạo. Ngài không như một vị thần quyền thế
lực, cũng như không do phép thần linh biến hiện ra đời. Từ là một
Thái-tử, Ngài vượt ra sự ràng buộc của những lạc thú vật chất để
quyết chí xuất gia tìm ra chân lý cứu độ chúng sinh đang trầm luân
trong biển khổ. Chính ý chí cương quyết, dứt khoát ấy, đức Phật đã
vượt qua các pháp tu khổ hạnh trong 6 năm và chứng ngộ được đạo
quả vào một buổi bình minh ngày mồng 8 tháng 12, sau khi đã trải
qua 49 ngày tư duy dưới gốc cây Bồ-Đề với lời thề nguyền sắt đá :
"Nếu không thành đạo chứng quả, dù thịt nát xương tan, ta quyết
không rời khỏi chỗ ngồi nầy".
- Sau khi chứng
được đạo quả, đức Thế-Tôn đi chu du khắp xứ Ấn-Độ thuyết pháp độ
sanh trong 49 năm và cuối cùng Ngài vào Niết-Bàn tại thành
Câu-Thi-Na trong rừng cây Ta-La Song-Thọ. Ngài thọ được 80 tuổi.
Phật nhập diệt rồi, giáo pháp của Ngài được các hàng đệ tử kết tập
thành 3 tạng : Kinh, Luật, Luận và truyền lại mãi cho đến ngày
nay.
- Đức Phật
Thích-Ca đã đến với nhân loại và mang lại cho loài người một bài
học quí giá như phương thuốc chữa cơn bịnh trầm kha, nếu thực hành
đúng ta sẽ thấy sự ứng nghiệm hoàn toàn, tức đạt đến chỗ giải
thoát, giác ngộ như Phật.
-
7.- GIÁO PHÁP
- Phật giáo gồm
một hệ thống triết lý đa diện, cống hiến cho xã hội loài người mặt
an sinh và tu chứng.
- Mặt an sinh xã
hội, Phật giáo chủ trương thế giới đại đồng huynh đệ trong tình
tương thân tương ái ; còn về mặt tu chứng, với phương pháp tu hành
đạt đến giải thoát khỏi luân hồi, sanh tử để chứng nhập vào cảnh
Niết-Bàn (Nirvana) tịch tịnh an vui.
- Phật giáo vì
thế được quan niệm như là một tôn giáo, một triết lý sống thực,
một siêu hình học hay là một mớ giáo điều mê tín dị đoan như người
duy vật nhận xét thì Phật giáo vẫn giữ được nguyên cương vị của nó
trên mọi bình diện khách quan. Vì chân lý không bao giờ thay đổi
trước bất cứ một thế lực hay khuynh hướng chánh trị nào. Điều nầy
đủ chứng tỏ cho thấy giáo pháp của Đức Phật suốt trên 2500 năm
lịch sử vẫn giữ được địa vị độc tôn mà không bị sự chi phối bởi
không gian và thời gian. Dù chúng ta đứng ở khía cạnh nào để nhìn
đi nữa, Phật giáo vẫn đúng theo tầm nhận xét của con người trong
mọi thời đại. Một ví dụ cụ thể hơn, trong các nước thuộc Xã-hội
Chủ-nghĩa ngày nay, người Cộng-sản cho rằng tôn giáo là thuốc
phiện ru ngủ quần chúng, lừa bịp một số người nhẹ dạ, dễ tin. Mục
đích của họ là cố tách rời số tín đồ đông đảo đang tinh theo tôn
giáo bằng những lối tuyên truyền độc đáo, nhưng âm mưu chánh trị
nầy đã bị phơi bày trước ánh sáng của chân lý. Chúng ta khẳng định
một cách dứt khoát rằng, không riêng ở Việt-Nam ngày nay mà ở bất
cứ một quốc gia nào đạo Phật đã thâm nhập vào trong lòng dân tộc
đó rồi thì cái tinh ba của Phật giáo như một chất keo gắn liền với
con người bản xứ vậy.
- Phật giáo luôn
luôn tồn tại dưới bất cứ một chế độ chánh trị nào, nếu bị tiêu
diệt, đó cũng chỉ là một hình thức Phật giáo mà không ai có thể
tẩy xóa được đức tin sâu xa của người Phật tử !
-
8.- TỨ ĐẾ LÀ GÌ ? HÌNH TƯỚNG VÀ SỰ
ẢNH HƯỞNG RA SAO ?
- Tứ-Đế hay còn
gọi là Tứ-Thánh-Đế là bốn pháp căn bản để làm trợ duyên cho việc
tu tập đạt đến chân lý, tức là thấu triệt được cái chân tướng của
vạn vật vậy.
- Tứ-Đế không có
hình tướng, vì cái Khổ không thể hình dung ra được nó lớn, nhỏ,
dài, ngắn là thế nào cả nên gọi Khổ đế (đế là điều chắc thật).
Những hạt mầm kết tụ lại từ nhiều đời, tức là sức chứa nhóm trong
"Tập-Đế". Khi nào ta trừ được cái khổ, không cho dây dưa những hạt
mầm nẩy nở nữa, đó là "Diệt-Đế". Cuối cùng đạt đến chân lý trong
phần "Đạo-Đế" là phần thứ tư trong pháp bốn đế.
- Đức Phật
Thích-Ca đã thân chứng và giác ngộ được chân lý giải thoát dưới
cội Bồ-Đề sau 49 ngày đêm tư duy và lần đầu tiên Ngài chuyển bánh
xe pháp độ cho 5 anh em ông Kiều-Trần-Như tại vườn Lộc-Giả bằng
pháp bốn đế.
- Con người do
cái khổ triền miên kết tập từ lâu đời nên phải chịu trong vòng
luân hồi, sanh tử. Quan sát cái khổ và nguyên nhân phát sinh ra
khổ để tận diệt thì những mầm mống khổ, những ý niệm sai lầm cũng
tiêu tan, tức là ta đã tìm cách diệt được nguyên nhân của khổ. Một
khi cái khổ không còn thì con đường đạo sẽ rộng mở thênh thang, để
chúng ta ung dung tự tại đi tới cứu cánh của đạo giải thoát. Trong
pháp bốn đế có thể chia ra hai phạm vi : thế tục và xuất thế. Khổ
và Tập thuộc về tục đế, còn Diệt và Đạo thuộc về thánh đế. Sống ở
đời con người biết là khổ nhưng không làm sao tránh cho khỏi được
khổ mà chỉ có những người tu hành ngộ đạo mới lìa khổ được vui.
- Người nào muốn
thực hành cái đạo chân thật phải quan sát kỹ bốn tướng trạng của
pháp Tứ-Đế nầy.
- Pháp bốn đế tóm
lược như bảng dưới đây :
- TỨ-ĐẾ
- KHỒ ĐẾ TẬP ĐẾ
DIỆT ĐẾ ĐẠO ĐẾ
- Thế gian xuất
thế gian
-
9.- THẬP NHI NHÂN DUYÊN LÀ GÌ ? CÓ SỰ
LIÊN HỆ MẬT THIẾT NÀO GIỬA CÁC PHÁP ẤY ?
- Mười hai nhân
duyên là đầu mối của kiếp sống con người. Nó là hạt giống tạo ra
thế giới của muôn loài vạn vật có hình dạng sai khác ở thế gian.
- Con người từ
khi thọ thai, cho tới khi ra chào đời, được nuôi dưỡng lớn lên,
rồi tồn tại cho tới khi chết là cả một trường kỳ phấn đầu không
ngừng nghỉ. Từ chỗ vô minh, con người thọ hình hài nhi do hai giọt
máu huyết kết tinh của cha mẹ tạo thành và lớn dần theo năm tháng,
cho đến ngày đứa bé ra chào đời là một chuổi xích liên hệ chặc chẻ
với nhiều yếu tố khác nhau hợp lại. Mười hai nhân duyên gồm có :
Vô-minh, Hành, Thức, Danh-sắc, Lục-nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu,
Sanh, Lão Tử ; tức là do từ chỗ không sáng suốt, hành vi tạo tác,
nhận thức hình sắc của vật thể dài ngắn, rộng hẹp, xấu tốt .., sáu
yếu tố tạo thành cơ thể : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đụng chạm
với hoàn cảnh hay khi ra tiếp xúc với đời, thọ nhận những thứ tình
cảm như yêu, ghét, đau, buồn, khổ sở, giữ chặc làm của riêng, sinh
ra đời, già và chết. Do 12 nhân duyên nầy dẫn dắt con người tới
bất cứ một thế giới nào do nghiệp lực đã tạo trong quá khứ cảm thọ
nên. Động cơ chính thúc đẩy là do vô minh mà có căn thân và thế
giới hiện thực.
- Cái vòng lẩn
quẩn nầy, tất cả chúng ta dù giàu nghèo, sang hèn đều không ai
tránh khỏi được. Kiếp người cứ theo đó tiếp tục trôi lăn mãi không
ngừng nghỉ như bánh xe lăn.
- Muốn phá tan
được vô minh phải tu tập để không thọ thai trong kiếp sau nữa, vì
vô minh là đầu mối của dòng sanh tử vô tận.
-
10.- NHÂN QUẢ TRONG PHẬT GIÁO CÓ PHẢI
LÀ MỘT HÌNH THỨC PHẢN KHOA HỌC TIẾN BỘ KHÔNG ?
- Phật giáo quan
niệm lý nhân quả một cách rộng rãi và khoa học. Vậy nhân quả trong
Phật giáo có phải là một hình thức phản khoa học tiến bộ không ?
- Nhân là hột
mầm, quả là sự hình thành do từ cái nhân tức hạt mầm mà ra. Nhân
xấu thì quả xấu và nhân tốt thì quả tốt. Đó là một quan niệm rất
thực tế, như người gieo hạt hay lúa mạ lúc làm mùa. Khi gieo giống
ta phải chờ một thời gian ba hoặc bốn tháng mới có kết quả được.
Nhưng có khi chúng ta gieo hạt giống tốt, nhưng gặp phải khí hậu
hay thời tiết xấu và sự thay đổi bất thường như hạn hán, bão lụt,
dĩ nhiên cái kết quả sẽ không có được như ý ta mong muốn. Câu nói
: "Nhân nào quả nấy" chỉ mới đúng được 70%, còn câu "gieo gió, gặp
bão" cũng chưa hoàn toàn đúng 100% được. Cái nhân dù lớn hay nhỏ
cũng là hạt giống, còn cái quả ra sao lại còn tùy thuộc nơi hoàn
cảnh nữa. Phật giáo quan niệm lý nhân quả rất thực tế và chia ra
làm ba thời kỳ : Hiện báo, sanh báo và hậu báo. Hiện báo là nhân
và quả đồng thời xuất hiện cùng một lúc như đánh người ta sẽ bị
đánh lại, kẻ trộm cướp bị giam tù ... Sanh báo là nhân gây ra xong
nhưng chưa có kết quả liền mà phải chờ trong một thời gian 5 năm,
10 năm hoặc 20 năm sau quả báo mới đến, còn hậu báo là nhân và quả
có khoảng cách rất xa như trong đời nầy ta gieo nhân nhưng mãi chờ
cho đến đời con cháu sau nầy mới hiện thành quả báo.
- Nhân quả là một
chân lý đúng trong mọi trường hợp, nhưng khi nào chúng ta biết cởi
mở trong việc tìm hiểu thì mới thấy rõ được chân giá trị của vấn
đề rốt ráo.
-
11.- LUÂN HỔI TRONG PHẬT GIÁO CÓ PHẢI
LÀ THUYẾT ĐỂ RU NGỦ VÀ DỖ NẠT QUẦN CHÚNG ?
- Khoa học mỗi
ngày càng tiến bộ thì thuyết luân hồi trong Phật giáo càng được
nghiên cứu một cách rộng rãi và cởi mở, không như người duy vật
vội vàng lên án thuyết luân hồi chỉ để ru ngủ và có tính cách dọa
nạt những người nhẹ dạ dễ tin.
