-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- KIẾN THỨC
CĂN BẢN PHẬT GIÁO
-
-
- CHƯƠNG 4
-
- SINH HOẠT
-
-
1.- Cầu An Có Phải Là Một Hình Thức
Mê Tín ?
- Sống trong đời
không một ai trong chúng ta tự thỏa mãn cả, từ người giàu có cho
đến kẻ nghèo khó đều mang tâm trạng hồi hợp lo sợ, bất an.
- Ngoài phạm vi
hiểu biết của con người, nhưng chúng ta tin tưởng vào tha lực tức
sự huyền bí nào đó và như vậy, khi gặp sự đau khổ, nguy nan ...
mọi người đem lòng cầu cho tai qua nạn khỏi. Việc làm nầy phải
chăng là một hình thức mê tín, dị đoan ? Cầu an theo một nghĩa bi
quan tức là phó mặc mọi việc rủi may cho các đấng linh thiêng định
đoạt, với người mang tâm địa như thế, việc cầu an hoàn toàn nằm
trong khía cạnh mê tín, vì trông mong vào sự cứu rỗi hoàn toàn,
trong khi đó vẫn làm việc bất chánh một cách mù quáng. Nếu chúng
ta cầu an cho người đi xa đi đến nơi về đến chốn trong sự yên ổn,
và cầu cho người bịnh chóng được lành, cầu cho cảnh gia đình sum
họp, đoàn viên ... Tại chùa, chúng ta cầu cho dân tộc thái bình,
nhân dân an cư lạc nghiệp ... đều là điều mong ước có hàm ý tích
cực như lời trông mong và hiệp lực đẩy mạnh cho lời nguyện của ta
thành sự thật. Cũng cần nói thêm trong việc cầu an, có người nghĩ
rằng cầu cho mau giàu có, cầu để thắng kẻ thù ... những cách cầu
an như thế chứng tỏ ra người cầu đã mang một tâm trạng bất an rồi.
Cầu an ngoài việc tin tưởng vào tha lực ra, chúng ta cần phải nổ
lực nhiều hơn mới mong hoàn thành được lời mong ước.
- Một người Phật
tử khi đã hiểu được lý nhân quả rồi thì việc cầu an mới thật lợi
ích và đúng nghĩa.
-
2.- Ý Nghĩa Của Việc Cầu Siêu Trong
Phật Giáo Ra Sao ?
- Cầu siêu là do
sự góp lời cầu nguyện của nhiều người để mhờ đó linh hồn của người
chết được siêu thoát và sanh vào một cảnh giới lành.
- Cầu siêu có
nghĩa là mong cho vượt lên và thoát khỏi. Vượt ở đây là lên được
một nơi cao hơn, vì Phật giáo quan niệm có 6 cõi khác nhau để con
người đi đầu thai. Đó là : Thiên, Nhân, A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ
(quỉ đói), súc-sanh. Việc cầu siêu tốt nhất là vào lúc người chết
sắp tắt hơi thở, vì giữa thân xác và thần thức lúc đó sắp tách rời
nhau, nếu mọi người đọc kinh nhắc cho người ấy biết con đường
thiện nên theo, thần thức theo đó mà thoát kiếp đi đầu thai trong
kiếp khác dễ dàng. Thần thức chưa đi đầu thai ngay, do đó chúng ta
hay tổ chức cúng tuần 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày, 35 ngày, 49 ngày,
và 100 ngày để mong cho người qua đời được nhẹ nghiệp đi đầu thai.
Ngoài ra, tại các chùa còn có tổ chức lễ cầu siêu tập thể vào ngày
rằm tháng 7 của mỗi năm trong dịp lễ Vu-Lan hay cũng còn gọi là
ngày xá tội vong nhân rất trọng thể.
- Mọi việc khóc
kể, thương tiếc người vừa mới mất là một cách níu kéo thần thức
người ấy trở lại với người thân thật hết sức tai hại, cho nên Phật
giáo khuyên người Phật tử khi có người nhà chết không nên khóc
than là như vậy. Đây không phải là một việc bất hiếu, bất nghĩa mà
là có ảnh hưởng tới động lực tinh thần rất lớn.
- Cầu siêu còn là
một hình thức trợ lực giữa hai thế giới sống - chết qua một mối
dây vô hình, nhưng lại là việc làm thật thiết thực cho người Phật
tử lúc lâm chung.
-
3.- Việc Dâng Sớ Điệp Lúc Cầu Siêu Có
Tác Dụng Gì ?
- Lá sớ, tờ điệp
ghi đầy đủ tên tuổi năm sinh, mất như là lời thưa thỉnh để bạch
Phật cầu cho người đã chết được nhẹ nghiệp sớm đi thọ sinh ở kiếp
khác.
- Tuy nhiên, sớ
không phải để cầu siêu thuần túy, đôi khi sớ còn dùng cho việc cầu
an nữa. Về hình thức của lá sớ được chia ra làm 7 phần :
- 1.- Lời bạch
Phật, 2.- Địa điểm tổ chức lễ, 3.- Tên, tuổi, năm sinh, năm mất,
4.- Danh hiệu đức Phật A-Di-Đà cầu tiếp độ hương linh vãng sanh về
cảnh giới Cực-Lạc, 5.- Lời chí thành cầu nguyện của người cầu xin,
6.- Năm, tháng, ngày làm lễ, 7.- Ấn dấu chứng thực.
- Lúc dâng sớ
thường là vị sư trụ trì của một ngôi chùa đọc, trong khi đó chủ
nhà quỳ ở phía sau và đội bì sớ nhiếp tâm cầu nguyện, chờ cho đến
khi nào thầy đọc xong mới hạ bì sớ xuống. Sớ bằng giấy màu vàng,
xếp thành 6 mảnh tượng trưng cho lục đạo : Thiên, nhân, A-tu-la,
địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh, có hàm ý rằng con người không thoát
ra được khỏi 6 đường ấy. Còn điệp không đọc trước bàn thờ Phật mà
chỉ đọc trước bàn vong. Trên là điệp cũng có ghi rõ tên tuổi của
người chết và ngày giờ hẳn hoi. Sớ gồm cả cầu an và cầu siêu,
trong khi đó điệp chỉ có trong dịp lễ cầu siêu mà thôi. Điệp
thường thì màu trắng. Có người cho rằng việc cầu khẩn như thế là
quá đáng, vì nó có tính chất mơ hồ. Thật ra, việc cầu siêu còn tùy
thuộc vào quan niệm và ý hướng của người cầu xin, còn bản chất của
sớ, điệp vốn không là gì cả để ta phê phán hết.
- Người
Đông-phương chọn chữ hiếu đứng đầu trong muôn hạnh, cho nên cha mẹ
hoặc người thân lúc chết được con cháu tổ chức cầu siêu là một
việc cần được duy trì.
-
4.- Ý Nghĩa Của Việc Phóng Sanh Và
Vật Được Thả Là Gì ?
- Phóng sanh là
giải phóng những con vật bị nhốt và sắp bị đem giết chết để lấy
thịt.
- Phóng sanh
thường được tổ chức vào các dịp lễ vía quan trọng trong năm như
ngày Phật-Đản, lễ Vu-Lan, ngày vía đức Quán-Thế-Âm v.v... Những
loài vật thường được cứu sống như chim, cá, rùa, ba ba ... Vì loài
động vật cũng biết ham sống sợ chết như loài người, không thể vô
cớ làm cho chúng mất tự do, mất mạng sống.
- Do lòng từ bi
thúc đẩy, ta có thể bỏ tiền mua những con vật sắp bị giết oan để
thả cho chúng tự do, nhờ đó tạo được phước như thêm tuổi thọ, cũng
như gặp nhiều may mắn ở đời. Người ưa phóng sanh thường được thiên
thần ủng hộ trong mọi trường hợp. Muốn phóng sanh phải nhờ tăng sĩ
chú nguyện cho những con vật được thả mới được nhiều lợi ích hơn
là mình tự đem thả. Cũng có nhiều trường hợp việc thả loài động
vật không do nghi thức Phật giáo mà diễn ra vào dịp lễ Quốc-Khánh,
ngày Cách-Mạng ...
- Ý nghĩa của
việc giải phóng loài vật cũng giống như việc phóng thích những tội
phạm bị giam trong lao ngục lâu ngày và có cơ hội tốt để họm tìm
thấy lại được sự tự do. Mặt khác, phóng sanh còn nói lên một khía
cạnh tinh thần của lòng từ bi bao la không phân biệt giữa người và
vật.
- Phóng sanh để
làm tăng trưởng lòng thương muôn loài vạn vật, vì tự nghĩ chúng
cũng khao khát sống đời tự tại như người.
-
5.- Nói Qua Ý Nghĩa Của Việc Phóng
Đăng Và Sự Lợi Ích ?
- Phóng đăng là
thả đèn cho trôi trên hồ hoặc trên sông để cầu nguyện cho những
người chết oan trên sóng nước được siêu thoát.
- Việc thả đèn
cần đòi hỏi cơ hội thuận tiện. Những cây đèn được thả trôi trên
mặt nước phần nhiều cần bảo đảm nước khỏi lọt vô. Đèn dùng vào
việc nầy thường hình hoa sen để khi gặp gió đèn không bị tắt, vì
thế thả đèn ban đêm thì rất thích hợp. Đèn thả trước sau thứ tự
theo dòng nước chảy, để người xem như có cảm tưởng rằng đó là
những con thuyền nhỏ đang chở những linh hồn lạc lõng về bến an
lạc.
- Vào năm 1979
khoảng hạ tuần tháng 7, tại Geneve, có một hội nghị thượng đỉnh
của các nước để giải quyết vấn đề tỵ nạn của người Đông dương. Các
đoàn thể tôn giáo các nước Việt - Miên - Lào đã tổ chức một cuộc
tuyệt thực suốt trong ba ngày tại ngay cổng chính của trụ sở
Liên-Hiệp-Quốc để đưa thỉnh nguyện thư nhờ can thiệp giúp đỡ các
đồng bào tỵ nạn. Vào đêm cuối cùng cuộc tuyệt thực có một người
đàn bà Nhật tổ chức lễ thả đèn trên hồ "Le Man" để cầu nguyện cho
những người vượt biên thiếu may mắn bị chết đắm trong lòng đại
dương. Việc làm nầy đã gây được tiếng vang rất lớn và tầm ảnh
hưởng quốc tế rất có lợi cho người tỵ nạn.