- Luân là xoay
vần và hồi là trở lại. Như vậy, chữ luân hồi là một cái vòng tròng
lẩn quẩn không có chỗ bắt đầu, cũng như không có nơi chấm dứt. Có
người đưa ra vấn nạn : nếu quan niệm luân hồi theo Phật giáo như
thế thì con gà và cái trứng gà, cái nào có trước ? Nếu bảo cái
trứng gà có trước con gà là một điều phi lý, vì con gà chưa có thì
con gì đẻ ra được trứng gà ? Còn như cho rằng con gà có trước
trứng gà lại càng phi lý hơn nữa, vì con gà cũng do từ trong cái
trứng gà mà ra !
- Phật giáo chủ
trương chúng sanh vì còn ở trong vòng thất tình, lục dục (xem bài
riêng) nên cứ mãi đắp đổi lên xuống làm cha mẹ, anh em lẫn nhau
không ngừng nghỉ. Chỉ khi nào con người nói riêng và mọi loài nói
chung biết tu thiện để đạt đến được đạo quả giải thoát rồi mới
rảnh nghiệp đi đầu thai và thoát ra khỏi vòng luân hồi. Luân hồi
thường đi kèm theo với nghiệp chướng tức là những sự ràng buộc,
vướng víu. Vì thế, những nhà tu theo đạo Phật phần đông không gia
đình vợ con là muốn không còn dây dưa tái sanh trở lại trong vòng
lục đạo chúng sanh nữa.
- Thuyết luân hồi
trong Phật giáo không phản lại khoa học, trái lại khoa học càng
tiến bộ bao nhiêu lại càng cần phải có lý luân hồi để bổ túc cho
những thiếu sót mà khoa học chưa đủ khả năng đạt được.
- Quan niệm cho
rằng thuyết luân hồi là để làm mê hoặc quần chúng hay là một thứ
thuốc phiện làm ru ngủ nhiều người nên cần phải xa lánh. Đây là
một lối nhồi sọ phan giáo dục và bóp chết tự do của con người mà
chỉ có kẽ vô thần (vô tôn giáo, vô gia đình, vô tổ quốc) mới chủ
trương một cách độc đáo như thế !
- Trong đời sống
hằng ngày, không nhiều thì ít chúng ta đều có nghe qua những việc
luân hồi có thật và chính những người sống đồng thời với chúng ta
trong cùng một nơi hay khác nhau về chủng tộc, quốc gia, nhưng
việc đầu thai, thoát kiếp không còn là điều xa lạ hay mới mẽ nữa.
-
12.- QUẢ PHÚC, BÁO ỨNG LÀ GÌ ?
- Quả phúc và báo
ứng là hai vấn đề nói lên khía cạnh nhân và quả thành hình liên
tục trong Phật giáo.
- Quả phúc là kết
quả của việc làm phước. Kết quả có được là do nhờ nhiều nhân tố
hợp thành. Nhân tốt thì quả tốt, còn nhân xấu dĩ nhiên kết quả sẽ
xấu. Câu ca dao :
- "Cây xanh thì
lá cũng xanh,
- Cha mẹ hiền
lành để phúc cho con".
- Có liên hệ đến
lý nhân quả liên tục kéo dài từ đời nầy qua đời khác. Còn báo ứng
là đền trả hay thù đáp lại cũng giống như quả báo. Như vậy, quả
phúc và báo ứng giống hay khác nhau ? Chữ quả phúc bao hàm cái
nghĩa thiện, còn báo ứng có sự trả vay vô hình do luật nhân quả hỗ
tương mà thành. Có nhiều trường hợp ta làm thiện trong đời nầy
liền được hưởng báo ứng ngay gọi là hiện báo. Có người làm nhiều
việc lành nhưng hiện tại chưa được đền đáp xứng đáng mà phải chờ
thời gian 5, 10, 20 hoặc 30 năm sau mới có báo ứng gọi là sanh
báo, nhưng đôi khi còn có những trường hợp ta ra sức làm việc
thiện và chờ mãi cho tới lúc lìa đời vẫn không thấy được chút
phước báo nào tới cả mà phải đợi tới đời con cháu mới được hưởng
phước gọi là hậu báo. Chữ báo ứng hay quả báo vì thế có ba nghĩa :
Hiện báo, sanh báo và hậu báo như đã trình bày trên đây.
- Khi biết qua ý
nghĩa nầy rồi, chúng ta không còn thắc mắc hay trông chờ cũng như
không chán nản, thối chí đạo tâm trong bất cứ một công việc làm
thiện nào, dù nhỏ đến đâu cũng phải cố gắng làm cho đến cùng và
cái kết quả tốt hay xấu đưa lại đều phải vui vẽ chấp nhận, thì mới
tỏ ra xứng đáng là người thực hành và hiểu lý nhân quả của đạo
Phật một cách đúng mức, không thiên lệch.
- Thái độ chán
nản, than trách số phận, chờ mong việc tốt đến ... là những việc
không phải của người Phật tử chân chánh đã hiểu sâu về ý nghĩa của
nhân và quả liên tục kéo dài.
-
13.- NGHIỆP, NGHIỆP LỰC, NGHIỆP
CHƯỚNG KHÁC HAY GIỐNG NHAU ?
- Nghiệp đóng một
vai trò quan trọng trong kiếp người, cho nên người Phật tử phải
cẩn thận tìm hiểu vấn đề cho thật chính xác để biết được việc của
chính mình làm.
- Nghiệp là hành
động, tức hành vi tạo tác do thân miệng và ý tạo thành. Nghiệp gồm
có nghiệp lành và nghiệp ác. Phần lớn nghiệp của chúng ta tạo đều
do ý chí quyết định cả. Nếu tư tưởng không nghĩ sai, hành động sẽ
đúng. Nghiệp hay nghiệp lực chỉ cho hành động của ta có một sức
mạnh phi thường không gì sánh nổi. Còn nghiệp chướng là hậu quả
của hành động sai quấy đưa lại. Nghiệp gồm có hai loại là cộng
nghiệp và biệt nghiệp, nói một cách khác là nghiệp chung và nghiệp
riêng. Nghiệp chung do nhiều người tạo ra ở trong cùng một hoàn
cảnh như trường hợp của một quốc gia lâm cảnh chiến tranh ; còn
nghiệp riêng do chính mỗi người tạo. Cũng trong cùng cảnh binh lửa
của chiến trường, chưa hẳn ai nấy đều chết theo lằn tên mũi đạn.
Còn nếu phân chia theo kinh "nhân quả" dựa vào yếu tố thời gian
thì nghiệp có bốn loại :
- - Hiện nghiệp :
Hành động nghĩ ra đều có kết quả.
- - Sinh nghiệp :
Phải chịu quả báo ở đời sau.
- - Hậu nghiệp :
Đời nầy tạo và phải chờ sang mấy đời sau mới chịu quả báo.
- - Bất định
nghiệp : Là hậu quả do hành động chúng ta không rõ sẽ xẩy ra lúc
nào. Cũng có một lối phân chia khác : Nghiệp do nhiều đời còn lại,
nghiệp do thói quen tạo ra, nghiệp cực trọng gồm cả thiện và ác,
nghiệp lực lúc gần trút hơi thở lìa đời.
- Những hành động
của ta chưa hẳn đã mất đi khi chưa đủ yếu tố để hiện ra kết quả đó
thôi. Người Phật tử biết được điều đó nên tránh gây nghiệp ác bằng
cách tạo cho tư tưởng ngay chính trong đời sống để tránh quả báo
chẳng lành về sau.
-
14.- KINH ĐIỂN TRONG PHẬT GIÁO CÓ HỆ
THỐNG, THỨ LOẠI NÀO KHÔNG ?
- Kinh điển của
Phật giáo nhiều vô số như rừng, biển bao la mà trong thời gian 49
năm tại thế, đức Phật Thích-Ca đã giảng thuyết và được hình thành
trong ba tạng Thánh giáo.
- Ba tạng là
Kinh, Luật và Luận. Kinh điển để cho người thọ trì, đọc tụng, học
hỏi ; Luật là những điều răn cấm không cho môn đệ Ngài làm điều
lầm lỗi ; còn Luận là bàn rộng các vấn đề vũ trụ, nhân sinh mà đức
Thích-Ca, chư Tổ, đã tu hành đạt đạo nói ra để dạy cho chúng ta
con đường tu chứng giải thoát.
- Sau khi đức
Phật nhập Niết-Bàn, các môn đệ của Ngài tuần tự nhóm họp tăng
chúng lại biên chép những lời của Phật nói thành hệ thống, thứ
loại. Trải qua bốn thời kỳ kiết tập kinh điển :
- Lần thứ nhất,
sau khi Phật nhập diệt, tại thành Vương-Xá, núi Kỳ-Xà-Quật, thuộc
nước Ma-Kiệt-Đà, có 500 Đại-Đức, Tỳ-kheo họp lại, do ngài Ca-Diếp
làm chủ tịch và ngài A-Nan trình bày mọi diễn tiến, thời gian, nơi
chốn Phật nói pháp.
- Kỳ kiết tập lần
thứ hai sau đức Thế-Tôn diệt độ khoảng 100 năm, chúng Tỳ-kheo nhóm
họp lại được 700 người tại thành Tỳ-Xá-Ly và để giải quyết các
nghi vấn trong giới luật, chứ chưa biên chép kinh điển bằng văn
tự.
- Lần kiết tập
kinh điển thứ ba, cách Phật diệt độ 200 năm do vua A-Dục triệu tập
được 1000 tăng sĩ tại thành Hoa-Thị và ngài Mục-Kiền-Liên được bầu
làm chủ tịch, có tổ chức biên chép kinh điển hẳn hoi.
- Lần kiếp tập
kinh điển thứ tư, sau Phật nhập diệt khoảng 500 năm, do vua Ca-Nị
Sắc-Tra triệu tập được 1500 người gồm cả tăng, tín đồ Phật giáo
tới thành Ca-Thấp-Di-La kiết tập lời dạy của Phật. Lần nầy do ngài
Hiếp tôn-giả và ngài Thế-Hữu chủ tọa và kinh điển cũng được biên
chép cẩn thận.
- Đó là những
giai đoạn hình thành kho tàng kinh điển của Phật giáo còn được
truyền bá sâu rộng đến các nước trên khắp thế giới ngày nay.
-
15.- KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC NÓI VỀ
NHỮNG GÌ ?
-
Bát-Đại-Nhân-Giác là 8 điều giác ngộ của bậc đại nhân, tức chỉ cho
hạng Bồ-Tát vì phát nguyện rộng lớn vào đời cứu độ chúng sanh, lấy
đây làm kim chỉ nam cho việc tu tập hàng ngày.
- Tám điều giác
ngộ là :
- - Điều thứ
nhất, giác ngộ được cuộc đời là vô thường. Tất cả mọi vật đều bị
thay đổi, cho đến các yếu tố cấu tạo nên cơ thể đều không bền chắc
và còn có tác dụng gây ra đau khổ nữa. Con người do một tập hợp
các yếu tố vật chất, tinh thần mà thành, không có thực ngã, sự
sanh và diệt thay đổi không ngừng, giả dối và không có chủ thể.
- - Điều thứ hai,
giác ngộ rằng càng nhiều ham muốn thì càng nhiều đau khổ, bởi mọi
sự cực nhọc ở đời đều do lòng ham muốn mà ra. Trái lại, người ít
ham muốn thì không bị hoàn cảnh chi phối. Thân và tâm đều được thư
thái, nhẹ nhàng.
- - Điều thứ ba,
giác ngộ rằng, vì tâm ta đuổi theo danh lợi không nhàm chán, tội
lỗi theo đó càng ngày càng tăng lên. Riêng đối với các bậc Bồ-Tát
lại khác. Các Ngài luôn tưởng nghĩ tới điều tri túc (biết đủ),
biết an vui để sống trong đạm bạc, lấy việc hành đạo và trí tuệ
làm sự nghiệp lâu dài.
- - Điều thứ tư,
giác ngộ rằng tánh lười biếng đưa tới chỗ buông tha, vì vậy ta
phải chuyên cần tu tập, phá giặc phiền não để khắc phục mọi ràng
buộc, vướng mắc trong cỏi trời, người.
- - Điều thứ năm,
giác ngộ rằng do vô minh che lấp trí sáng suốt nên con người phải
bị giam hảm trong sanh tử. Các vị Bồ-Tát nhờ học rộng, biết nhiều,
phát triển trí tuệ và có tài biện luận thông suốt, nên giáo hóa
chúng sanh cùng đạt tới niềm vui trọn vẹn.
- - Điều thứ sáu,
giác ngộ được sự nghèo khó khiến người ta dễ sinh ra oán hận và
nuôi lòng căm thù, do đó càng ngày càng tạo thêm những nhân xấu.
Các vị Bồ-Tát biết thế nên thực hiện phép tu bố thí. Đối với kẻ
ghét, người thương đều coi bình đẳng như nhau, cũng như các Ngài
bỏ qua điều ác mà người khác đã gây ra, không để tâm ghét bỏ kẻ
làm điều ác đối với mình.
- - Điều thứ bảy,
giác ngộ được rằng năm thứ dục vọng (1) gây nên tội lỗi và tai
họa. Người xuất gia tuy ở trong thế tục, nhưng không nhiễm theo
cái vui của phàm tục, biết quan niệm được rằng tài sản của mình
chỉ có 3 chiếc áo cà-sa và một bình bát. Vì chí nguyện của người
xuất gia là sống thanh bần để tu hành và giữ hạnh thanh cao, cũng
như đem lòng từ bi tiếp xử với tất cả mọi người không phân biệt
giai cấp.
- - Điều thứ tám,
giác ngộ rằng vì lửa sanh tử cháy bùng cho nên mọi loài đang phải
chịu biết bao niềm thống khổ. Do ý thức được điều đó, ta phải phát
tâm Đại-thừa, nguyện cứu độ cho tất cả mọi người và nguyện thay
thế cho mọi người chịu khổ. Một lòng cầu mong cho tất cả chúng
sanh đều đạt tới niềm vui cứu cánh, giải thoát (2).
- Với những
nguyện lực cao cả như thế, người có tâm hạnh Bồ-Tát mới làm nổi
việc khó làm nầy nên gọi là Đại Nhân vậy.
-
16.- THẬP THIỆN VÀ THẬP THIỆN NGHIỆP
ĐẠO GIỐNG HAY KHÁC NHAU ?
- Thập Thiện là
10 điều lành mà người hành trì Phật giáo phải thực hành để nuôi
lớn ý chí, nghị lực trong việc tu tập hầu đạt đến giải thoát khỏi
mọi nghiệp lực chi phối nên còn gọi là Nghiệp đạo.
- Do từ nơi thân
thể, miệng và ý chúng ta phát ra mỗi hành vi, tư tưởng và cũng từ
đó mà hình thành thế giới, vạn sự vạn vật trên thế gian nầy. Nếu
người nào biết cải đổi 10 điều ác sẽ thành 10 điều lành như dưới
đây :
- - Thân có 3 là
không sát sanh, không trộm cắp và không tà dâm.
- (1) năm thứ dục
vọng là : Của cải, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ (tài,
sắc, danh, thực, thùy).
- (2) theo kinh
Tám điều giác ngộ của bậc Đại Nhân do Nhất-Hạnh dịch và chú giải,
xuất bản Lá Bối, Paris - 1979.
- - Miệng có 4 là
không nói dối, không nói lưỡi đòn xóc nhọn hai đầu, không nói lời
chải chuốt êm tai và không sử dụng lời nói độc địa để chửi mắng kẻ
khác.
- - Ý có 3 là
không tham lam, không sân hận và không si mê. Nếu mỗi người trong
chúng ta đều hoàn thành được 10 điều lành như thế sẽ có được một
giá trị đạo đức cao và xứng đáng là người tốt trong cộng đồng xã
hội.
- Trong ba nghiệp
thân, miệng và ý đều có những hành động hỗ tương với nhau, tuy
nhiên ý chí mới là phần quyết định quan trọng. Do động cơ của lòng
tham xúi cho thân phạm vào tội sát sanh và trộm cắp. Do mê mờ nên
phạm việc tà dâm, rồi do từ nóng giận và ngu si nên buông ra những
lời nói thiếu cân nhắc kỹ lưỡng.
- Ngăn chặn 10
điều ác do ý thức thiếu sáng suốt tạo nên và thực hành 10 việc
lành lợi ích cho mình và người là ta sống đúng nhân cách của một
người Phật tử chân chánh.
-
17.- KINH HOA NGHIÊM HÀM CHỨA NHỮNG
GÌ ? VỀ BỘ LOẠI VÀ VIỆC PHIÊN DỊCH RA SAO ?
- Kinh Hoa-Nghiêm
nói cho đủ là Đại-Phương-Quảng-Phật Hoa-Nghiêm Kinh, tức là pháp
bao hàm cả vũ trụ, theo thứ lớp khó tính đếm được. Chính đức Phật
Thích-Ca là người đã chứng được lý mầu của pháp rốt ráo nầy và nói
ra kinh vậy.
- Hai chữ
Hoa-Nghiêm là ví cho Phật, vì chư Phật mới có đủ được vạn hạnh như
đóa hoa muôn sắc và lấy cái hoa nầy trang nghiêm quả vị tu đắc nên
gọi là Hoa-Nghiêm. Nói một cách khác, Phật có đủ muôn đức tướng
sáng rỡ như hoa tươi đua nở, lấy hương sắc mỹ miều của hoa để
trang nghiêm cho pháp thân, huệ nghiệp gọi là Hoa-Nghiêm. Chữ
"đại" có nghĩa là bao hàm cái thể tánh, còn chữ "Phương Quảng" gồm
cả nghiệp và dụng. "Phật" là quả vị viên giác (tự giác, giác tha,
giác hạnh viên mãn). "Hoa" là phần tinh túy của cây, vì thế bộ
kinh nầy đức Phật chỉ nói ra trong vòng 21 ngày cho các hàng
Bồ-Tát thiện căn, lần đầu tiên tại Long-Cung, sau khi Ngài đắc
đạo. Kinh Hoa-Nghiêm có 3 nhà dịch thuật : vào đời Đông-Tấn ngài
Phật-Đà Bạt-Đà-La dịch 60 quyển gọi là lục thập Hoa-Nghiêm. Sau có
ngài Trí-Nghiễm làm bộ sớ 5 quyển là "Sưu Huyền Ký" và ngài
Hiền-Thủ tạo ra bộ "Thám Huyền Ký" gồm 20 quyển đều căn cứ vào lý
kinh Hoa-Nghiêm. Người dịch thứ hai là ngài Thật-Xoa Nan-Đà, gồm
80 quyển vào đời Đường nên còn gọi là Đường kinh hay Tân kinh, để
đối lại với Cựu kinh của ngài Phật-Đà Bạt-Đà-La. Theo đó, ngài
Huệ-Uyển tạo tập "San Định Ký" 60 quyển, ngài Thanh-Lương làm ra
các bộ sớ 20 quyển và "Diễn Nghĩa Sao" 40 quyển. Người dịch thứ ba
là ngài Bác-Nhã cũng đời Đường, gồm 40 quyển gọi là tứ thập
Hoa-Nghiêm.
- Theo truyền
thuyết, kinh Hoa-Nghiêm do ngài Văn-Thù và ngài A-Nan kết tập tại
Long-Cung. Sau có ngài Long-Thọ vào Long-Cung thấy kinh nầy có
phân làm 3 bổn : Thượng, trung và hạ. Quyển hạ gồm có 38 phẩm và
10 vạn bài kệ, quyển trung có 1.200 phẩm và 49.800 bài kệ, quyển
thượng chứa tới 14.000 cõi số vi trần và vô số bài kệ nói về cõi
3000 đại thiên thế giới. Ngài Long-Thọ bèn lấy quyển hạ có 10 vạn
bài kệ đem về truyền cho cõi thế gian nầy. Do đó, Phật giáo
Trung-Quốc gọi là tam bổn Hoa-Nghiêm kinh là dựa vào lý do vừa
dẫn.
- Ngoài ra Phật
giáo Trung-Quốc còn lập ra tông Hoa-Nghiêm đều căn cứ vào lý kinh
nầy làm tông chỉ thành lập. Tông Hoa-Nghiêm được thành lập vào đời
nhà Đường do ngài Đỗ-Thuận Hòa-Thượng khai sáng và kế thừa Tổ đạo
như sau : Đỗ-Thuận tổ thứ nhất, Trí-Nghiễm Đại-sư tổ thứ hai,
Pháp-Tạng Pháp-sư, tổ thứ ba, Thanh-Lương Trừng-Quán Pháp-sư, tổ
thứ tư. Ngài Quế-Phong Tông-Mật Thiền-sư, tổ thứ năm. Đời Tống
ngài Mã-Minh kế thừa làm tổ thứ sáu và ngài Long-Thọ là tổ thứ
bảy.
- Kinh Hoa-Nghiêm
là vua của các kinh, ngài Long-Thọ đã vận dụng sức thần thông để
mang về truyền bá trong dân gian. Ngài Đỗ-Thuận là Hóa thân của
Bồ-Tát Phổ-Hiền và là tổ thứ nhất của tông Hoa- Nghiêm vậy.
-
18.- KINH A HÀM, THỜI GIAN NÓI KINH,
BỘ SỐ VÀ NÉT ĐẶC THÙ GỔM CÓ NHỮNG GÌ ?
- Kinh A-Hàm là
một bộ kinh thuộc về Tiểu-thừa Phật giáo, có nghĩa là "pháp quy",
tức là có ý muốn nói vạn pháp đều nằm trong lý của kinh nầy.
- A-Hàm còn có
một nghĩa là "Vô Tỷ Pháp : Tức muốn nói không có pháp nào sánh kịp
hay là "Thủ Vô", nghĩa là không thể nói hết được ý thú cứu cánh
của kinh vậy. Trong năm thời nói pháp của đức Phật, bộ kinh A-Hàm
được đem giảng lần thứ hai sau kinh Hoa-Nghiêm tại vườn Lộc-Uyển
cho các thầy Tỳ-kheo và gồm có 4 bộ :
- 1.-
Tăng-Nhất-A-Hàm 51 quyển
- 2.-
Trường-A-Hàm 22 quyển
- 3.- Trung-A-Hàm
60 quyển
- 4.- Tạp-A-Hàm
50 quyển.
- Tổng cộng là
183 quyển. Về ý thú của kinh : Bộ thứ nhất bàn về pháp số của các
pháp, như là phần sưu tập. Bộ thứ hai là phần luận về mọi sự vật ở
thế gian qua các đề mục có tính cách lý thú, gây được hứng khởi
sôi nổi người đọc, vì văn mạch dài và bàn rất sâu rộng mọi vấn đề.
Bộ thứ ba gồm các kinh không phân biệt ngắn hay dài, với các chủ
đề đủ loại nói về nhân duyên, duyên khởi của vạn vật. Bộ thứ tư là
phần tổng hợp các phần trên lại.
- A-Hàm là một bộ
kinh thật lý thú có lập luận rõ ràng cho người mới bắt đầu tu qua
các pháp như bốn đế, 12 nhân duyên, 6 độ, 37 phẩm trợ đạo bồ-đề
... cùng các quả Thánh-đế tu chứng. Ở các nước thấm nhuần tư tưởng
Phật giáo như Nhật-Bản, Tích-Lan, Ấn-Độ, Thái-Lan, Việt-Nam ...
các đại học Phật giáo năm chứng chỉ cử nhân I, các sinh viên phải
chọn kinh A-Hàm là môn học tất tu vậy.
- Ngoài lẽ sanh
tử của kiếp người ra, kinh A-Hàm còn nêu rõ những gương tu chứng
của các bậc A-La-Hán, những câu chuyện thần bí ẩn hiện mà chỉ có
bậc tu hành đắc đạo có đủ thiện căn mới thâm nhập được trí tuệ
tuyệt vời ấy.
- Tóm lại, A-Hàm
tuy là bộ kinh thuộc hàng Tiểu-thừa, nhưng hành giả muốn thực hành
được hạnh Bồ-Tát phải nghiên cứu kỹ toàn bộ lý kinh nầy để nhận
chân ra được chỗ thâm áo của vạn pháp.