- Xem một cuộc
thả đèn trên sông hồ ta thường hay liên tưởng tới những oan hồn đã
chết mà còn vất vưởng chưa đi đầu thai được nên phải cần có sự trợ
niệm của chúng ta.
-
6.- Nói Rõ Ý Nghĩa Của Việc Rước
Vong, Vong Và Linh Theo Phật Giáo Khác Hay Giống Nhau ?
- Theo Phật giáo,
người chết được quan niệm như là một sự thay đổi, cũng như kép lớp
trong vở tuồng trên sân khấu của trường đời.
- Chết không phải
là chấm dứt mà chỉ tiếp tục đóng một vai trò khác của kiếp người.
Do đó, sau khi tắt thở con người còn lại phần thần thức ; riêng
phần thân xác bị tan rã và hoàn nguyên trở về bốn trạng thái cũ là
đất, nước, gió, lửa của bốn đại tạo thành cơ thể.
- Rước vong là
tiếp dẫn bằng lời kinh tiếng kệ để đưa vong của người chết trở lại
nhà hay chùa để an trí. Sau khi chôn cất hay thiêu xác người chết
xong, thân nhân của người ấy mời chư Tăng trở lại nhà với bài vị
và di ảnh để thiết lập bàn thờ qua một nghi thức ngắn gọn. Chữ
vong ( ) có nghĩa là quên hay mất như trong nghĩa của chữ vong
hồn, linh hồn, oan hồn. Trong khi đó, chữ linh mang tính cách trừu
tượng hơn để ám chỉ trường hợp người nào bị chết oan ức như bị ép
ngặt, bị tra tấn cho đến chết hay tự tử đều gọi là linh cả. Chữ
linh có hoàm ý là linh thiêng. Đối với người chết lớn tuổi gọi là
hương linh, còn người chết nhỏ tuổi gọi là vong linh. Chữ vong
linh theo nghĩa sau nầy gồm chung lại thành một nghĩa, có ý nói
rằng thần thức của kẻ chết oan chưa được toại nguyện, vì còn đang
nuối tiếc như vợ con, gia đình, bè bạn, của cải nên phải được cúng
cấp để vong hoặc linh khỏi về phá phách con cháu.
- Việc thờ cúng
do đó, theo Phật giáo rất quan trong để tưởng niệm người chết cũng
như lúc còn sống, vì chết chưa phải là đoạn tuyệt mà còn kiếp tái
sanh.
-
7.- Hộ Niệm Là Gì ? Vai Trò Và Tổ
Chức ?
- Hộ niệm là góp
sức, phụ lực cho việc niệm Phật của nhiều người để cầu nguyện cho
người thân trong gia đình được nhẹ nhàng đi đầu thai đến một cảnh
giới an lành lúc sắp trút hơi thở cuối cùng để lìa đời.
- Với ý nghĩa
nầy, chúng ta thường thấy trong những gia đình khi có người sắp
chết, được mọi người thân thuộc hợp nhau lại để đọc kinh và niệm
Phật cho tinh thần người ấy được tỉnh táo, không bị mê muội. Do đó
Phật giáo chủ trương người thân không được than khóc mỗi khi có
người nhà mất là do ý nghĩ nầy, chứ không phải là điều bất hiếu
như có một số người đã nghĩ.
- Để trợ lực cho
người chết được siêu thoát, trong Phật giáo thường thường ở mỗi
chùa đều có lập thành một ban-hộ-niệm. Ban nầy có ý nghĩa như một
hội-tương-tế. Ngoài việc tang ma ra, các ban viên còn có thể dự
vào các việc hôn lễ và chung vui của nhau để chia xẻ nỗi vui buồn
trong đời sống. Việc nầy được quan niệm như là sự liên đới chặc
chẽ giữa những cá nhân với nhau trong đại gia đình Phật giáo. Một
ban-hộ-niệm được nhiều Phật tử nhiệt tâm tham gia và tổ chức có
qui tắc hẳn hoi là điều ưu tư số một của các vị lãnh đạo tinh thần
Phật giáo. Nhờ sự trợ sức hộ niệm của nhiều người mà cứu thoát
được các vong linh ra khỏi cảnh đọa lạc trầm luân sau khi chết.
- Mỗi một ngôi
chùa cần có một ban-hộ-niệm và kết nạp cho được ít nhất là 10
người lập thành một tổ chức do vị sư trụ trì hướng dẫn trong việc
tụng niệm là điều cần thiết và cấp bách không thể thiếu được.
-
8.- Hãy Cho Biết Sự Khác Nhau Giữa
Tín Chủ Và Tang Chủ ?
- Tín chủ là
người tin Phật, tin Pháp và chư Tăng, đem vật dụng cúng vào chùa
để tạo phước lành trong đời nầy và mai sau.
- Người ra của có
tạo được phước đức hay không còn tùy thuộc vào thái độ và tâm lý
của người ấy nữa. Người Phật tử thường cúng dường chư Tăng như dịp
lễ trai-tăng (mời chư Tăng tới dùng cơm chay rồi cúng đồ thường
dùng như y phục, xà phòng, thuốc thang, đồ trãi ngồi thiền ...)
các dịp lễ lớn trong năm như việc sắm sẵn thức ăn và cung đón chư
Tăng về nhà hay tại chùa và lễ Trung-Nguyên, rằm tháng 7 chẳng
hạn.
- Còn tang chủ là
người có thân nhân vừa mới qua đời. Tức là gia đình đang có tang
và mọi người đều để tang hay mang tâm trạng buồn rầu.
- Tín chủ và tang
chủ không hề liên hệ gì cả, mặc dù cả hay đều là tín đồ Phật giáo.
Những danh từ Phật giáo phần nhiều đều nằm trong chữ Hán, người ít
có dịp tiếp xúc với tiếng cổ rất khó phân biệt nổi. Việc hiểu lầm
danh từ hay hiểu lờ mờ cần phải chấm dứt, nếu không, đó là một lỗi
rất lớn mà các vị lãnh đạo tinh thần phải chịu trách nhiệm. Vì
tăng sĩ phần nhiều đều có học qua kinh điển bằng Hán văn lúc mới
nhập môn, không nên để tình trạng nầy kép dài nữa.
- Ngày nay, một
số các thầy đang có mặt ở ngoại quốc phải chịu trách nhiệm trước
lịch sử Phật giáo về việc truyền bá chánh pháp sâu rộng trong
đời.
-
9.- Thiện Nam, Tín Nữ Là Những Thành
Phần Nào Trong Phật Giáo ?
- Thiện nam, tín
nữ là danh từ chỉ cho hai giới Phật tử tại gia, phái nam và phái
nữ đã quy y Tam-Bảo và thọ năm giới cấm.
- Thiện nam gọi
đủ là thiện-nam-tử, là người trai lành gần gũi Phật - Pháp - Tăng
để học hỏi giáo lý giải thoát. Người nam được gọi là thiện-nam-tử
phải hội đủ hai điều kiện : Đã thọ trì năm giới Phật tử tại gia,
tuổi thích hợp và có khả năng gánh vác được công việc của Phật
giáo. Thiện nam hay còn gọi là thiện tín, tức người tín đồ tu theo
các pháp lành của Phật đã chỉ dạy. Còn người tín nữ hay
thiện-nữ-nhơn là nữ giới Phật tử tốt gần gũi đạo Phật và cũng hội
đủ các điều kiện như nam giới.
- Thiện nam, tín
nữ là 2 thành phần Phật tử có khả năng phục vụ đắc lực cho Phật
giáo phát triển về mặt chiều rộng, tức là họ chỉ có khả năng vận
động quần chúng, đóng góp tích cực vào các công tác từ thiện xã
hội như việc xây dựng chùa chiền, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống
kinh sách v.v... để cầu phước. Còn chư Tăng lo việc phát triển đạo
Phật về chiều sâu như giảng dạy giáo lý cho hàng Phật tử, khuyến
khích con em Phật tử sinh hoạt trong các đoàn thể hầu giúp chúng
tạo một đời sống tinh thần lành mạnh, trẻ trung theo châm ngôn Bi
- Trí - Dũng của đạo Phật. Tuy nhiên người Phật tử tại gia cũng có
thể có đủ khả năng trong việc phát triển Phật giáo ở chiều sâu
nữa.
- Ngoài ra, trong
mỗi gia đình của người Phật tử, chúng ta nên thu xếp cho gọn gàng,
ngoài thì giờ làm việc ra cũng nên để tâm tới việc học Phật và làm
công việc tạo phước để khi nhắm mắt lìa đời mới thừa hưởng quả báo
lành được. Đạo Phật phát triển mạnh được là nhờ các hàng Phật tử
không phân biệt nam hay nữ, tùy theo hoàn cảnh và địa vị của mỗi
người mà hiệu quả việc đóng góp nhiều hay ít.
- Một người Phật
tử đã quy y rồi mà chưa có dịp đóng góp vào ngôi nhà Phật giáo nên
cố gắng tinh tấn nhiều hơn nữa để thực hành, vì có công mới mong
có quả vậy.
-
10.- Thế Nào Gọi Là Công Quả ?
- Công quả là
những người Phật tử tự nguyện làm việc giúp cho chùa không nhận
bất cứ một phần thù lao nào cả.
- Người hy sinh
làm việc phước đức nầy gồm có 2 thành phần : Lực sanh công quả và
phước điền phụ nhơn công quả.
- Thế nào gọi là
lực sanh công quả ? Những người trai trẻ có đủ sức khỏe làm việc
năng nhọc như xây tường, làm vườn, cày ruộng ... gọi là lực sanh
công quả tức là do sức lực làm nên công việc.
- Còn nghĩa thứ
hai là gì ? Phần nhiều những người đàn bà lớn tuổi và công việc
gia đình đã có người sắp xếp, nên có thì giờ và họ phát tâm muốn
vào chùa làm việc như lo cơm nước cho chư Tăng để cầu gieo trồng
được phước đức, như kẻ làm ruộng bón phân tốt vào cho được mùa về
sau. Trường hợp nầy, có người còn xin ở luôn tại chùa cho đến khi
chết và chôn xác luôn tại chùa (nếu là người không con trai thờ
cúng).