-
19.- KINH PHƯƠNG ĐẲNG HÀM CHỨA NHỮNG
GÌ ?
- Chữ Phương-Đẳng
có 3 lối phỏng dịch theo lý như sau : Phương, là vuông vức ngay
thẳng, Đẳng, là bình đẳng để chỉ cho lý trung đạo.
- Kinh
Phương-Đẳng thuộc Đại-thừa Phật giáo. Phương-Đẳng hay còn gọi là
Phương-Quảng để chỉ cho các hàng Bồ-Tát thực hành tu chứng, đắc
đạo đều dựa theo lý của kinh nầy. Nếu căn cứ theo "sự" để dịch,
chữ Phương có nghĩa là rộng, còn Đẳng là đều đặn, quân bình. Đức
Phật Thích-Ca nói kinh nầy vào thời điểm thứ ba trong năm thời
thuyết giáo để hướng dẫn hàng Bồ-Tát theo 4 tiêu chuẩn :
Tạng-giáo, Thông-giáo, Biệt-giáo, và Viên-giáo (chứa nhóm, tánh
chung, tánh riêng, tròn đầy rốt ráo) để đưa kẻ đại căn trí đạt ngộ
chân lý giải thoát. Nói một cách khác hơn :
- Phương là
phương pháp và chia ra làm 4 như sau : Hữu-môn, Không-môn,
Song-diệc-môn và Song-phi-môn (phàm, thánh, cả phàm và thánh đều
nương vào nhau, phàm thánh đều không còn trên danh nghĩa nữa mới
đạt được chân lý).
- lý theo như
pháp tứ môn hợp với lý tánh bình đẳng nên có tên "Phương-Đẳng". Bộ
kinh Phương-Đẳng Phật đã thuyết trong 8 năm, sau thời kinh A-Hàm.
- Trong 5 thời kỳ nói pháp của Phật
chia ra như sau :
- 1.- Thời thứ
nhất : Kinh Hoa-Nghiêm trong 21 ngày.
- 2.- Thời thứ
hai : Kinh A-Hàm, 12 năm.
- 3.- Thời thứ ba
: Kinh Phương-Đẳng 8 năm.
- 4.- Thời thứ tư
: Kinh Bát-Nhã 22 năm.
- 5.- Thời thứ
năm : Kinh Pháp-Hoa 8 năm và kinh Niết-Bàn trong 1 ngày 1 đêm.
- Có bài tụng bao
hàm ý nầy như sau :
- Hoa-Nghiêm tối
sơ tam thất nhựt.
- A-Hàm thập nhị.
- Phương-Đẳng bát
- Nhị thập nhị
niên Bát-Nhã đàm
- Pháp-Hoa
Niết-Bàn cộng bát niên.
- Đó là cách phân
biệt theo tông Thiên-Thai, chọn kinh Hoa-Nghiêm làm tông chỉ cho
việc thành lập tông. Còn tông Niết-Bàn lại chia 5 thời thuyết pháp
của Phật có khác.
- 1.- Thời thứ
nhất : Kinh Hoa-Nghiêm.
- 2.- Thời thứ
hai : Kinh A-Hàm.
- 3.- Thời thứ ba
: Kinh Phương-Đẳng.
- 4.- Thời thứ tư
: Kinh Pháp-Hoa
- 5.- Thời thứ
năm : Kinh Niết-Bàn.
- Theo như cách
phân 5 thời trên, ta thấy không có kinh Bát-Nhã, vì chỗ rốt ráo
đạt đến chân lý của mỗi tông đều chủ trương khác nhau. Cách chia
ra 5 thời nói kinh dù khác nhau nhưng lý kinh đều không khác mà
tất cả đều nhắm tới lý thâm sâu để cho hàng Bồ-Tát tu tập đạt đến
giải thoát, rốt ráo.
-
20.- KINH BÁT NHÃ : TRỌNG TÂM PHẬT
MUỐN GIẢNG THUYẾT LÀ GÌ VÀ THỜI ĐIỂM NÀO TRONG CÁC THỜI NÓI PHÁP ?
- Kinh Bát-Nhã có
hai tên gọi khác nhau là Bát-Nhã Ba-La-Mật kinh (gọi theo cổ) và
Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm kinh (theo danh từ ngày nay). Tất
cả gồm có 10 bộ, do ngài Huyền-Trang (thế kỷ thứ 7 T.L.) dịch từ
chữ Sanskrit sang tiếng Trung-Hoa gọi là Đại Bát-Nhã Ba-La-Mật
kinh và 600 quyển.
- Ngài La-Thập
trước đó cũng có dịch kinh nầy và chia thành 5 bộ là : Ma-Ha
Bát-Nhã Ba-La-Mật kinh, Kim-Cương Bát-Nhã, Thiên-Vương Vấn
Bát-Nhã, Năng-Đoạn Kim-Cương Bát-Nhã và Quy-Tán Bát-Nhã. Riêng bộ
sau nầy còn nằm trong văn tiếng Phạn chưa được phiên dịch.
- Trong suốt 49
năm tại thế đức Phật nói kinh chia ra làm 5 thời kỳ mà bộ kinh
Bát-Nhã ở vào thời điểm thứ tư theo thứ tự. Kinh nầy trình bày lý
tánh tuyệt đối của sự vật, do đó thời gian giảng thuyết kéo dài
trong 22 năm, Phật muốn các hàng đệ tử thấy tỏ được chân lý rốt
ráo. Điểm căn bản của kinh luận rằng : Sắc tức thị không, không
tức thị sắc, thọ-tưởng-hành-thức diệc phục như thị. Thị chư pháp
không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm, nãi chí nhãn, nhỉ, tỹ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp diệc phục như thị (sắc tức là không, không ấy là sắc
cho đến việc thọ nhận - tưởng nghĩ hành động - sự phân biệt đúng
sai cũng đều không. Đó là cái không tướng của các pháp như không
sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm,
cho đến cả mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý để tiếp xúc với sáu cảnh
sắc bên ngoài như : Màu sắc, âm thanh, mùi vị, đụng chạm với sự
vật cũng đều không có hình tướng như vậy).
- Bộ kinh nầy
được tóm lược trong bài kinh Bát-Nhã ngắn gọn chỉ có 272 chữ mà
các chùa thường tụng, đủ để nói lên thật tướng các pháp trong vũ
trụ.
-
21.- KINH PHÁP HOA : BỘ SỐ, DỊCH GIẢ
VÀ VIỆC TRUYỀN THỪA RA SAO ?
- Kinh Pháp-Hoa
nói cho đủ là kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa. Luận về lý viên dung (tròn
đầy), phân biệt rõ ràng sự ứng hóa thân của chư Phật, Bồ-Tát thị
hiện ra đời độ thoát chúng sanh khỏi sanh tử luân hồi.
- Bộ kinh
Pháp-Hoa gồm có 7 quyển và 27 phẩm, trong đó phẩm thứ 25, tức kinh
Phổ-Môn mà các hàng Phật tử thường hay tụng niệm để cầu an.
- Phật giáo Nhật-Bản thuộc các tông
như Tào-Động, Lâm-Tế, Chân-Ngôn, Nhựt-Liên, Sáng-Giá Học-Hội,
Lập-Chánh-Giảo Thành-Hội ... đều lấy phẩm Phổ-Môn trong kinh
Pháp-Hoa hay toàn bộ làm kinh tụng chính thức trong các khóa lễ.
Sáng giá học hội dùng đề kinh 7 chữ : "Nam-mô Diệu-Pháp Liên-Hoa
Kinh" (NAMYO HO RENGEI KYO) Tượng trưng cho tôn chỉ trong việc tu
hành. Tại Việt-Nam, kinh Pháp-Hoa cũng được chọn như là bộ kinh
cốt yếu trong các khóa lễ cầu an. Trong khi đó, Trung-Quốc cũng có
một tông Pháp-Hoa cũng lấy từ lý kinh nầy làm kim chỉ nam.
- Kinh Pháp-Hoa
hiện đang lưu hành do ngài Cưu-Ma-La-Thập dịch từ chữ Phạn
(Sanskrit) sang chữ Hán vào đời Diêu-Tần (đầu thế kỷ thứ 5 T.L).
Bộ kinh Pháp-Hoa bằng chữ Hán đã được dịch sang tiếng Việt do
Hòa-Thượng Thích-Trí-Tịnh, vào khoảng năm 1950. Vào những năm sau,
còn có Thượng-Tọa Tuệ-Hải cũng dịch kinh nầy, đã ấn hành vào năm
1963.
- Kinh Pháp-Hoa
chỉ rõ 3 yếu tố cấu tạo nên sự vật là thể - tướng - dụng để độc
giả quan sát được chân tướng của vạn sự vạn vật một cách có phương
pháp như khoa học, để thấu đạt được tới chân lý rốt ráo. Trong
phẩm "Phương Tiện" thứ hai có trình bày "thập như thị", tức là
mười chân tướng của các pháp như là : Như thị tướng, như thị tánh,
như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị
duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh đẳng
(thật tướng của các pháp là tướng, tánh, thể, lực, tạo tác, gây
nhân, các yếu tố, hòa hợp, kết quả, từ gốc gác ngọn ngành đều như
vậy cả) để chỉ chung cho sự hình thành muôn loài vạn vật trong vũ
trụ đều có sự cấu tạo giống nhau từ vật nhỏ đến vật lớn.
- Kinh Pháp-Hoa
do Phật Thích-Ca nói sau cùng, đồng thời với kinh Niết-Bàn, trước
khi vào Niết-Bàn. Việc nghiên cứu, đọc tụng để hiểu được tinh thần
của bộ kinh Pháp-Hoa là ý hướng căn bản mà phần đông Phật tử chúng
ta đều mong đạt thành.
-
22.- ĐỨC PHẬT NÓI KINH NIẾT-BÀN LÚC
NÀO, TẠI ĐÂU, VỚI MỤC ĐÍCH GÌ ?
- Kinh Niết-Bàn
gồm chung cả Tiểu-thừa và Đại-thừa do đức Phật giảng thuyết cho
các hàng đệ tử tại thành Câu-Thi-La trước khi vào Niết-Bàn và sau
thời nói kinh Pháp-Hoa.
- Kinh Niết-Bàn
có nhiều người dịch thuật. Đời Tây-Tấn, ngài Bạch-Pháp dịch là
Phật-Bát-Nê-Hoàn kinh gồm 2 quyển. Đời Đông-Tấn ngài Pháp-Hiển
dịch là Đại-Bát Niết-Bàn kinh gồm 6 quyển. Kinh Niết-Bàn nói về
việc tu hành, chứng quả và hóa thân của đức Phật Thích-Ca. Trong
kinh Trung A-Hàm cũng có đề cập tới kinh Niết-Bàn. Đời Tây-Tấn còn
có ngài Trúc-Pháp-Hộ dịch là Phật Thuyết Phương-Đẳng Bát-Nê-Hoàn
kinh, gồm 2 quyển. Đời Tùy, ngài Xà-Na Quật-Đa dịch là Tứ-Đồng-Tử
Tam-Muội kinh, 3 quyển và ngoài ra còn có ngài Đàm-Vô-Sấm (đời
Bắc-Lương) dịch là Đại-Bát Niết-Bàn, gồm 10 quyển. Đến đời Đường
ngài Nhược-Na Bạt-Đà-La cũng có dịch kinh nầy, sau có ngài
Huệ-Quán đời Tống cũng dịch kinh Niết-Bàn gồm có 36 quyển.
- Kinh Niết-Bàn
nói : Phật tuy diệt độ, nhưng pháp thân Ngài thường còn không
diệt. Phật cũng có nói về việc thiêu xác và phân phối Xá-lợi để
phụng thờ sau khi Ngài vào Niết-bàn. Đây là một cách giáo hóa thực
tiển để cho các hàng đệ tử nào chưa có dịp gần gũi đức Phật, cũng
có được cơ duyên phụng sự Phật một cách có hiệu quả.
- Kinh Niết-Bàn được xem như là
những lời di chúc sau cùng của đức Phật để dẫn dắt hàng đệ tử con
đường tu tập và cũng là những lời trấn an những đệ tử nào quá bi
ai khổ não về việc Phật không còn tại thế.
- Phật dạy rằng
các ngươi nên tin tưởng nơi tự thân, cho dù không có Phật cũng có
thể tự tu tự độ được, nếu mỗi người không tự cố gắng, Phật dù ở
gần bên cạnh, chúng ta cũng không thể nào giải thoát được mọi khổ
não.
-
23.- DUY THỨC, CÁCH THÀNH LẬP VÀ PHÂN
LOẠI RA SAO ?
- Duy-Thức tiếng
Phạn là Ma-Hằng Thích-Đa, dịch là Duy và Tỳ-nhược-đế dịch là Thức.
Đây là một lối dịch đảo ngữ từ thành Duy-Thức.
- Thức còn có
nghĩa là liễu-biệt (phân biệt rõ ràng chi li), thông đạt cả nhân
và quả và được chia ra làm 3 loại : Thức thứ 8 hay A-lại-da-thức,
thức thứ 7 hay còn gọi là Mạt-na-thức và 5 thức là mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân. Nói cách khác, con người gồm có 8 thức : 5 thức, thức
thứ 6 hay ý thức, thức thứ 7 hay Mạt-na-thức và thức thứ 8 hay
Alaya thức. Thức chính là nơi chứa nhóm các chủng tử để phát khởi
ra hiện hành (phát ra sự hiểu biết sự vật) nên gọi là duy tâm và
do phân biệt để thấu suốt mọi vật tức là duy thức. Theo bộ "Duy
Thức Thuật Ký" thì Duy-thức có hai nghĩa chỉ sự hiển bày "giản -
biệt" tức do vọng chấp mà có thức, không có tâm ngoài cảnh mà do
tâm tạo ra tất cả. Trong Duy-thức Tam Thập Tụng có bài kệ nói về ý
nầy như sau : "Tâm dẫn đầu vạn pháp, tâm chủ, tâm tạo tác và theo
nghĩa thứ hai là "quyết-định" tức xa lìa mọi sự tăng hay giảm mà
trong đó có 8 thức vậy. Có các loại Duy-thức : Tam Thập tụng (30
bài tụng), Nhị Thập tụng (20 bài tụng), thành Duy-Thức, Bát-Thức
Qui-Củ, Đại-Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận ... Theo quan điểm của lý
Duy-thức có 3 tánh : Biến kế sở chấp, tức chấp các Pháp ở ngoài
tâm, y tha khởi tánh cho rằng nhân duyên của các pháp sanh ra
chủng tử (hạt mầm) và tánh viên thành thật, nhờ nương vào tánh y
tha cho là thật thể, chân như ... Có một tông phái Duy-thức gọi là
Pháp-tướng-tông do ngài Long-Thọ và Vô-Trước (thế kỷ 9 T.L.) khởi
xướng. Duy-thức dùng lối lý luận để chứng minh vạn vật đều do thức
biến. Do đó, chúng ta biện giải thông suốt lẽ sinh tồn trong vạn
vật muôn loài.
- Muốn hiểu rõ
được lý Duy-thức, hành giả phải thực hành và gia công nghiên cứu
kinh điển Phật giáo trong nhiều năm tháng qua các bộ kinh Đại-thừa
mới thấu đạt lý mầu của môn học nầy.
-
24.- PHẬT ĐẢN VÀ PHẬT LỊCH KHÁC HAY
GIỐNG NHAU ?
- Một người
thường ra chào đời gọi là sinh và ngày đó là ngày sinh nhật. Các
bậc Thánh ra đời thì gọi là Đản-sanh, Giáng-sanh hay Khánh-đản
hoặc Phật-đản.
- Đức Phật
Thích-Ca là giáo chủ của đạo Phật, ra đời vào năm 624 trước Tây
lịch. Do công phu tu hành, Phật đã giác ngộ, chứng quả giải thoát
rồi truyền bá pháp tu ấy cho nhân loại. Cứ mỗi năm đến ngày
Đản-sanh Ngài, người Phật tử ở khắp năm châu đều tổ chức lễ kỷ
niệm một cách thật trọng thể để tưởng niệm đấng chí Tôn Vô-thượng
Chánh-giác.
- Theo truyền
thống của dân tộc Việt, lễ Phật-đản mỗi năm đều vào ngày mồng 8
tháng 4 âm lịch. Từ năm 1951 trở đi, nhân kỳ đại hội Phật giáo thế
giới lần thứ nhất tại Colombo (Tích-Lan) quy định trở lại ngày
giáng sinh của đức Phật vào ngày Rằm trăng tròn tháng tư theo lịch
Ấn-Độ để phù hợp với đại đa số các nước theo Phật giáo Đại-thừa.
- Phật-đản và Phật-lịch khác hay
giống nhau ? Như đã trình bày, Phật-đản để đánh dấu một ngày quan
trọng mà bậc Thánh nhân là đức Thích-Ca ra đời. Trong khi đó
Phật-lịch tính sau khi Phật nhập Niết-bàn tới nay là 2541 (1997)
năm. Chữ Lịch có nghĩa là trải qua, để đánh dấu chuỗi thời gian mà
Phật giáo tồn tại trong nhân loại qua thời gian tính theo năm
tháng Phật diệt độ. Có một vài cuốn sách chọn Phật lịch không được
thống nhất, vì có thể lấy ngày Phật-thành-đạo làm Phật-lịch, hoặc
ngày Phật nhập Niết-Bàn làm Phật-lịch mà niên đại có khác nhau
trồi sụt khoảng 100 năm. Dù chọn ngày vào trong đời của Phật làm
Phật-lịch thì ý nghĩa việc thị hiện độ sanh của Ngài nơi cõi đời
nầy vẫn không thay đổi.
-
25.- VỀ Ý NGHĨA CỦA NGÀY
PHẬT-THÀNH-ĐẠO VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA NÓ.
- Sau khi đã thực
hành và nhận chân ra được phương pháp tu ép xác theo lối khổ hạnh
như các đạo sĩ thuộc nhóm ông Kiều-Trần-Như không thể đạt đến giải
thoát rốt ráo, đức Phật bèn rời khỏi họ để tìm ra một lối thoát do
chính mình bằng con đường thực nghiệm tu chứng.
- Nhờ áp dụng
pháp tu tĩnh tọa tham thiền, Phật Thích-Ca đã giác ngộ được sau 49
ngày tư duy dưới cây Bồ-Đề, và chứng được sáu phép thần thông : 1-
Thiên-nhãn-thông, 2- Thiên-nhĩ-thông, 3- Lậu-tận-thông, 4-
Tha-tâm-thông, 5- Thần-túc-thông, 6- Túc-mạng-thông (1- Mắt tinh
thông, thấy suốt được tất cả các cõi, 2- Tai nghe rõ thấu được tất
cả tiếng kêu than của mọi loài, 3- Các phiền não mê mờ đã được đãi
lọc sạch không còn thấm lọt được tâm thanh tịnh, 4- Thấu rõ được
tâm địa của kẻ khác một cách dễ dàng, 5- Thay hình đổi dạng tùy
theo nhu cầu mà biến hiện cho thích hợp, 6- Biết rõ được kiếp
trước của mình đã tạo ra nhân gì và thọ quả báo ra sao). Sáu phép
thần thông hay còn gọi tắt là lục thông cũng cùng một ý nghĩa.
Trong lúc tu hành quan sát lý vô thường, khổ, không và vô ngã
(không có cái ta) trong Tứ-niệm-xứ (4 ý niệm căn bản phải luông
ghi nhớ về kiếp nhân sinh) mà đức Phật đã nghĩ về kiếp nhân sinh
chỉ giả tạm chứ không có gì thực thể, không bền chắc, vì con người
sống ở đời bị mọi thứ ràng buộc chi phối. Do tham thiền nhập định,
Đức Phật đã đạt được giác ngộ (Englightenment)lúc sao mai vừa mọc
vào ngày mùng 8 tháng 12 âm-lịch. Lúc Phật chứng quả, chư Thiên
cùng nhau hoan hỷ rải hoa cúng dường và xưng tán đức Phật là bậc
thầy của cả Trời và người.
- Nhớ lại năm
thầy đạo sĩ cùng tu khổ hạnh ép xác lúc đầu, đức Phật lần đầu tiên
đến vườn Lộc-Uyển thuyết về nguyên nhân của sự khổ và tìm cách
diệt khổ mới đạt được chân lý (4 chân lý) để hướng dẫn họ tu tập
theo chánh pháp.
- Ngày Đản-sanh
của đức Phật đánh dấu trang sử vàng son của Phật giáo, nhưng ngày
Thành-Đạo mới chính là thời điểm lịch sử huy hoàng chói lọi nhất
còn vang vọng trong lòng nhân loại qua mọi thời đại.
-
26.- GIỮA NHẬP-DIỆT VÀ NIẾT-BÀN KHÁC
HAY GIỐNG NHAU ?
- Người thường
chúng ta sau khi tắt hơi thở lìa khỏi cõi đời nầy gọi là chết, còn
người theo đạo Lão khi chết gọi là quy tiên. Trong khi đó đối với
người lớn tuổi có đạo đức lúc qua đời gọi là "Hóa" hay "Vãng" và
Phật giáo còn có một vài danh từ để chỉ cho trạng thái nầy.
- Nhập-diệt hay
Niết-bàn đều có nghĩa giống nhau để chỉ cho trạng thái vắng lặng
mà chỉ có Phật mới đạt được, khi lìa bỏ xác thân ở đời. Nhập-diệt
là vào nơi yên tỉnh không bị phiền não câu thúc bó buộc hay lôi
kéo. Còn Niết-bàn là không còn sanh diệt nữa, đã được tự tại và
đạt tới an lạc hoàn toàn. Tiếng Phạn gọi Niết-bàn là Nirvana cũng
đều có ý nghĩa là không bị sanh tử chi phối nữa, vì thế còn gọi là
"viên tịch".
- Người tăng sĩ
Phật giáo khi nhắm mắt, tắt thở gọi là viên tịch, tịch diệt, hay
thị tịch để nói lên cái ý nghĩa rằng không còn bị ràng buộc bởi
cái nghiệp lực chi phối. Do kinh nghiệm hay do một vài người kể
lại, có nhiều nhà sư biết trước được giờ chết, lo tắm rữa sạch sẽ,
thay quần áo gọn gàng và dặn dò đệ tử những điều cần thiết trước
khi lìa đời. Nhờ công đức tu hành nên lúc bỏ thân xác nầy, các
tăng sĩ đều được an nhiên mà hóa, nghĩa là con người của họ đã làm
chủ được thần thức, không bị các ý niệm xấu tới lôi kéo đi thọ
sanh vào một kiếp khác. Thông thường, chỉ có Phật mới gọi là nhập
Niết-bàn, nhưng trong một ít trường hợp các Hòa-Thượng lớn tuổi có
nhiều thành tích hoạt động, lúc chết cũng được gọi là nhập
Niết-bàn hay nhập-diệt vậy. Tưởng cần nói thêm là nghĩa của chữ
vắng lặng trong chữ Tịch-diệt không có nghĩa là trống không như hư
không và đã có người cho rằng Phật giáo chủ trương phá chấp để
cuối cùng chọn lấy một chữ "KHÔNG" như là con số zero. Nếu chủ
trương một cách thuần vật lý như nhận xét vừa nêu, hẳn Phật giáo
đã bị đào thải bởi các ngành khoa học thực nghiệm ngày nay.
- Đi từ khái niệm
vật chất để đạt tới lý tưởng do công phu tu tập mà thành, chỉ có
con đường thực nghiệm tâm thức do Phật giáo chủ trương là được tồn
tại lâu dài.
-
27.- HÃY PHÂN BIỆT PHẬT GIÁO VỚI ĐẠO
PHẬT KHÁC NHAU THẾ NÀO ?
- Phật giáo và
đạo Phật là hai danh từ đã dùng quen thuộc, hầu mhư ít có ai để ý
phân biệt được chỗ giống và khác nhau thế nào để làm gì, có lẽ
việc tìm hiểu như thế không cần thiết chăng ?