- Ngày nay, chúng
ta ít thấy người nào phát tâm làm công quả cho chùa dài hạn, vì
đời sống vất vả không đủ điều kiện, thì giờ.
- Do ý nghĩa nầy,
ta thường nghe nói tới tiếng "chùa" như là một việc miễn phí hoàn
toàn như : Cơm chùa, đồ chùa ... đã được dùng quen trong dân
chúng.
- Việc làm công
quả còn tùy theo thói quen của mỗi dân tộc. Ở Nhật không bao giờ
có việc làm thí công cho chùa cả, vì chùa lúc nào cũng giàu có hơn
người đời.
-
11.- Muốn Niệm Phật Phải Cần Những
Điều Kiện Gì Và Niệm Danh Hiệu Đức Phật Nào ?
- Niệm Phật là
một phương pháp tu hành dể thực hành nhất cho tất cả mọi người
thuộc bất cứ ở hạng tuổi nào cũng có thể làm được.
- Người niệm Phật
cần phải hội đủ hai điều kiện sau đây :
- - Tâm thanh
tịnh tức tư tưởng phải an định, không thể dùng tâm tán loạn để
niệm Phật được.
- - Khoảng thời
giờ thích hợp, tức là đòi hỏi giờ giấc phải thuận tiện như vào ban
tối, trước khi đi ngủ, buổi sáng trước khi mọi người trong gia
đình thức dậy.
- Việc niệm Phật
có thể xảy ra bất cứ ở đâu và bất cứ nơi nào cũng đều được cả,
miễn sao người niệm có chú tâm mới đạt được lợi ích. Cách niệm
Phật dễ hơn cả là lần tràng hạt. Cứ mỗi một tiếng niệm Phật lần
qua một hạt và cứ như thế tiếp tục mãi trong khoảng nữa tiếng hoặc
một giờ do ta phát nguyện. Niệm Phật có hai cách ngồi : bán già
(để bàn chân trái lên đùi bên phải) và kiết già (bàn chân trái lên
đùi bên phải và bàn chân phải trên đùi bên trái). Chúng ta thường
niệm đức Phật A-Di-Đà và đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. Vì các Ngài phát
lời thệ nguyện cứu độ chúng sanh nào niệm đến danh hiệu sẽ hiện
ngay tới đó để cứu giúp. Ngài Quán-Thế-Âm thường hiện đủ hình
tướng và lăn xã vào xã hội loài người để cứu độ, mỗi khi nghe
tiếng kêu cầu là Ngài hiện thân ngay trước người đó để ban vui,
cứu khổ, nhờ đó tai qua nạn khỏi.
- Danh hiệu đức
Phật nào cũng niệm được cả, nhưng do thói quen và theo hạnh nguyện
ta kêu cầu đúng thì việc cảm ứng mới có hiệu quả.
-
12.- Ăn Chay Và Cách Thức Ăn Chay Ra
Sao ?
- Phật giáo lấy
Bi - Trí - Dũng làm phương châm hoạt động, vì lòng từ bi là một
yếu tố quan trọng nhất trong các hạnh lành.
- Ăn chay là ăn
các loại rau cải, hay nói một cách khác những vật nào không có máu
huyết, để nuôi dưỡng lòng thương đối với các loài động vật khác.
Ăn chay có 2 trường hợp : Ăn chay kỳ và ăn chay trường hay trường
trai. Ăn chay kỳ là chỉ ăn chay mỗi tháng đúng kỳ vào 2 ngày rằm
và mồng một gọi là nhị trai, 4 ngày như : 14, 15, 30, và mùng 1
gọi là tứ trai, 6 ngày gọi lục trai là : Mùng 1, 8, 14, 15, 23, và
30 ; có khi ăn chay kỳ theo tháng như trọn tháng giêng, tháng 7 và
tháng 10, tùy theo tâm thành của người phát nguyện. Còn ăn chay
trường là phát tâm ăn chay suốt đời. Có nhiều động cơ khiến phải
ăn chay để cầu nguyện cho cha mẹ, thân bằng quyến thuộc an lành do
một sự khủng hoảng tinh thần nào đó. Vì thế, việc ăn chay không
phải để khoe khoang với mọi người như là niềm hãnh diện rằng mình
đã làm được một việc ít có trong đời. Nếu mang lòng tự cao như thế
thì việc ăn chay chẳng đem lại được một lợi ích nào cả.
- Có nhiều cách
biến chế thức ăn chay như xào, chiên, kho, luộc, nướng ... để thức
ăn luôn luôn được thay đổi. Đừng nên có quan niệm cho rằng ăn chay
là phải kham khổ, chịu đựng. Mỗi bửa ăn chỉ cần muối, dưa, tương,
chao đơn sơ là đủ. Điều nầy không thích hợp cho sức khỏe của ta.
- Việc ăn chay
rất quý, nhưng ta thể hiện được tâm thanh tịnh trong việc ăn uống
lại càng cao khiết hơn, vì : "Ăn mặn nói ngay, hơn ăn chay nói
dối" là như vậy.
-
13.- Tràng Hạt Ý Nghĩa Và Hình Thức
Ra Sao ?
- Tràng hạt khác
với chuỗi cườm đeo cổ mà những người giàu có thường dùng để trang
sức. Tràng hạt trong Phật giáo dùng để niệm Phật.
- Tràng hạt có
nhiều tên gọi khác nhau như chuỗi tràng, lần tràng là những hạt
rời rạc được xâu lại thành vòng đeo cổ hoặc đeo tay. Trong lúc
miệng niệm danh hiệu Phật một lần, tay lần sang một hột và cứ thế
tiếp tục mãi cho đến khi nào muốn nghỉ mới thôi. Khi ta phát
nguyện niệm Phật vào mỗi đêm là bao nhiêu lần thì phải niệm và lần
chuổi cho đủ số, còn như niệm Phật tính theo điểm thời gian như
đếm hơi thở thì niệm cho tới khoảng thời gian đã ấn định. Chuỗi
tràng có 4 loại :
- 1.- Chuỗi 12
hột dùng để đeo tay
- 2.- Chuỗi 18
hột
- 3.- Chuỗi 54
hột dùng để đeo cổ
- 4.- chuỗi 108
hột
- Về chất lượng,
tràng hạt có thể bằng hột bồ-đề, hột huyền, bằng đá mài, gỗ, chất
kim khí v.v... Người nào chuyên lần tràng, tự nhiên xâu chuỗi và
hạt tràng càng ngày càng thêm bóng láng thấy rõ. Mỗi ngày chúng ta
nên cố gắng dành thì giời để lần chuỗi cho được sáng suốt. Niệm
danh hiệu đức Phật A-Di-Đà hay đức Quán-Thế-Âm đều được cả. Lúc
niệm phải cho thật chú tâm vào việc niệm được chuyên nhất, đừng để
những tạp niệm xen vào, tức là những ý nghĩ trong sinh hoạt hằng
ngày. Nếu niệm đến chỗ nhất tâm, trí huệ sẽ sáng suốt và lòng nhẹ
nhàng an vui.
- Việc lần tràng
không dành riêng cho một người nào cả, tất cả mọi người Phật tử
đều thực hành được cả.
- Ở chùa, các nhà
sư mới chuyên xử dụng tới chuỗi tràng, thường chuỗi 18 hột là được
thông dụng, vì gọn và tiện lợi.
- Chúng ta lần
tràng mỗi ngày nhiều lần được càng tốt, suốt quanh năm xâu chuỗi
luôn luôn ở bên mình là dấu hiệu chứng tỏ người tinh tấn thực hành
việc niệm Phật.
-
14.- Đàn Gia VÀ Đàn Việt Có Nghĩa Là
Gì ?
- Đàn-gia hay
đàn-na hoặc đàn-việt đều chỉ cho người tín đồ của Phật giáo đem đồ
vật cúng vào chùa để cầu phước. Như thế giữa danh từ đàn-na,
đàn-gia và đàn-việt khác nhau ra sao ?
- Cả 3 danh từ
đều mở đầu bằng chữ Đàn, có nghĩa là mùi thơm của một thức gỗ trầm
rất quý để chỉ cho sự phát tâm thơm sạch mà người đem của cúng
muốn cầu được an lạc như là bổn phận. Đàn-gia là nhà người tín đồ
Phật giáo, tu tại gia và thường lui tới chùa lễ bái, học hỏi ; còn
đàn-na để nói lên sự hòa hợp, dung thứ, thuận theo. Đàn-việt là
một cách nói khác hơn cũng để chỉ người Phật tử tu tại gia. Chữ
Việt có nghĩa là vượt qua, để chỉ cho người có lòng cao thượng
biết ra ơn giúp đỡ cho kẻ khác mà chẳng cần ai biết đến mình, đó
là hạnh nguyện của Bồ-Tát trong đời nầy vậy. Ở mỗi ngôi chùa đều
có một số đàn gia trung tín giúp đỡ khi cần thiết, gọi là những kẻ
hộ trì Phật Pháp. Người cúng dường theo Phật giáo phái Tiểu-thừa
là những kẻ hộ vệ chư Tăng trong bốn thứ cúng dường như : Áo quần,
đồ ăn thức uống, thuốc thang, đồ trãi ngồi thiền (tọa cụ) để giúp
nhà tu thực hiện việc tu được trọn vẹn.
- Học hỏi giáo
lý, tu hành và làm việc phước là 3 công đức lớn hàng đầu mà hàng
Phật tử không thể bỏ qua.
- Bổn phận của
người Phật tử là hộ đạo mà việc giúp cho chùa được phát triển là
công đức không thể nghĩ bàn.
-
15.- Chuông Có Khác Với Đại Hồng
Chung Không Và Có Công Dụng Gì ?
- Chuông là vật
dùng làm hiệu khi tụng kinh ở chùa hay ở nhà, nhờ tiếng chuông để
phân biệt được đoạn mạch, văn kinh.
- Khi tụng kinh
có phần khai chuông mõ rất dơn giản như nhập chuông - cốc - cốc -
cốc - cốc.
- Sau đó tiếp tục
: cốc - boong - cốc - boong - cốc - boong - cốc - cốc - cốc - cốc
- nhập chuông và bắt đầu tụng kinh.
- Chuông hay còn
gọi là chuông gia trì, vì nhờ tiếng chuông có thể khiến cho người
nghe được thanh thoát, nhẹ nhàng và lòng buồn phiền vơi bớt. Tiếng
chuông còn dùng cho việc hòa âm theo với lời tụng kinh quyện vào
trong không trung như một duyên lành gần gũi với chư Phật. Ngoài
ra, chuông còn có công dụng làm chấm dứt ý của mỗi đoạn kinh để
báo cho người đọc biết tới đâu phải dứt. Chuông khác xa với đại
hồng chung về hình thức và ý nghĩa. Chuông thường nhỏ, hình bầu
dục, nhẹ dễ di chuyển, thường để nơi bàn kinh trước điện Phật,
trong khi đó Đại-hồng-chung lớn, hình quả bí đao, nặng khó di
chuyển, thường để nơi gác chuông trước hiên chùa.
- Người đứng điều
khiển bên chuông gọi là "duy-na". Duy-na nghĩa là ra hiệu cho việc
đọc tụng nên tiếp tục hay ngừng. Tiếng chuông như một hiệu lệnh
nên ít gõ có ai để làm trò đùa, chỉ khi nào có lễ bái hay đọc kinh
chúng ta mới được nghe tiếng chuông mà thôi.
- Chuông phần
nhiều đều bằng đồng để có được tiếng vang ấm và thanh.
- Chuông gõ lên
để hòa với nhịp tụng kinh, đồng thời là âm thanh cầu nguyện cho kẻ
còn người mất được lợi ích an vui.
-
16.- Nhương Sao Giải Hạn Là Một Hình
Thức Mê Tín Dị Đoan ?
- Trong Phật giáo
có nhiều sự tướng mà khi mới nhìn vô ta thấy rườm rà như việc
nhương sao giải hạn, đoán xăm, coi tướng v.v...
- Do đâu có sự
việc hình như quá phức tạp nầy ? Phật giáo khi đi tới đâu dân
chúng ở đó tôn sùng và những lúc bị bài xích, người Phật tử vẫn
tin tưởng nơi đạo giáo một cách tín thành, chí kính. Để đức tin ấy
không bị giảm sút, một số các hình thức pha trộn tạp nhạp giữa các
đạo khác như phù thủy, tướng số ... được xen vào trong Phật giáo.
Từ đó trở đi mới thành thói quen, nên trong giới chùa chiền nảy
sinh ra một hiện tượng mới, là cầu xin cứu rỗi. Điều nầy cũng hết
sức dễ hiểu, mỗi khi con người bất lực trước cuộc sống đa diện khó
khăn, nhất là cảnh vũ trụ bao la, thiên nhiên hùng vĩ, và những
đau ốm bất thường do trái thời đổi tiết gây ra. từ nhận xét đó,
chúng ta đi vào sự tướng trong việc cúng cấp của Phật giáo để tìm
ra một lối giải thích thỏa đáng, bằng một cái nhìn khách quan,
khoa học. Nếu chỉ căn cứ vào lý mà bỏ sự thì các hình thức như cầu
an cầu siêu, nhương sao giải hạn, xem quẻ, đoán tướng v.v... trong
Phật giáo đều nhuốm mầu mê tín dị đoan, vì thái độ cầu xin là một
việc làm lệ thuộc hoàn toàn vào tha lực mà không có phần tự lực.
Điều nầy có nghĩa là ở trong đời ta chưa một lần làm được việc
phước thiện, thì việc cầu an làm sao cho an được ! Theo quan niệm
của Phật giáo, con người hiện hữu hôm nay là do nghiệp lực dẫn
dắt, chi phối để kết quả là thọ nhận quả khổ hoặc vui. Tuy nhiên,
Phật giáo còn có việc ứng lý, hợp cơ tức là thích hợp chân lý,
cũng như trình độ của người tin mà pháp tu có thay đổi. Đối với
người căn trí còn thấp kém, cạn cợt có thể nhờ những sự tướng như
vừa nêu trên để làm chỗ nương tựa cho đến khi thấu suốt được chân
lý giải thoát. Do đó, việc cúng bái, cầu an, nhương sao... không
trái với giáo lý của đạo Phật mà còn là một việc làm cần thiết ở
buổi đầu đáng khuyến khích, duy trì. Phật giáo không chấp vào sự
mà bỏ lý, cũng như tùy thuận theo chúng sanh để đem ánh sáng đạo
gần với quần chúng. Ngược lại, chúng ta chỉ chấp lý mà bỏ sự thì
đạo Phật phải đi xa rời dần với quần chúng. Nhận xét nầy có được
chỉ có người Phật tử chân chánh mới hiểu được lý đạo nhiệm mầu mà
thôi. Người duy vật chỉ dựa theo sự tướng trong Phật giáo để đưa
ra kết luận cho rằng tôn giáo, trong đó có ám chỉ Phật giáo, là
thuốc phiện làm mê hoặc lòng người thì thật là điều nhận xét phiến
diện, mơ hồ.
- Việc làm của
người tín đồ đạo Phật theo mọi hình thức cúng bái có là mê tín, dị
đoan hay không đều do thái độ của mỗi cá nhân, còn ý nghĩa và kết
quả của hành động mới là điều quan trọng.
-
17.- An Vị Phật Xảy Ra Lúc Nào ?
- Một ngôi chùa
mới, niệm Phật đường, thiền thất mới đều có một pho tượng được
thỉnh về thờ. Ngay cả người Phật tử tại gia muốn thờ Phật cũng đều
phải tổ chức lễ an vị.
- An vị Phật có nghĩa là tôn trí đức
Phật vào một nơi cố định để ngày ngày chúng ta đến trước đốt nhang
đọc kinh kỳ nguyện. Lễ an vị lớn nhỏ tùy theo khả năng của mình.
Trong các lễ an vị tốt nhất nên thỉnh được chư Tăng đến chú
nguyện, tụng kinh để được thêm công đức lành. Về hình thức lễ an
vị gồm có : Sau khi lễ Phật, khai chuông mõ, khai kinh, tới lúc
tụng chú đại bi, người chủ lễ (Tăng) cầm một cành hoa và ly nước
đi chung quanh tượng Phật vừa đọc chú, vừa rảy nước. Việc làm nầy
có nghĩa là tẩy rửa, tiêu trừ mọi phiền não, nghiệp chướng để cầu
an lạc cho tất cả mọi người. Người Phật tử tin tưởng rằng, từ khi
có tôn tượng đức Phật, như là một biểu tượng gần gũi với các sinh
hoạt hằng ngày của chúng ta lúc vui buồn, khi mừng giận, chán nản,
khổ tâm ... ta cũng mong đức Phật chứng minh cho với nụ cười hỹ
xã, đức tánh từ bi mà tha thứ cho việc làm do vô minh của mình gây
ra. Do sự tin ấy, có một số người đi tới chỗ mù quáng như việc
thần thánh hóa tượng Phật và kiêng cử những việc vô ích như không
cho đàn bà, trẻ con đi qua trước tượng Phật, hoặc dùng vải che
khuất mặt bức tượng lại.
- Thờ Phật là do
lòng thành kính. Người Phật tử tin Phật không đặt ở sự cứu rỗi
tuyệt đối thì ý nghĩa của việc làm mới hợp tình hợp lý.
-
18.- Bình Bát Xử Dụng Vào Việc Gì ?
- Bình bát tiếng
Phạn là Bát-đa-la, tàu dịch là Ứng-lượng-khí, là cái bát để đựng
vừa lượng. Thức ăn của chư Tăng và ngay chính đức Phật Thích-Ca
cũng đã dùng bình bát mỗi khi đi khất thực.
- Cái bát ăn cơm
của nhà sư hình tròn có nắp đậy hẳn hoi, lớn bằng cái tô đựng canh
đủ chứa chừng 2 - 3 lon sữa bò gạo. Về phẩm chất, bình bát có thể
bằng đất sét nung, bằng gỗ, thau, chì, và có thể bằng đồng. Tuy
nhiên, chất đồng thau, nhôm, thiếc dễ nóng khi cho cơm vào thành
khó bưng lên tay lâu được, nhất là trước khi ăn cơm chư Tăng phải
bưng bát cơm lên ngang tới chân lông mày trước trán để cúng dường.
Loại bình bát phổ thông hơn cả là thứ bằng đất sét nung.
- Giới tăng sĩ
khất thực thường dùng cái bình bát có kích thước lớn hơn để thu
nhận đồ cúng nhiều chỗ đều dồn vào đó. Sau khi thức ăn đã đầy bình
các vị ấy trở về chùa, chia ra cho các bạn đồng liêu cùng nhau thọ
dụng của cúng dường để cầu cho người cúng được phước đức, kẻ nhận
vì muốn làm nên được việc đạo.
- Bình bát có thể
được lưu truyền lại đời đời cho các thế hệ kế tiếp để nối dòng
Phật Pháp gọi là truyền y bát. Người đệ tử nào được Bổn-Sư truyền
cho y bát thay thầy duy trì tông phái là mang cả sứ mạng lớn lao
trong công cuộc truyền pháp độ sanh. Người nhận y bát phải có đủ
nhân duyên, đã được thầy tín cẩn mới giao phó cho trọng trách. Tổ
Huệ-Năng nhận lãnh y bát từ tổ Hoằng-Nhẫn (tổ thứ 5) để truyền bá
phái thiền Lâm-Tế tại Trung-Quốc. Ngài Ca-Diếp mĩm cười khi thấy
Phật đưa hoa sen lên giữa đại chúng tại hội Linh-Sơn, do đó được
đắc truyền tâm pháp. Y bát hay tâm pháp hẳn cũng chỉ là một, nhưng
vì căn cơ và trình độ ngộ đạo có khác, cho nên chúng ta phân biệt
như thế cho người căn trí thấp thấu hiểu rõ chỗ rốt ráo của Phật
Pháp.
- Ngày nay, chư
Tăng ít dùng tới bình bát để ăn cơm, chỉ còn một vài nơi giữ được
hình thức cổ truyền nầy vào mùa an-cư kiết-hạ. Việc duy trì và bảo
vệ cái cổ là điều cần thiết, các vị tăng sĩ trẻ không thể không
nghĩ tới điều nầy.