- Thật ra, chữ
Phật giáo và đạo Phật có khác nghĩa nhau đôi chút. Phật giáo là
tiếng gọi tổng quát rất phổ thông để chỉ cho một tôn giáo như
Phật-giáo, Thiên-chúa-giáo, Cao-đài-giáo v.v... tức là gồm cả một
hệ thống của một tôn giáo có một giáo chủ, giáo lý và giáo đoàn
thuộc phạm vi khách quan. Trong khi đó, danh từ đạo Phật được thu
hẹp nghĩa hơn và chỉ lưu hành trong phạm vi của một quốc gia hay
nhìn xa hơn thuộc về phạm vi chủ quan của từng cá nhân. Ví dụ: Tôi
theo đạo Phật hay đạo Phật của tôi, hoặc đạo Phật, đạo Hòa-hảo,
đạo Islam...
- Ngoài ra Phật
giáo còn bao hàm được cái nghĩa nguyên thủy của nó, còn đạo Phật
theo dòng thời gian, đã biến thái và đi vào dân gian như một tôn
giáo qua sự đãi lọc và truyền thừa bởi các nhà truyền giáo, các vị
tổ khai sáng tông phái, các bậc thiện-tri-thức ... để đem đạo Phật
gần gũi và hòa nhập vào các sinh hoạt dân gian.
- Do đó, chúng ta
có thể nói rằng Phật giáo là chỉ cho cái chung của một tôn giáo về
chiều rộng, còn đạo Phật phải đòi hỏi ở sự thực hành thuộc về
chiều sâu hơn. Từ trước tới nay hai danh từ nầy có sự dùng lẫn lộn
và cho tới bây giờ cũng chưa ai phải bận tâm đem tách rời nhau ra
làm hai phạm vi cả, vì trên danh nghĩa hình như hai, nhưng ý nghĩa
đều chỉ có một, là một tôn giáo thuần túy mà thôi. Biết được sự
khác nhau của cách dùng như thế để khỏi có sự lầm lẫn mỗi khi gặp
kẻ khác hỏi để tìm hiểu hay chất vấn về Phật giáo.
- Vấn đề danh từ đơn giản ta chưa
giải quyết được thì đừng nói chi tới phần giáo nghĩa sâu xa của
Niết-Bàn, Cực-Lạc, Chơn-Tâm ... còn xa lạ khó hiểu đến chừng nào !
-
28.- GIẢI THOÁT LÀ THẾ NÀO ? NHỮNG
PHƯƠNG PHÁP GÌ ĐỂ TU CHO ĐẠT ĐƯỢC ?
- Như những tội
nhân được cứu ra khỏi lao tù, như người sắp chết đói được thức ăn,
cũng như chúng ta sống trong đời nầy gặp nhiều oan trái vây ngặt
nên phải tìm cách vượt ra mà chỉ có giáo lý đạo Phật mới đủ công
năng giải thoát được sự ràng buộc ấy.
- Đức Phật từ bỏ
ngai vàng, bệ ngọc, vợ con vào núi tu hành cho đến khi đạt được
chân lý là một sự giải thoát vô tiền khoáng hậu. Vì Phật không
những tu để tự cứu mình mà khi giải thoát được tất cả khổ não rồi
còn giải thoát cho tất cả chúng sanh đang trầm luân trong biển khổ
sanh tử nữa. Người tu hành sống đời đạo hạnh, không vướng bận cảnh
vợ con là một hình thức giải thoát. Chúng ta tự chủ được mình
trong những dục vọng thấp hèn cũng là một hình thức giải thoát
nhưng chính ta không tự thấy được. Muốn được giải thoát, trước hết
chính ta phải tự ý thức để cứu lấy mình ra khỏi cảnh ràng buộc.
Ngoài ra, do nhờ tha lực trong những trường hợp như bị áp bức, ép
ngặt ... để được tự do, tự tại. Nhưng trong đời phần nhiều do ta
tự giải thoát lấy mình. Có phương pháp để đạt đến giải thoát là
dứt bỏ lòng tham muốn bất chánh và khi đã bắt tay vào làm một công
việc gì phải trung thành với việc đó cho đến khi hoàn thành mới
thôi (quan niệm giải thoát theo thế gian), thứ hai là hy sinh thì
giờ để nghiên cứu, học hỏi, thực hành những việc thiện hay từ bỏ
gia đình để tu theo Phật cho đến khi tìm ra được chân lý (quan
niệm) giải thoát hướng thượng vượt ngoài phạm vi thế gian).
- Đức Phật
Thích-Ca nhờ thực hành đúng và rất táo bạo về cuộc cách mạng để
giải phóng cho nhân sinh thoát khỏi vòng sanh tử và chính Ngài
được xưng tụng là bậc Thiên Nhơn chi Đạo-Sư (Thầy của Trời và
Người).
- Nói cách khác,
việc giải thoát không khó, nhưng khó ở thái độ trù trừ của chúng
ta không chịu bắt tay vào việc tu tập thì khó mong đạt được mục
đích.
-
29.- THẦN THÔNG LÀ GÌ ? NHỮNG AI ĐẠT
ĐƯỢC ?
- Ngày nay chúng
ta thường nghe danh từ thôi miên thuật cũng đã là một hình thức
nhờ luyện tập công phu mà đạt được. Phật giáo có thần thông để nói
phép tùy cơ ứng biến mà chư Phật thị hiện ra đời và biết rõ suốt
được tất cả việc quá-khứ, hiện-tại và tương-lai một cách rõ ràng.
- Thần thông gồm
có 6 loại, sáu phép hay lục thông như :
- 1-
Thiên-nhãn-thông : Con mắt nhờ luyện thần nên trông thấy suốt được
mọi thời, mọi cảnh giới.
- 2-
Thiên-nhĩ-thông : Lỗ tai nghe thấu suốt được tất cả âm thanh của
thời đại và ngày cả âm thanh trên các cõi trời.
- 3-
Lậu-tận-thông : Các mê lầm của vô minh đã diệt không sót lại,
trong tâm thức hoàn toàn tĩnh lặng.
- 4-
Tha-tâm-thông : Biết rõ được tha nhân một cách tự nhiên.
- 5-
Thần-túc-thông : Bay đi tự tại qua mọi nơi, mọi lúc nhanh chóng
như trở bàn tay.
- 6-
Túc-mạng-thông : Biết rõ được mạng sống kiếp trước của mình một
cách thấu suốt trong mỗi một hành động tạo nghiệp và cũng nhờ đó
phối kiểm lại những việc đã qua.
- Đạt được sáu
phép thần thông nầy, chỉ có Phật, còn các bậc Bồ-Tát chỉ đạt được
lậu tận thông và một phần của tha-tâm-thông.
- Muốn đạt được
thần thông, cần phải tập trung định lực bền chắc như chất kim
cương mới không bị bất cứ ma lực nào chi phối được. Còn những
người tu hành bình thường, lúc ngồi thiền tự nhiên cũng thấy mình
phi thân tới chỗ nầy chỗ nọ. Điều đó không phải là trạng thái
chứng ngộ, giải thoát mà chỉ là ma chướng thường hiện ra để thử
thách mà thôi.
- Tu tập để đạt
được thần thông không phải chỉ một sớm một chiều mà thành công,
chúng ta cần phải tích lũy công phu lâu dài, liên tục như đức Phật
Thích-Ca đã thực hành.
-
30.- XÁ-LỢI LÀ GÌ ? AI CÓ ĐƯỢC NGỌC
XÁ-LỢI ?
- Chư Phật,
Bồ-Tát, các vị Tổ sư khi viên tịch (nhắm mắt lìa đời), xác thân
được đem thiêu và còn lại phần tinh ba gọi là Xá-lợi.
- Như thế, Xá-lợi
có khác với xương cốt mà người thường chúng ta khi chết cũng đốt
và thu lại trong một cái bình để thờ không ? Nói một cách khác dễ
hiểu hơn, Xá-lợi là do cái tinh túy của con người dồn lại. Người
tu do sức thiền định, cũng như tinh tủy không dùng vào việc ân ái
nên tích tụ lại và kết thành một chất sáng long lanh như kim cương
sau khi xác thân đã được thiêu đốt. Chất sáng ấy chính là ngọc
Xá-lợi. Chư Phật, các vị Tổ sư đã tu chứng đắc đạo, lúc nhập
Niết-bàn mới có được ngọc Xá-lợi. Đức Phật Thích-Ca lúc nhập diệt,
Xá-lợi của Ngài được chia thành 8 phần để cho các hàng đệ tử phụng
thờ. Hiện nay, Xá-lợi Phật vẫn còn tại một vài nơi như Népal,
Tích-Lan và được dân chúng hết sức kính ngưỡng. Việt-Nam có chùa
Xá-Lợi Sàigòn, thành lập vào năm 1952 cũng có rước được một phần
Xá-lợi Phật từ Tích-Lan về thờ. Ngọc Xá-lợi nguyên thủy có lẽ đã
bị biến dạng và hiện nay có còn lại chăng một phần (của ngọc
Xá-lợi) đều do sáng tạo của hàng Phật tử sùng kính muốn ghi ơn đức
Phật nên tìm cách duy trì. Tại Pháp vào năm 1979, chùa Việt-Nam
tại Nice có tổ chức một cuộc rước đất thiêng do phái đoàn hành
hương đến Ấn-Độ chiêm bái các nơi Phật tích mang về.
- Đức tin của con
người rất quan trọng, những gì đã được tôn thờ đều có một giá trị
tinh thần rất cao !
- Ngày nay,
Xá-lợi Phật vẫn còn sáng ngời trong lòng mỗi chúng ta qua mọi thời
đại, nếu biết tùy hoàn cảnh của mỗi quốc độ mà duy trì chánh pháp
để tạo cho người đời một lòng tin tưởng mãnh liệt vào ánh sáng của
đạo mầu giải thoát là chúng ta đã cúng dường Xá- lợi Phật một cách
đúng nghĩa vậy.
-
31.- KHỒ TRONG PHẬT GIÁO CÓ PHẢI LÀ
MỘT HÌNH THỨC THAN THÂN TRÁCH PHẬN ĐỂ CHÁN ĐỜI ?
- Cái khổ của con
người có muôn mặt thuộc về tâm sinh lý, là một sự thực hiển nhiên
ta không thể chối cải được. Phật chỉ nói khổ, vì thấy rõ được chân
tướng của nó và chỉ bày phương pháp để diệt khổ.
- Trong mỗi sinh
hoạt hàng ngày, chúng ta chưa thấy có ai hài lòng với chính mình.
Chẳng hạn người buôn bán hơi bận rộn một chút đã than bận quá, còn
như lúc rãnh lại than ế ẩm. Học trò tới kỳ thi vùi đầu vào sách vở
thì than bận đã đành, nhưng khi đã thi xong thì cũng còn bao nhiêu
mối bận rộn khác như nghỉ hè ở đâu, tiệc vui bè bạn... Như thế con
người từ khi sinh ra đời, lớn lên, già rồi chết, chúng ta gặp biết
bao nhiêu cảnh khổ, không được toại ý. Khổ về tinh thần và khổ về
vật chất mà Phật giáo chia làm 8 loại khổ khác nhau là : Khổ về
sanh, già, bịnh, chết, yêu nhau phải xa lìa, mong cầu không được
toại nguyện, thù ghét nhau nhưng phải sống chung đụng và các phần
thuộc sắc, thọ, tưởng, hành, thức (5 uẩn) có sự bất bình thường
cũng gây ra sự khổ.
- Nêu ra cái khổ
không phải để chán nản, bi quan mà là để tìm cách thoát ra nó, đạo
Phật không chủ trương khổ để đưa người vào chỗ mê lộ không lối
thoát, như có người cho rằng đó là tư tưởng chán đời, yếm thế ...