-
19.- Chuông Trống Bát Nhã Có Công
Dụng Gì Trong Chùa ?
- Tại mỗi chùa
khi cử hành lễ, trước giờ khởi sự và sau khi chấm dứt cuộc lễ đều
có thỉnh chuông trống bát nhã.
- Chuông trống
bát nhã dùng để thỉnh Phật tổ và thỉnh chư Tăng cùng nhau hướng về
điện Phật để chứng minh cho buổi lễ sắp diễn ra được thanh tịnh
trang nghiêm.
- Bài kệ thỉnh
chuông trống bát nhã như sau :
- Thỉnh Phật
thượng đường
- Đại chúng đồng
văn
- Bát nhã âm
- Nhập bát nhã ba
la mật đa (đọc 3 lần)
- Nghĩa là :
- Thỉnh chư Phật
vào chánh điện,
- Xin tất cả quý
vị hiện diện lưu ý
- Âm vang của
chuông trống bát nhã sẽ hòa nhập theo cùng với trí tuệ sáng suốt
của chư Phật thành một thể tánh duy nhất.
- Thường thường
chuông trống bát nhã được cử lên ba hồi lúc bắt đầu cuộc lễ, nhưng
khi chấm dứt có thể chỉ thỉnh một hồi và cũng đọc bài kệ như trên.
Ngoài việc đón rước và đưa chư Tăng, chư Phật, Hộ Pháp.., việc
đánh chuông trống bát nhã còn tượng trưng cho ý nghĩa tinh thần
rất lớn là nhân tiếng chuông trống để mọi người có mặt trong giờ
sắp hành lễ đều chú tâm vào việc nhiếp tâm cầu nguyện.
- Thật vậy, khi
nghe tiếng chuông trống bát nhã gióng lên ai nấy trong chánh điện
đều đứng dậy chấp tay cầu nguyện, đồng thời tâm hồn người nghe
cũng cảm thấy như lắng lặng thanh thoát. Về lịch sử, chuông trống
bát nhã không do ai bày ra, nhưng Phật giáo các nước thuộc vùng
Đông-Nam-Á châu đều xử dụng trống cùng một mục đích và với một ý
nghĩa về tinh thần rất lớn lao vậy.
- Muốn cho cuộc
lễ được tươn tất và thành kính, chuông trống bát nhã không thể
thiếu được lúc bắt đầu và khi chấm dứt lễ.
-
20.- Mõ Hình Thức Và Ý Nghĩa
Như Thế Nào ?
- Mõ là Phật cụ
dùng trong việc tụng kinh để dẫn tiếng tụng đọc của nhiều người
hòa âm lên xuống cho được nhịp nhàng.
- Trong lúc tụng
kinh có người phụ trách việc gõ mõ gọi là duyệt chúng. Duyệt chúng
có nghĩa là làm cho mọi người có mặt đều được vui vẽ. Về hình
thức, mõ hình tròn đục phổng trong ruột, chỉ chừa một đường kẻ hở
độ 1 - 2 cm, làm bằng gỗ, mít, dâu ... phía trên mặt có chạm nổi
hình con cá mở to đôi mắt, khi gõ mõ, dùi mõ chạm ngay vào hình
con cá ấy. Tại sao lại chạm hình con cá vào trong mõ ? Loài cá lúc
ngũ cũng như khi thức đều mở mắt cả, tức là lúc nào cũng như vậy,
cũng như người tu hành phải luôn luôn tỉnh táo, không mê muội, u
ám để chú tâm vào việc nhiếp tâm an định trong tinh thần tỉnh
thức.
- Tiếng mõ lúc
đánh lên còn làm lấn át mọi sự xen tạp ngoài đời vào tâm trí người
đọc kinh trong giờ phút yên tỉnh trang nghiêm trước bàn thờ Phật.
Ngoài ra, người phụ trách thủ mõ còn phải rành để đưa được âm điệu
lên xuống điều hòa theo nhịp đọc kinh làm cho mọi người thơ thới
tâm tư nên gọi là "duyệt chúng" vậy.
- Mõ có hình thức
lớn nhỏ tùy theo vị trí của mỗi chùa. Tại tư gia cũng sử dụng mõ
vào việc tụng kinh, bái sám. Tiếng vang của mõ phải thanh thản,
nhẹ nhàng. Ở các ngôi chùa lớn phải chọn cái mõ cho cân xứng với
chuông để vừa với tầm nhìn cho được đẹp mắt.
- Chùa không thể
thiếu mõ được, vì đó là một vật cần thiết trong các buổi lễ trong
Phật giáo. Ngoài công dụng dẫn tiếng tụng kinh ra, mõ còn để nhắc
nhở người tu hành luôn luôn phải định tỉnh tâm thức.
-
21.- Người Phật Tử Nào Được Gọi Là
Bổn Đạo Trong Phật Giáo ?
- Bổn đạo khác
với đạo hữu, vì chỉ dùng giới hạn trong phạm vi của một ngôi chùa
nào đó, như bổn đạo chùa A, chùa B chẳng hạn, là người tin Phật -
Pháp - Tăng và hướng về với ánh sáng Phật-đà.
- Nghĩa nguyên
thỉ của danh từ thì không có gì để người khác ganh ghét, đố kỵ cả,
nhưng trong thực tế đã có một số Phật tử do thành kiến, cố chấp,
lòng nhỏ mọn đã đưa tới một vấn đề tranh chấp trầm trọng với nhau
giữa chùa nầy với chùa kia hay giữa thầy nầy với các thầy khác.
Tất cả đều do óc địa phương, bè phái và sự kỳ thị vô ích là nguyên
nhân chính làm cho đôi bên không phân biệt được phải trái, chánh
tà, do đó mới nảy sinh ra nhiều cuộc xung đột trầm trọng đáng
tiếc. Ở Việt-Nam năm 1964, có 2 Viện-Hóa-Đạo Ấn- Quang và Việt-Nam
Quốc-Tự cũng do mối bất bình vì sự hẹp hòi gây nên. Việc chia rẽ
trên không do người Phật tử bổn đạo thuần túy mà do chư Tăng tạo
ra. Trên danh nghĩa thì người bổn đạo nên lấy lòng từ bi đối xử
với tất cả mọi người, nhưng trong thực tế, những việc quá đáng gây
ra ngoài ý muốn như sự kình chống của người đệ tử 2 chùa và 2 thầy
khác nhau, đều khó mong tránh được.
- Chỉ khi nào
chúng ta biết cố gắng khắc phục mọi khó khăn để cùng ngồi lại với
nhau chung lo công việc Phật sự và mỗi người đều tâm niệm rằng đó
là việc chung thì mới tạo được niềm hòa khí, để vui vẻ bắt tay
thực hiện trong tinh thần hoan hỷ hầu xây dựng ngôi nhà Phật
giáo.
- Trong nội bộ có
sự chia rẽ cũng chứng tỏ rằng tác phong đạo đức và tư cách của
người học đạo từ bi và con đường giải thoát khó mong đạt tới
đích.
-
22.- Cúng Dường Để Cầu Nguyện Việc Gì
?
- Cúng dường là
dâng lễ vật cúng để tỏ lòng biết ơn chư Phật, chư Tăng, do lòng
thành của mình, mong rằng sự chí thành nầy sẽ đạt được như lời cầu
nguyện.
- Cúng dường gồm
có vật chất, cộng với thái độ của ta, tức là yếu tố tinh thần. Đồ
dâng cúng không cao quý bằng lòng thành thực hiến dâng. Những
người phát tâm cúng dường là hàng Phật tử có đạo tâm muốn gieo
trồng phước đức cho đời hiện tại và trong tương lai. Người nhận
của cúng là hàng tăng chúng đã sống trong tăng đoàn với tinh thần
hòa hợp. Việc cúng nầy thường được tổ chức vào dịp lễ Vu-Lan, rằm
tháng 7. Vì chư Tăng sau 3 tháng tịnh tu giới đức tinh nghiêm, nhờ
đó khiến cho người phát tâm cúng dường tăng thêm phước đức và lợi
ích. Thể thức cúng dường gồm 4 món đồ thường dùng gọi là tứ sự
cúng dường như : Y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược (quần áo, thức
ăn, đồ ngủ, thuốc men) để hồi hướng công đức lành về cho cha mẹ
hiện tiền được sống lâu và mạnh khỏe, cha mẹ trong nhiều đời được
siêu sanh vào cảnh giới an lành.
- Tăng sĩ nhận
vật cúng phải nhiếp tâm cầu nguyện và người đem của cúng tới dâng
không cầu mong gì hơn là mong cho cả đôi bên đều được phước lành,
lợi lạc.
-
23.- Nói Qua Hình Tướng Của Việc Bố
Thí Như Thế Nào ?
- Bố thí là ban
phát cho những gì mà ta nghĩ là có lợi cho kẻ khác. Trong nghĩa
của chữ cho nầy theo Phật giáo có hai khía cạnh : cho pháp và đồ
vật.
- Bố thí là một
páp tu thuộc hạnh Bồ-Tát trong 6 độ như : Bố-thí, Trì-giới,
Nhẫn-nhục, Tinh-tấn, Thiền-định, và Trí-tuệ. Đem pháp lành hay đồ
vật ban cho kẻ khác để trừ được lòng tham. Một khi lòng tham đã
dứt thì mọi tánh tốt đều thể hiện. Việc bố thí có rất nhiều hình
thức khác nhau : Bố thí vật chất như tiền bạc, thuốc men, cơm áo
cho người nghèo khổ ; còn bố thí tinh thần là dùng lời êm nhẹ đẹp
đẽ khuyên răn mọi người tu theo pháp lành để giúp họ cùng nhau
thực hành pháp giải thoát sự khổ để được an vui. Ví như nhà tu là
kẻ đem pháp giải thoát ra bố thí cho mọi người, còn người Phật tử
là người bố thí vật như áo quần, thức ăn, thức uống ... Bố thí có
hai ý nghĩa : Bố thí bất vụ lợi và bố thí vụ lợi. Bố thí mà không
mong kẻ nhận đền ơn trả nghĩa, nhưng tự nghĩ rằng đó là bổn phận
phải làm ; còn bố thí mà chỉ mong có lợi cho mình và muốn được đền
ơn xứng đáng, nhưng một khi sự mong mỏi không thành lại đâm ra
chán nản, kém vui, như thế gọi là việc đem cho có hàm ý còn vụ
lợi.
- Phần nhiều ở
đời mọi người muốn giúp ai một việc từ nhỏ tới lớn đều có ý tưởng
mong cho họ giúp trở lại, đó là người làm việc chỉ mới thực hiện
trong sự tướng của việc bố thí mà thôi.
- Khi nào ta thực
hành theo hạnh Bồ-Tát thì việc ban cho kẻ khác mới không còn trụ
vào hình thức, là đã thể hiện cách cho đúng theo pháp không vụ
lợi.
-
24.- Trong Phật Giáo Có Chẩn Tế Cô
Hồn Và Thí Thực Cô Hồn Sự Khác Biệt Nhau Như Thế Nào ?
- Chẩn tế cô hồn
là lập đàn cúng chay thật trọng thể để cầu nguyện những vong hồn
chết oan được siêu độ. Thời gian lập đàn chay một tuần hoặc 3
ngày, thường thường vào dịp rằm tháng 7, lễ Vu Lan, nên cũng gọi
mùa chay hội.
- Lễ chẩn tế có
ít nhất ba tăng sĩ giới đức ngồi đàn. Người chủ đàn phải lớn tuổi,
có tu hành đạo hạnh nghiêm chỉnh mới lãnh trọng trách được. Cô hồn
thường hay hung dữ, phá phách, nếu người thiếu đạo đức đứng vai
chủ lễ, chẳng những không thuyết phục được những hồn bị sa đọa,
trái lại còn bị cô hồn làm hại nữa là khác. Ở trong thôn xóm có
những bóng ma hay quỉ dữ thường hiện về ban đêm để khuấy phá dân
làng, do đó dân chúng hay lập đàn cúng cầu siêu độ. Tại Việt-Nam
có tục lệ chẩn tế cô hồn vào tiết Trung-Nguyên, mà Phật giáo gọi
là ngày xá tội vong nhân. Địa điểm thường ở những nơi có nhiều
người bị chết oan như tai nạn, do tự tử hoặc tại các nhà thương.
Lễ chẩn tế vì thế rất tốn kém, trong khi đó thì thí thực cô hồn
không cần tổ chức linh đình. Chẩn tế xảy ra bất thường và thí thực
cô hồn là việc làm hàng ngày của mỗi chùa, chỉ cần cháo lỏng và
nước trong là đủ.
- Tuy cả hai việc
làm đều cùng chung mục đích để cầu siêu thoát các oan hồn, nhưng
chẩn tế có hàm ý nói rằng nhiều người chết tập thể, linh hồn có
tầm hoạt động mãnh liệt hơn, khiến cho dân chúng phải lo sợ.
- Trong bài :
Chiêu hồn thập loại chúng sinh của Nguyễn-Du có đoạn tả như sau :
- "Trong trường
dạ tối tăm trời đất,
- Có khôn thiêng
phảng phất u minh.
- Thương thay
thập loại chúng sinh,
- Hồn đơn, phách
chiếc lênh đênh quê người.
- Hương khói đã
không nơi nương tựa,
- Hồn mồ côi lần
lửa đêm đen.
- Còn đâu ai khá,
ai hèn,
- Còn chi mà nói
ai hiền, ai ngu..."
- Vào dịp các lễ
chẩn tế cô hồn tổ chức lớn lao, thường có lễ rước vong hồn. Hình
thức nầy có lẽ đã pha trộn với đạo phù thủy, và trở thành tập tục
trong Phật giáo. Cuộc rước diễn ra như : Có một hai hay ba chiếc
ghe và một thiền sư đứng tụng các bài thần chú, tay bắt ấn để phá
10 cửa ngục cho các oan hồn ra khỏi.
- Việc làm có đạt
được kết quả hay không chưa ai chứng minh được cả, và nó chỉ có
trong thời buổi chiến tranh, dân chúng lầm than, khổ sở.
-
25.- Trí Tự Là Gì ?
- Phần nhiều ở
những ngôi chùa lớn đều có tài sản như đất ruộng, nhà cửa, trường
trại ... Những của cải vật chất ấy một phần đều do của trí tự mà
ra. Trí tự nghĩa là gì ?
- Trí tự là để
(cúng hiến) vào cho chùa những tài vật, cầu phước đức cho con cháu
mai sau. Người giàu có thường phát nguyện cúng cho chùa những bất
động sản để chùa thu lợi chi cấp vào việc nuôi dưỡng tăng chúng.
Có những trường hợp người sắp chết nhóm họp con cháu lại dặn dò
lời cuối cùng như để mẫu đất A hay ngôi vườn B cúng cho chùa mà
lúc còn sanh tiền người ấy thường lui tới. Tài sản đã cúng vào
chùa rồi, con cháu không có quyền lấy lại, dù dưới bất cứ hình
thức nào. Việc trí tự trước đây rất được nhiều tín đồ Phật giáo áp
dụng tại Việt-Nam, nhưng ngày nay đã trở thành xa lại đối với lớp
người trẻ, có lẽ chúng ta đang sống trong xã hội đầy đủ văn minh
vật chất, ai cũng phải ra sức làm việc mới có sống, hình như ít
người nghĩ tới việc tạo phước đức nầy. Ngoài ra, ở những ngôi chùa
mới hiện tại, việc lui tới lễ bái của hàng Phật tử cũng không đông
đảo lắm, vì một phần bị ảnh hưởng bởi cuộc sống vật lộn bon chen ở
ngoài xã hội gây nên. Người Phật tử khi đã biết việc phước thiện
là thế nào rồi thì nên chú tâm làm phước và tu huệ.
- Ở những ngôi
chùa tại Việt-Nam xưa như Quán-Sứ (Hà-Nội), chùa Linh-Mụ (Huế),
Non-Nước (Đà-Nẵng), Chúc-Thánh (Hội-An), Thập-Tháp (Bình-Định),
Hải-Đức (Nha-Trang), Giác-Lâm (Gia-Định), Vĩnh-Tràng (Mỹ-Tho)
v.v... đều là những nơi có đất ruộng để cho người canh tác. Khi
đến mùa thu hoạch chùa thu về được một số lợi tức khá lớn. Số
ruộng đất đó một phần lớn đều do của trí tự và một phần do chùa bỏ
tiền ra mua làm kinh tế tự túc.
- Trí tự là một
hình thức tu phước đối với người Phật tử biết đầu tư của cải cho
các thế hệ con cháu mai sau, bằng cách hy sinh một phần tài sản
hiện tại đem hiến vào chùa, và của ấy khó lấy ra nhưng rất chắc
chắn, an toàn.
-
26.- Trụ Trì, Tọa Chủ, Viện Chủ Khác
Nhau Thế Nào ?
- Một số các danh
từ trong Phật giáo có nghĩa gần giống nhau như dưới đây :
- Trụ-trì là một
tăng sĩ coi sóc, điều hành một ngôi chùa với một số tín đồ để duy
trì và phát triển Phật giáo. Tọa-chủ là người là chủ chốt của một
ngôi chùa. Viện-chủ là vị trông coi tổng quát một cơ sở Phật giáo.
Nói chung cả 3 cách gọi đều chỉ chung cho vị lãnh đạo tinh thần
nắm quyền đầu não của một trung tâm Phật giáo. Tuy nhiên chữ
Trụ-trì và Tọa-chủ đã được sử dụng lâu và thành thói quen để chỉ
các vị sư lớn tuổi chủ của ngôi tự viện, còn trường hợp chữ
Viện-chủ mới có sau nầy, nhằm chỉ cho hàng tăng sĩ trẻ tuổi lãnh
trách nhiệm duy trì phát triển trung tâm Phật giáo nơi vị ấy cư
trụ. Chữ Viện còn hàm cái nghĩa lớn hơn chùa và có lối kiến trúc
hiện đại, không theo lối cổ điển. Trụ có nghĩa là trụ Như-Lai sứ,
và trì là trì Như-Lai sự, tức là người lãnh trọng trách thay đức
Phật để giữ gìn và phát huy đạo pháp. Danh từ Như-Lai sứ giả (sứ
giả của đức Như-Lai) cũng cùng trong ý nghĩa nầy vậy. Viện-chủ,
ngoài việc trông coi ngôi chùa ra, vị ấy còn có khả năng lập thêm
các cô ký-nhi-viện hay trường tiểu-học Bồ-Đề ở trong phạm vi của
mình đảm trách. Chính vị Viện-chủ đồng thời cũng là giám đốc của
các cơ sở phụ thuộc nầy. Trong một vài trường hợp chùa không có đủ
những điều kiện như trên, nhưng thầy cả là người hoạt động đắc
lực, đã được nhiều người biết qua tên tuổi, vị ấy cũng được tôn
xưng là Viện-chủ.
- Nói khác hơn,
người giữ vai trò lãnh đạo tinh thần, duy trì và phát triển nguồn
mạch của đạo Phật một cách đắc lực, được tôn kính là sứ giả của
đức Phật mang lại tinh thần hòa bình nhập thế cho nhân quần xã
hội.
-
27.- Cúng Ngọ Và Ngọ Trai Khác Nhau
Thế Nào ?
- Các tự viện có
đông tăng chúng ở tu học, mỗi ngày có bốn khóa lễ, mà cúng ngọ là
một trong các thời tụng kể trên.
- Tại sao phải
cúng ngọ ?
- Cúng để tưởng
nhớ tới Phật, vì khi còn tại thế Phật chỉ thọ mỗi ngày có một bửa
trưa vào đúng giờ ngọ. Trong khi đó giờ ăn của chư Thiên vào buổi
sáng và giờ ăn của loài quỷ đói và buổi tối.
- Cúng ngọ là
dâng cơm lên bàn cúng Phật vào đúng 12 giờ trưa, còn ngọ trai là
bửa ăn của chư Tăng cũng vào giờ ngọ, nhưng sau khi khóa lễ cúng
Phật xong. Trước giờ ngọ trai chư Tăng tập họp ở Tổ đường với y áo
chỉnh tề và bắt đầu bằng một nghi thức ngắn trước khi dùng cơm.