Chữ khổ có nghĩa là DUKKHA (suffering), tức là chồng chất lẫn lộn
những điều bất như ý vào trong các sinh hoạt thường ngày của chúng
ta. Muốn diệt khổ, chúng ta phải biết kiên nhẫn (perseverance) và
trì chí hay nhẫn nại (patience), tận tâm (thoroughness) và chăm
chỉ (industry) làm hết bổn phận của mình mỗi ngày, tâm hồn sẽ an
vui, thư thái. Kinh 42 Chương, phẩm "Thiểu dục và tri túc" nói :
- "Người biết đủ dù ở bất cứ chỗ nào
trên mặt đất, tâm trí cũng được thỏa mãn, còn người không biết đủ
dù cho có ở trên thiên đường cũng không vừa ý".
- Chúng ta biết
được khổ để tìm cách tiêu diệt, vì không thể chạy trốn được. Người
chạy trốn cái khổ mới chính là kẻ bi quan, yếm thế vậy.
-
32.- 37 PHẨM TRỢ ĐẠO BỔ ĐỀ
- Có nhiều người
nghĩ và giải thích khác nhau về 37 Phẩm-trợ-đạo Bồ-Đề, bởi do sự
hiểu lầm hoặc vì thiếu sự nghiên cứu đúng đắn gây ra. Để bổ túc
cho được đúng, ở đây bút giả cố gắng trình bày những chi tiết sau
đây để quý vị hằng lưu tâm tới Phật giáo dễ dàng trong việc đối
chiếu với các kinh điển.
- 37 Phẩm-trợ-đạo
Bồ-Đề là một trong các phương pháp tu hành để giúp cho hành giả
tấn tu trong khi thực hành Phật giáo và được chia ra làm 3 lãnh
vực là chuyên tâm, chánh niệm và chọn lọc. Trong phần chuyên tâm
có 4 Niệm-Xứ, 4 pháp Chánh-Cần và 4 điều Như-Ý. Phần Chánh niệm
gồm có 5 căn và 5 lực và phần chọn lọc có Thất-Bồ-Đề-Phần và 8
Chánh-Đạo (những danh từ vừa nêu trên xin xem bài riêng).
- Thất-Bồ-Đề-Phần
hay Thất-Giác-Chi mà trong đó việc lựa chọn các pháp tu trước tiên
để được thích hợp cho việc tu hành, chứng tỏ rằng giai đoạn chọn
lọc tức là đãi lọc những cáu bợn phiền não ra khỏi tâm thức rất
quan trọng.
- Trong 3 giai
đoạn chuyên tâm, chánh niệm và chọn lọc, nếu hành giả thực hành
được trong một hoàn cảnh thuận lợi và tâm trí không bị chi phối
bởi các tạp niệm (nhớ nghĩ vẫn vơ vô ích) bên ngoài xen vào thì
thật là điều lợi ích thiết thực cho việc tu tập.
- Tóm lại, 4 Niệm-Xứ, 4 Chánh-Cần, 4
điều biết đủ Như-Ý, 5 căn, 5 lực, 7 Bồ-Đề-Phần, 8 Chánh-Đạo là 37
phương pháp trợ giúp hành giả tấn tu huệ nghiệp.
-
33.- HÃY CHO BIẾT "TỨ NIỆM XỨ" VÀ
CÔNG DỤNG RA SAO ?
- Hành giả trên
bước đường tu tập, đầu tiên là những phương pháp thực hành để đạt
đến tỏ ngộ chân tâm. Đây là 4 pháp môn mở đầu trong 37 Phẩm
Trợ-Đạo Bồ-Đề.
- Bất cứ lúc nào
và ở đâu, nếu thấy thuận tiện, người thực hành Phật giáo cũng có
thể tưởng nghĩ tớ 4 điều căn bản nầy để quan sát rõ về hình tướng
thật của thân mạng nầy thay đổi theo từng khoảnh khắc. Có quan sát
được như thế chúng ta mới biết được chân giá trị của kiếp sống con
người để bồi dưỡng cho đời sống đạo đức cho được hoàn hão hơn.
- Bốn điều nhớ
nghĩ của người hành trì Phật giáo có thể được chia ra như sau :
- * Về thân thể :
Quan sát thân nầy dơ nhớp, do các yếu tố đất, nước, gió, lửa tạo
nên và nó chỉ tồn tại được trong một thời gian hữu hạn rồi cũng
tiêu hủy theo năm tháng. Nếu ta không chú ý săn sóc, như tắm rửa
hay trang điểm thì xác thân nầy sẽ bẩn thỉu khó chịu, nhất là khi
ta phải tiếp xúc với mọi người chung quanh.
- * Về nhu cầu
vật chất : Có thân xác dĩ nhiên phải có những nhu cầu vật chất để
nuôi dưỡng nó và đây là điều cần nên suy nghĩ kỹ tới việc thọ nhận
là khổ. Nói như thế không có nghĩa là từ chối tất cả để cho thân
thể héo gầy, bịnh hoạn. Khi thọ nhận những nhu cầu vật chất không
nên quá độ, vì ngoài thân thể ra, tinh thần mới đáng quý.
- * Về tâm lý đổi
thay : Tâm con người luôn luôn thay đổi như con vượn leo cây (tâm
viên), như ngựa chạy rông (ý mã), không một giây phút nào ngừng
nghỉ cả. Việc cần thiết là chúng ta nên suy nghĩ hay quan sát kỹ
tâm ta vốn không cố định, từ đó mới bắt đầu tìm cách chế ngự nó
định tĩnh lại theo sự điều khiển của chủ nhân chính là ta.
- * Các pháp đều
không có thật tướng, tức là tất cả các pháp đều vô ngã. Thật vậy,
tự nơi bản chất của các pháp đều không có gì gọi là cái "NGÃ" được
cả. Ví dụ : Thân thể cũng không phải là ta, vì khi xác thân nầy rã
rời, thì các phần đất, nước, sức ấm và hơi thở đều hoàn nguyên cho
các trạng thái lúc ban đầu.
- Khi chúng ta
quan sát kỹ 4 ý niệm căn bản nầy để tấn tu, vì thân thể bất tịnh,
thọ nhận là khổ, tâm vô thường và pháp không có thật ngã thì việc
tu hành mới tấn bộ ngỏ hầu đạt đến giải thoát an vui.
-
34.- TỨ-CHÁNH-CẦN LÀ GÌ ? HÌNH TƯỚNG
VÀ CÔNG DỤNG CỦA CÁC PHÁP ẤY RA SAO ?
- Trong 37 pháp
giúp cho việc thực hành Phật giáo được hoàn bị mà 4 pháp môn quan
trọng chánh đáng rất cần thiết nên gọi là Chánh-Cần.
- Bốn pháp Chánh-Cần là : Điều thiện
chưa sanh cần làm cho phát sanh, việc thiện đã sanh phải làm cho
nó tăng trưởng mãi, điều ác chưa sanh phải cố ngăn chặn không cho
phát sanh và việc ác đã sanh phải tìm cách diệt trừ. Đó là 4 pháp
tu chánh đáng mà bất cứ hành giả nào muốn đạt được đạo không thể
không thực hành.
- Đã gọi là pháp
Chánh-Cần thì bất cứ lúc nào người tu hành cũng có thể nhớ nghĩ và
thực hành được cả. Tuy nhiên, để cho công việc tu tập đạt tới kết
quả tốt, thì giờ thích hợp và thuận tiện nhất để nghĩ tới 4 pháp
Chánh-Cần là lúc ngồi thiền, quan sát và tập trung tư tưởng hoặc
lúc nào ta cảm thấy tâm trí nhẹ nhàng, không bị chi phối bởi hoàn
cảnh phức tạp chung quanh.
- Điều ác và việc
thiện vốn không có hình tướng nên khó có thể diễn tả cho đúng hoàn
toàn được. Ở đây có thể lấy một vài ví dụ để làm cho vấn đề được
sáng tỏ hơn như : Tánh tỵ hiềm, lòng tham muốn, ý ganh ghét v.v...
là những việc xấu, điều ác cần nên tránh, còn việc thiện là những
điều mà ai cũng thích như lòng tha thứ, yêu thương rộng khắp, tánh
rộng rãi v.v... Nhưng, còn những việc xấu ác chưa sanh thì làm sao
mà biết được để ngăn chặn cho nó đừng sanh ? Việc ác dù nhỏ nhoi
đi nữa cũng là hạt mầm của bao nhiêu sự sai lầm tai hại, cho nên
dù một sự móng tâm nào có tính cách bất chính và có phương hại tới
mọi người và mọi vật chung quanh cũng đều phải tức thời tìm cách
dập tắt ngay từ lúc nó mới nhen nhúm phát khởi.
- Tập trung được
mọi ý tưởng tốt cho tới khi nào ta nghĩ tới điều thiện thắng được
điều ác như người đãi lọc vàng trong đất cát thì việc tu tập mới
gọi là thuần thục vậy.
-
35.- TỨ-NHƯ-Ý-TỨC LÀ GÌ ?
- Tứ-như-ý-túc là
bốn điều biết đủ như ý hay là bốn pháp môn tùy thuộc vào việc suy
nghĩ và là phần cốt tủy trong việc thực hành các pháp lành vậy.
- Bốn điều biết
đủ như ý là : Lòng ham muốn vừa đủ, ý niệm, tinh tấn và định hay
nói một cách khác việc mong cầu, việc suy nghĩ, về hành động và tư
tưởng phải đúng. Mong muốn, suy nghĩ, hành động và tư tưởng là 4
khía cạnh của một vấn đề để từ đó con người có thể làm được thiên
thần hay quỉ vật. Tại sao ? Vì một khi mà lòng ham muốn hay dục
vọng của ta quá độ dễ đưa tới chỗ sa ngã, mù quáng và gây ra nhiều
tội ác. Đối với người tu, mọi việc đều phải biết đủ (tri túc) nên
chữ "túc" ở đây còn có nghĩa là tri túc. Trong khi đó việc suy
nghĩ và hành động là những yếu tố quan trọng hơn cả. Nếu ta chỉ
nghĩ và hành động một chiều, tức là thiếu sự cân nhắc kỹ càng để
đưa tới việc làm thô bạo có phương hại kẻ khác. Sau cùng là phần
tư tưởng mới quyết định được mọi việc đúng hay sai ở đời. Tư tưởng
đúng, hành động đúng ; tư tưởng sai, dĩ nhiên hành động không thể
nào đúng được. Một người có tư tưởng hướng thượng, tức là biết
hướng đời sống tới một lý tưởng và sẽ đi đúng theo con đường đã
chọn. Nếu tư tưởng lệch lạc, sai lầm sẽ kéo theo cuộc đời khổ não,
đau đớn không thể lường được.
- Nguyễn-Công-Trứ
trong bài "chữ nhàn" có câu : Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời
túc ; tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn, nghĩa là biết
đủ cứ cho là đủ, chờ đợi cho đủ thì chừng nào mới đủ được ; cũng
như biết nhàn cứ tự nhiên hưởng cái nhàn, chờ đợi tới lúc thực sự
nhàn nhã thì làm gì có được cảnh ấy ?
- Trong kinh "Tứ
Thập Nhị Chương" cũng có đoạn nói về thiểu dục và tri túc, đức
Phật dạy các thầy Tỳ-kheo : Người biết đủ dù có ở đâu trên mặt
đất, tâm hồn vẫn cảm thấy được thư thái nhẹ nhàng ; còn người
không biết đủ cho dù ở trên cảnh thiên đường cũng không được vừa
ý.
- Tri túc là
phương thuốc cần cấp cho người tu hành, cũng như biết đủ như ý rất
quan trọng trong bất cứ mọi trường hợp ta muốn thực hiện một công
việc gì dù lớn hay nhỏ.
-
36.- NGŨ CĂN CÓ PHẢI LÀ 5 PHẦN THUỘC
VỀ CƠ THỂ ?
- Ngũ căn là 5
pháp môn căn bản thuộc về khía cạnh tinh thần mà người tu muốn
hoàn thiện tư cách, không thể không suy nghĩ để thực hành cho đúng
cách.