Vào bàn ăn, mỗi người cùng đọc bài "cúng dường thanh tịnh pháp
thân". Mọi người tay mặt bắt ấn Cam-Lồ, tay trái bưng chén cơm đưa
lên ngang trán, vừa với tầm chân lông mày. Sau khi đọc kinh xong
độ 15 phút, ai nấy bắt đều ăn trong sự chí tâm cầu nguyện bằng 3
"miếng và" nhỏ gọi là tam đề (3 muổng), sau đó nâng chén trong
lòng 2 tay để tưởng tới 5 phép quán (*) để mong cho nơi nơi chốn
chốn an lạc, thái bình và tự nghĩ rằng hột cơm có ra là do mồ hôi
nước mắt của nhiều người phải lao động vất vả.
- Cúng ngọ và thọ
trai là 2 công việc khác nhau nhưng cùng diễn ra trong giờ ngọ.
Hình thức nầy chỉ có ở các chùa có tăng chúng đang tu học mà
thôi.
-
* Xem bài Ngũ Quán.
-
28.- Mỗi Ngày Có Mấy Thời Công Phu Ở
Chùa ?
- Công phu hay
nói cho đủ là công phu bái sám là một hình thức tu hành theo pháp
môn Tịnh-độ bằng cách tụng kinh, lạy Phật mỗi ngày trong các tự
viện Phật giáo.
- Có 2 thời công
phu căn bản cho các chùa là công phu buổi sáng và công phu buổi
chiều. Thời công phu hay tụng kinh buổi sáng vào lúc 5 giờ, gồm
các bài kinh : 5 đệ Lăng-Nghiêm, 1 bài chúc tán Phật Thích-Ca, 10
bài thần chú như : Đại-Bi, Như-Ý Bảo-Luân- Vương, Tiêu-Tai
Cát-Tường, Công-Đức Bảo-Sơn Thần-Chú, Chuẩn-Đề, Dược-Sư Quán-Đãnh
Chân-Ngôn, Quán-Âm Linh-Cảm, Thất-Phật Diệt-Tội Chơn-Ngôn,
Vãng-Sanh Tịnh-Độ, Đại-Cát-Tường Thiên-Nữ. Sau đó tới bài kinh
Bát-Nhã, đảnh lễ Chư Phật, 1 bài sám như : "Quy mạng thập phương"
hoặc,"Thập Nguyện Phổ-Hiền" và tụng Tự-Quy-Y, Hồi-Hướng. Thời khóa
tụng buổi chiều gồm các kinh như A-Di-Đà Kinh, thần chú Vãng-Sanh
Tịnh-Độ, 108 danh hiệu chư Phật, Thí-thực Cô-hồn, Tâm Kinh
Bát-Nhã, niệm Phật, Hồi-Hướng và sau cùng đọc ba quy y. Hai buổi
công phu còn gọi là nhị thời khóa tụng. Đây là một sự tổng hợp
giữa Thiền-tông, Tịnh-độ-tông và Chơn-ngôn Mật-giáo. Có nhiều chùa
tăng chúng phải lễ sám 6 lần trong một ngày gọi là lục thời nghi.
Theo sách "Tam Tổ Thực Lục" thì tự viện của Thiền-sư Pháp-Loa áp
dụng nghi thức 6 thời khóa tụng một ngày. Tuy nhiên, 2 thời khóa
lễ mỗi ngày đã được hầu hết các chùa ở Việt-Nam hành trì. Do đâu
có sự tổng hợp giữa 3 tông phái để trở thành nghi thức tụng niệm ?
Sau các thời kỳ thịnh đạt vào các đời Đinh - Lê - Lý và đến đời
nhà Trần, Phật giáo dần dần mất thế đứng. Vào cuối đời nhà Trần,
Phật giáo phái Thiền được đồng hóa với Mật-giáo và Tịnh-độ-tông.
Do đó, việc trì tụng thần chú thuộc Mật-giáo, niệm Phật là của
tông Tịnh-độ và chí tâm chuyên nhất thuộc về Thiền-tông.
- Tụng niệm là
một công tác thường nhật tại mỗi chùa để chúng tăng chuyên tâm vào
việc tu tập, nhờ đó phát chiếu được trí tuệ.
-
29.- Cho Biết Mộc Dục Là Gì ? Việc
Nầy Có Ảnh Hưởng Ra Sao ?
- Mộc dục là tắm
gội hay rửa sạch những bụi bặm bám víu vào để vật trở nên trong
sáng, sạch sẽ.
- Trong Phật giáo
lễ mộc dục rất quan trọng. Đây là nghi thức tắm Phật trước ngày lễ
Phật-Đản-Sanh hay vào các lễ vía quan trọng khác. Lễ tắm Phật
thường bằng một thứ nước bông hoa thơm sạch. Chữ mộc dục còn có
nghĩa là gội nhuần hay thấm cho ướt. Theo như truyền thuyết cho
rằng có người tin tưởng vào sự thiêng liêng nhiệm mầu đã dùng nước
tắm Phật uống để trị bịnh nan y. Việc làm nầy, ngày nay ta thấy
trái với khoa học, vì mất tính cách vệ sinh và thiếu tính cách tự
nhiên. Một thứ nước dơ do bụi bặm bám víu vào lâu ngày đã đóng
thành hạt mà lại có được công năng diệu kỳ đến như thế ?
- Nhưng ở đời, việc gì xưa tin thì
nay cũng cho là đúng với sự thật. Còn hiệu quả có ra sao thì lại
là một việc khác. Đó là một việc làm sai lệch và tin tưởng một
cách mù quáng thật tai hại vô cùng.
- Về khía cạnh
tinh thần thật khó giải thích thỏa mãn mọi người được, vì hẳn có
đôi trường hợp đã có sự linh diệu nào chăng ? Có một điều chúng ta
nhận thấy là lễ tắm Phật vẫn còn được các chùa duy trì vào các dịp
lễ vía Phật trong năm.
- Tắm Phật cũng
còn có nghĩa là chúng ta tự tay rửa phiền não tự thân tâm và mong
cho hình tượng Phật cũng sạch như lòng để tìm thấy bản tâm thanh
tịnh của mình.
-
30.- Thí Thực Cô Hồn Là Thế Nào ?
- Thí thực cô hồn
là cúng cháo lỏng cho các hồn ma đã chết không có ai săn sóc hương
khói, chưa đi đầu thai được, nên còn vất vưởng ở lại thế gian để
quấy phá người sống, nếu không ai cúng.
- Thí thực cô hồn
diễn ra ở các ngôi chùa vào buổi chùa sau thời công phu. Thường
trước cửa chùa có thờ bàn cô hồn để cúng kẻ chết oan nhờ vào nơi
hương khói và thức cúng mà được ấm lòng. Cúng thí thực cô hồn
không cần gì nhiều, ngoài một chén cháo lõng và ly nước trong là
đủ.
- Sau đây là một
đoạn trích trong bài văn tế thập giới cô hồn của tác giả khuyết
danh mà có người cho là của Lê-Thánh-Tôn, qua các câu :
- "Riêng xét vậy
: Ngựa cửa sổ, kiến đầu cành,
- Xem ngày tháng
dễ qua thoăn thoắt,
- Bọt ghềnh sông
vờ mặt nước,
- Tựa thân thời
kíp biến mờ mờ,
- Cổ tới nhẫn
kim, sinh thời có hóa.
- Ấy vậy, hồn là
thần, phách là quỷ,
- No nên Bụt, đói
nên ma.
- Khó miễn song
mặc há khác nhau,
- Đói cùng rách
lòng thời cũng vậy..."
- và bài văn tế
Thập-Loại Chúng-Sanh của Nguyễn-Du trong phần mở đầu như sau :
- "Tiết tháng bảy
mưa dầm sùi sụt,
- Toát hơi mây
lạnh buốt xương khô.
- Não người thấy
buổi chiều thu,
- Ngàn lau nhuốn
bạc, lá ngô rụng vàng.
- Đường bạch
dương bóng chiều man mác,
- Díp đường lê
lác đác sương sa.
- Lòng nào lòng
chẳng thiết tha,
- Cõi dương còn
thế, nữa là cõi âm..."
- Đó là những bài
văn tế cô hồn rất nổi tiếng từ trước đến nay. Trong thời chiến
tranh cơ khí, ta ít thấy bóng dáng cô hồn, nhưng việc cúng bái vẫn
còn được duy trì liên tục.
-
31.- Lãnh Chúng Là Ai ?
- Lãnh chúng là
coi sóc chúng tăng đang tu học ở trong một tu viện hay tại một
Phật-học-viện về mọi sinh hoạt hàng ngày như công tác tu học.
- Việc lãnh trách
nhiệm đôn đốc chư tăng nầy ngoài ban giám đốc ra, còn có một ban
lãnh chúng mà thành phần như sau : Một liên chúng trưởng, trông
coi tổng quát toàn viện nơi chúng tăng ở tu học. Một phó liên
chúng trưởng, phụ giúp liên chúng trưởng trông việc sắp xếp công
việc, phân công trong chùa cho hợp lý. Một tổng thư ký phụ trách
việc sổ sách và các chúng trưởng. Mỗi chúng độ 10 tăng sinh và bầu
ra một chúng trưởng. Đây là việc phân công hợp lý để cùng nhau
nhắc nhở việc tu học cho chư tăng trong viện Phật học có đông
người. Những việc mà các trưởng chúng phải làm như phân công tác
về gánh nước bửa củi, đi chợ, nấu ăn, tiếp khách, làm vườn, tưới
hoa, trồng cây, hương đèn bàn Phật, và việc chi thu của chùa. Về
phần tu học, ban lãnh chúng đôn đốc việc tu thiền, việc tụng niệm
công phu, giờ học. Ngoài ra, ban nầy còn thay ban giám đốc giải
quyết mọi việc tranh chấp nhỏ trong chúng. Như vậy, vai trò của
ban lãnh chúng không nhỏ cho việc điều hành đều đặn việc chư tăng
trong viện.
- Trong chúng
được yên vui hòa nhã để tu hành cũng làm cho ban giám đốc rãnh thì
giờ lo nhiều việc khác. Những người xuất gia từ các nơi đỗ về tu
viện, họ vốn không bà con thân thiện gì với nhau, nhưng từ khi
bước vào ngôi chùa, lại trở nên thương yêu nhau hơn tình anh em
trong cùng một nhà.