- Ngũ-căn là tín,
tấn, niệm, định và huệ hay nói cách khác là lòng tin tưởng, sự
chuyên cần, điều suy nghĩ, tập trung tư tưởng và trí hiểu biết
phán đoán. Ở đây, vấn đề có thể triển khai theo nhiều khía cạnh
trong môi trường xã hội. Chữ Tín đứng đầu trong mọi việc giao tế,
do đó trong kinh Qui-Nguyên Trực-Chỉ có câu "Tín vi đạo nguyên
công đức mẫu" (lòng tin là nguồn mạch của bao nhiêu mẫu ruộng công
đức). Mọi việc từ nhỏ đến lớn ở đời, nếu thiếu lòng tin cậy lẫn
nhau, người ta khó có thể cộng tác với nhau được. Sự chuyên cần
cũng là yếu tố quyết định cho tư cách đàng hoàng và đúng đắn của
một người. Ví dụ làm việc đúng giờ ; khi đã hứa việc gì ta phải
giữ lời ; việc nào chưa biết phải tìm tra cứu đến tận gốc rễ mới
thôi, có như vậy mới đủ uy tín để cho người khác đặt được lòng tin
tưởng nơi ta. Ngoài ra, việc suy nghĩ cũng giữ một phần quyết định
quan trọng trong đời sống. Nghĩ đúng, hành động đúng. Việc định
tĩnh tâm thần và trí hiểu biết sáng suốt là điều không thể thiếu
được trong đời sống. Trí tuệ sáng suốt sẽ đẩy mạnh công việc của
ta đến chỗ thành công tốt đẹp như ý. Muốn có được trí hiểu biết lẹ
làng, thông minh, một phần do bẩm sinh mà có còn một phần do ta
tập luyện và tu tập nơi kinh nghiệm mới thành tựu được.
- Ngũ-căn là phần
trợ duyên cho tư tưởng như phân bón, hóa chất thêm vào cho cây cối
được xanh tốt. Đây là những chất liệu cần thiết để làm phong phú
cho đời sống tinh thần ngày càng bén nhậy, tinh vi.
- Người tu hành
biết áp dụng trong việc thực hành đúng mức pháp môn nầy sẽ thành
tựu được đạo nghiệp lâu dài vậy.
-
37.- NGŨ-LỰC LÀ GÌ ?
- Như trên đã
luận về ngũ-căn rồi, phần ngũ-lực chỉ là cái tác dụng của ngũ căn
mà thôi. Ngũ-lực là 5 sức mạnh tinh thần làm động cơ thúc đẩy tư
tưởng suy nghĩ đúng.
- Như vậy,
ngũ-lực là tín, tấn, niệm, định và huệ lực. Tại sao 5 căn và 5 lực
có cùng một hình tướng và tên gọi giống nhau lại chia ra làm hai
lãnh vực cho thêm phức tạp ? Hình tướng của 5 căn và 5 lực tuy
giống nhau, nhưng cái tác dụng của chúng hoàn toàn khác biệt. Chữ
Lực là sức mạnh mà trong Phật giáo mỗi hành vi tạo tác ra nghiệp
lành, nghiệp dữ của chúng sanh đều do cái "Lực" nầy thúc đẩy mà ra
cả. Giả sử ta tin một điều gì cũng giống như bao nhiêu kẻ khác
tin, còn cái hấp dẫn để tin lại là việc khác, cho nên cái sức mạnh
để tin đó mới là điều quan trọng. Chuyên cần là một đức tính tốt
mà ai cũng có thể nghĩ được, nhưng cái động cơ thúc đẩy việc
chuyên cần kia mới là điều đáng nói hơn cả. Trí tuệ phán đoán mọi
việc đúng, sai đều phải có một sức mạnh tiềm tàng bên trong làm
trợ duyên. Lực hay động lực, nếu chỉ dùng chỉ thuần vật chất nó là
cái đầu máy (moteur) của toàn bộ máy vậy. Lực trong phạm vi tinh
thần là đầu dây mối nhợ sai sử con người quyết định, lựa chọn hay
từ chối, tán đồng hay phản đối ... mọi việc đúng hoặc sai.
- Vì vậy, người thực hành Phật giáo
cần phải đặc biệc chú trọng tới cái sức mạnh lôi kéo nầy của tư
tưởng để kiểm soát mọi hành vi của mình, nếu không, sẽ bị cái sức
chi phối nầy dắt dẫn tới những việc làm tai hại, lỗi lầm và cuối
cùng ta không còn cách nào để sửa đổi được nữa.
- Hành động, tư
tưởng, trí phán xét của ta phải do ta làm chủ để giữ được thế quân
bình trong mọi khía cạnh sinh hoạt là vai trò của năm sức mạnh
tinh thần nầy chi phối.
-
38.- THẤT-BỔ-ĐỀ-PHẦN VÀ THẤT-GIÁC-CHI
GIỐNG HAY KHÁC NHAU ?
- Thất Bồ Đề Phần
là 7 yếu tố quan trọng trong việc phát tâm tu tập đạo quả Bồ-Đề
tức là giải thoát hay đạt đến giác ngộ.
- Bảy phần trợ
giúp cho công việc tu học đạt thành viên mãn, là một trong các
pháp của 37 phẩm trợ duyên cho hành giả tấn tu đạo nghiệp. Bảy yếu
tố đó là những gì ?
- Đó là : Trạch-pháp, tinh-tấn, hỷ,
khinh-an, niệm, định, xã ; về ý nghĩa của mỗi pháp và việc thực
hành như thế nào ?
- - Trạch-pháp là
chọn lực phương pháp hay các pháp môn thích hợp để tu, tức là các
pháp lành, đúng với trình độ căn cơ của ta. Ngoài ra, phương pháp
nào không thích hợp thì loại bỏ như người thích tu thiền thì nên
chọn thiền, kẻ thích tu quán tưởng niệm Phật thì nên chọn pháp môn
tu Tịnh-độ.
- - Tinh-tấn là
tiến tới không ngừng nghỉ. Khi làm bất cứ một công việc gì, muốn
đạt đến chỗ thành công cần phải có ý chí cương quyết, dứt khoát.
- - Hỷ là niềm
phấn khởi vui tươi trong mọi việc hoặc hỷ xã, tức là vui vẽ chấp
nhận các pháp lành để tu tập, trong tinh thần phấn chấn tự nhiên
lúc thực hành điều kiện ấy giúp ta dễ thành tựu mọi việc.
- - Khinh-an là
nhẹ nhàng, thư thái, hòa hoản, không gấp rút vội vàng, nhờ đó ta
có đủ sự sáng suốt để công việc tu học không bị thối chí nản lòng.
- - Niệm là suy
nghĩ những việc cần thực hành, tức là chú tâm vào một công việc
không có ý chểnh mảng lơ là.
- - Định là tập
trung tư tưởng. Trong trường đời, ta phải sống vật lộn với bao
nhiêu khó khăn, thử thách nên tâm bị giao động và cần phải có thì
giờ định tĩnh lại để tìm lấy những giây phút bình an.
- - Xả là bỏ, xa
lánh những pháp bất thiện để tìm về chân tướng thật của con người,
hầu tạo dựng một đời sống tốt đẹp hơn.
- Như thế, giữa
chữ Bồ-Đề và Giác-Chi (giác là sự hiểu biết, chi là nhánh hay ngọn
tức là từng bộ phận) đều có nghĩa là các pháp cơ bản đưa tới giác
ngộ.
- Tóm lại, nếu
hành giả biết thực hành đúng pháp tu, tức là chọn lựa phương pháp
để chấp nhận hay từ bỏ các pháp không thích hợp thì kết quả sẽ tốt
đẹp.
-
39.- BÁT-CHÁNH-ĐẠO LÀ GÌ ? XIN KỂ RÕ
THỨ LOẠI RA SAO ?
- Bát-Chánh-Đạo
là 8 con đường chơn chánh hay 8 phương cách thực tiển để giúp cho
việc tu hành đạt đến thành tựu viên mãn.
- Bát-Chánh-Đạo
nằm trong các phương pháp tu tập của 37 Phẩm-Trợ-Đạo Bồ-Đề. Tám
pháp môn chính đáng nầy là động cơ của mắt, miệng, hành vi, tư
tưởng và ngay cả thân thể nữa cũng ảnh hưởng dây chuyền hợp thành.
Thấy biết đúng để nhận ra được sự vật không lầm thuộc về chánh
kiến, suy nghĩ ngay thật (Chánh-tư-duy) không mang tâm niệm xấu có
hại cho kẻ khác. Miệng luôn luôn nói lời chân thật, hòa nhã, không
cố ý thêm bớt, đặt điều vô ích (Chánh-ngữ). Hành động, việc làm
chân chính (Chánh-nghiệp) luôn luôn chuyên cần để đẩy mạnh công
việc làm đạt tới kết quả tốt (Chánh-tinh-tấn), lúc nào cũng nhớ
nghĩ tới điều hay lẽ thật (Chánh-niệm), chọn lựa những công việc
nào thích hợp với khả năng và trình độ của mình không làm phương
hại tới kẻ khác trong việc mưu sinh (Chánh-mạng). Lòng lúc nào
cũng hướng tới những tư tưởng hay, những điều bổ ích thiết thực
cho đời sống của mình là ta đã theo đúng chánh định. Nếu hiểu biết
suy nghĩ chân chánh theo như tám phương pháp nầy, chúng ta có thể
rút tỉa ra được từ đó một bài học thực tiển thật hữu ích để ứng
dụng vào đời sống hầu cải tạo cho riêng cá nhân mình và tư tưởng
theo đúng con đường chánh đáng, là con đường duy nhất chân thật
làm kim chỉ nam cho cuộc sống đúng nghĩa, hữu ích và an lạc.
- Sống là một
nghệ thuật mà mỗi người phải tự tạo ra cho cuộc đời mình tốt đẹp
hay xấu xa. Người Phật tử biết sống đúng theo chánh pháp sẽ tạo
được hạnh phúc an vui trong chánh đạo.
-
40.- A-NẬU ĐA-LA TAM-MIỆU-TAM BỔ-ĐỀ
LÀ GÌ ?
- A-Nậu Đa-La
Tam-Miệu-Tam Bồ-Đề là trí tuệ sáng suốt của Phật, dịch là trí hiểu
biết rộng lớn. Do con đường tu chứng đã đạt được, là trí tuệ vô
thượng, là chân lý của sự an lạc.
- Chữ A nghĩa là
"vô", Nậu-Đa-La nghĩa là "thượng", Tam-Miệu là "chánh", Tam-Bồ-Đề
là "biến" hay "đạo". Dịch tổng quát có nghĩa là Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác hay Vô-thượng Chánh-biến-đạo và gọi tắt là
A-Nậu Bồ-Đề.
- Chỉ có chư Phật
là bậc Đại giác ngộ hoàn toàn mới được tôn hiệu nầy. Các vị
Bồ-Tát, La-hán, Thanh-văn ... chưa đủ tư cách để được tôn xưng.
Con người từ khi phát tâm tu hành cho tới khi đạt được quả
Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác phải trải qua vô số kiếp tinh tấn
không ngừng mới phá dẹp được hai trận tuyến của quân giặc đang bủa
vây từ trong nội tâm là sự phiền não quấy phá, cho đến giặc ngoại
cảnh như ma chướng và các thứ sắc dục khác theo cám dỗ. Nếu người
tu bẻ dẹp được 2 thứ giặc hùng hậu kia rồi cứ tiến thẳng tới quả
vị Bồ-Đề là con đường rộng mở để vào ngôi nhà chánh pháp tức là
giác ngộ giải thoát vậy.
- Người Phật tử
trong lúc sơ cơ học đạo, vì còn nặng gánh gia đình, chúng ta nên
thực hành từng bước một những điều Phật dạy để tạo dựng một nếp
sống gia đình thoải mái, lành mạnh, an vui, hạnh phúc, nhờ đó làm
thềm thang đưa tới quả vị Bồ-Đề. Nếu luận rằng quả Phật khó đạt và
việc Phật sự khó thực hành, chúng ta không biết đến đời nào mới
chứng quả ? Sự giác ngộ và giải thoát không gì khác là ngay trong
mỗi hành động, lời nói của ta trong sạch và lợi lành cho kẻ khác.
- Phật đã dạy "Ta
là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành" thì quả Vô-thượng
Chánh-đẳng Chánh-giác không xa đối với người Phật tử chân chánh,
biết quyết tâm thực hành Phật giáo.
--o0o--
|
|