- Tinh thần hòa
nhã có được ở các chùa là nhờ chúng tăng biết giữ đúng theo 6 pháp
hòa kính trong Phật giáo.
-
32.- Vận Thủy Có Phải Là Bộ Thủy Cục
Không ? Dùng Trong Trường Hợp Nào Và Ở Đâu ?
- Ngày xưa trong
những ngôi chùa phần nhiều đều không có hệ thống dẫn nước như bây
giờ. Mỗi ngày chư tăng phân phiên nhau đi lấy nước về để dùng
trong việc ăn uống. Phụ trách việc nầy là vai trò của ban vận
thủy.
- Vận thủy là
chuyên chở nước hay mang, gánh nước từ xa lại cung cấp cho chùa. Ở
các ngôi chùa trên núi, nước là một vấn đề khó giải quyết, tăng
sinh phải xuống tận dưới đất liền lấy nước đem về chùa xài trong
giờ công tác vào buổi sáng. Việc chuyên chở nước vì thế, chỉ có
trong phạm vi của một tự viện, trong khi đó thủy cục là chỉ chung
cho cả một hệ thống chuyên chở nước của cơ quan nhà nước cung cấp
cho mọi gia đình. Tuy cả hai danh từ đều có liên hệ tới việc
chuyển nước, nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Chùa có đông tăng
chúng thường chia ra thành nhiều ban để lo mọi việc như nấu nướng,
củi than, nước uống ... Mỗi ban phải lo tròn bổn phận của mình
trong một ngày để phục vụ đại chúng.
- Ban lấy nước
quan trọng hơn cả. Đây là một việc nặng nề, cần đòi hỏi nơi những
người có sức lực khỏe mạnh mới đủ khả năng đem nước lại đủ cho
toàn viện dùng suốt trong ngày. Việc xây hồ lộ thiên (Xitặc) trên
núi để chứa nước mưa là điều hiển nhiên như ta thường thấy nới các
ngôi chùa cổ tại miền Trung và một vài nơi ở miền Nam.
- Khi nào hệ thống dẫn nước đầy đủ,
mới tránh được nạn chuyên chở khó khăn do sức người, như đã từng
xảy ra trong các chùa ở xa thành phố và ở trên núi đồi hẽo lánh.
- Nước là một nhu cầu cần thiết
không thể thiếu được, cũng như thức ăn, nên chùa tìm ra nhiều cách
để ngăn chặn không cho nạn khan hiếm nước xảy ra, nhất là chùa có
đông tăng chúng.
-
33.- Ban Sài Là Gì ?
- Ban sài, tiếng
mới nghe qua ta lấy làm khó hiểu, vì ngày nay hầu như không ai còn
dùng tới nữa.
- Ở các ngôi chùa
lớn ngày xưa, nhứt là chùa trên núi hay ở miền quê làm gì có hệ
thống bếp gas, lò điện như ngày nay. Do đó, chùa thường đun bếp
bằng củi và chư Tăng phải lặn lội vào trong núi sâu để đẵn cây,
cưa ra từng đoạn ngắn phơi khô, rồi chở về chất lại thành đống để
dùng vào việc nấu nướng. Ban sài chính là người giữ vai trò bửa
củi vậy. Bửa củi, đốn cây làm chất đốt trong việc cơm nước chỉ có
tại các chùa thuộc về xã hội nông nghiệp kém mở mang. Hầu hết các
chùa hoặc nhà xa thành phố đều phải vất vả trong vấn đề nhiên liệu
bằng chân tay nầy. Việc bửa củi vì thế cần người có sức khỏe cho
thật lực lưỡng mới kham nổi được việc.
- Ban phụ trách việc củi than cho
chùa tối thiểu phải từ 3 người trở lên mới lo chu toàn được công
việc.
- Ở trong các xã
hội văn minh, khi nghe nói tới việc bửa củi, gánh nước người ta
lấy làm khó hiểu, nhưng đó lại là một công việc thật. Chính tác
giả khi còn là một chú tiểu cũng đã từng giữ các vai trò như gánh
nước, bửa củi, đi chợ, nấu ăn khi xưa tu ở chùa trên núi Non-Nước.
Sau nầy vào Nam, việc làm quen thuộc nầy vẫn còn được tái diễn như
ăn cơm bửa.
- Đây là cái thú
vui mà các thiền sư thường lấy đó làm đề tài trong việc khai tâm
cho người đệ tử.
- Theo thiển
nghĩ, ngày nay ngôi chùa còn giữ cho tăng chúng làm việc bửa củi
là thể hiện đúng theo tinh thần của Phật giáo cổ truyền vậy.
-
34.- Có Thể Giải Thích Rõ Trị Nhật
Hay Trực Nhựt Là Gì ?
- Ở một tự viện
quá đông chư Tăng cư trú, việc cơm nước không thể giao cho một vài
người lo liệu được, do đó chư Tăng phải cắt đặt người phụ lực vào
việc nấu ăn, là vai trò của trị nhật.
- Trị có nghĩa là
điều khiển, trông coi chu đáo, nhật là ngày, tức là trong một
ngày, những viên có bổn phận làm việc bếp nước phải làm cho đầy đủ
để phục vụ cho đại chúng. Còn chữ trực có nghĩa là thường xuyên có
mặt suốt trong một ngày để lo việc cơm cháo cho chư Tăng trong tự
viện. Ban-trị-nhật, ngoài việc làm phận sự hỏa đầu quân ra, còn
phải đi chợ mua sắm các thứ cần thiết để cung cấp đủ cho một ngày.
Trường hợp gặp phải những ngày bận học, ban phụ trách cơm nước
trong ngày phải lo sắp đặt trước như nhờ người khác phụ giúp thế
vai trò cho họ. Trị nhật có bổn phận phải lo đầy đủ các bửa ăn cơm
trong ngày như việc đúng giờ và khéo tay cũng là điều kiện cần
thiết để làm đẹp lòng đại chúng. Sau khi nấu nướng các thức ăn
xong, đồ ăn phải được cho vào bát đĩa, sắp ra ngay hàng và chờ cho
đúng giờ, ban-trị-nhật có phận sự báo hiệu bằng 3 tiếng bảng để
cho ban hành đường (dọn cơm) đến bưng sắp đồ ăn ra bàn. Ngoài việc
nấu nướng ra, ban-trị-nhật còn phải dọn dẹp, rửa ráy sạch sẽ nồi
chảo chén bát sau bửa ăn. Khi đâu vào đó xong, ban-trị-nhật mới xử
dụng thì giờ còn lại trong ngày cho sinh hoạt cá nhân. Đây là một
việc làm luân phiên có tính cách công bằng và hợp lý.
- Những tăng sinh
xuất gia buổi đầu phải nhờ những người đi trước có kinh nghiệm
hướng dẫn cho công việc trị nhật. Tăng sinh nào ở trong các tự
viện đông người ra mà không biết nấu ăn, cũng chứng tỏ chưa thấm
nhuần được tương chao của tu viện.
- Nhờ được huấn
luyện như kiểu quân sự, các tăng sĩ trẻ phần nhiều không còn cảm
thấy ngỡ ngàng hay vụng về trong việc bếp núc nữa.
-
35.- Hãy Giải Thích Tri Viên ?
- Những ngôi chùa
có đất rộng, nhất là sân vườn chùa dùng vào việc trồng cây kiểng
để làm tăng thêm vẽ đẹp cho cảnh trí chốn thiền môn.
- Tri-viên là
người coi sóc vườn cây và hoa cảnh của chùa. Ở các ngôi chùa cổ
hay tại các thiền viện, thường trước sân có trồng nhiều loại hoa
đủ mầu sắc hay các loại cây cảnh như cau, dừa, trúc, ngọc lan ...
Việc săn sóc cây như nhổ cỏ, bón phân, bắt sâu, tỉa lá cho hoa
kiểng xanh tươi là nhiệm vụ của người trông coi vườn chùa vậy.
Người được cắt đặt phụ trách việc nầy phải biết rành về lối sinh
trưởng của từng loại cây, cũng như phải khéo tay trong việc cắt
tỉa, tưới bón để cho cây đâm chồi, kết hoa đúng theo thời tiết
trong năm.
- Khách viếng
chùa, đầu tiên là ngắm cảnh trí toàn diện mà vườn hoa lại đập vào
nhãn quang trước nhất. Ngôi chùa có vườn hoa đẹp, cũng có nghĩa là
nếp sống đạo hạnh của tăng chúng nơi tự viện cũng được đàng hoàng.
Vì thế, khách chỉ cần nhìn thoáng qua cách chơi hoa kiểng là có
thể đoán được phần nào cách tổ chức bên trong của một ngôi chùa.
Vườn hoa còn là trợ duyên cho các thiền sinh trong việc tu tập
thiền định. Ngoài giờ tham thiền ra, hành giả có thể đi dạo quanh
vườn để vừa niệm Phật, vừa quán tưởng lý vô thường như những cành
hoa rơi trước cơn gió thoảng và cuộc đời cũng chỉ tồn tại trong
mấy chốc rồi tàn dần theo tuổi tác với thời gian.
- Tri-viên là một
công việc tuy đơn giản, nhưng phải cần đòi hỏi người có đầu óc
biết tổ chức, nhiều thiện chí và khéo tay mới đảm trách được công
việc có tính cách nghệ thuật hòa hợp giữa lý - tình - cảnh nầy.
-
36.- Tri Liêu Phụ Trách Công Việc Gì
?
- Mỗi một ngôi
chùa có một số những công việc được chia ra cho mỗi người phụ
trách một phần. Tri-liêu cũng cùng trong ý nghĩa đó. Vậy Tri-liêu
là gì ?
- Tri-liêu là
người phụ trách việc chi thu hàng ngày như việc chợ, gạo thóc của
chùa. Chữ liêu vốn có nghĩa là nhà chứa đồ lặt vặt đặt ở kế bếp.
Như vậy tri liêu là người lo về thủ quỷ, nhất là việc hết còn cho
ngân khoản của chùa để báo cáo cho thầy trụ trì hay thầy giám đốc
biết. Nhiều ngôi chùa lớn, người giữ việc biên chép sổ sách tài
chánh, làm việc do thầy tri sự chỉ định (người coi sóc tổng quát
việc chùa). Người tính toán với kế hoạch khéo làm cho tăng chúng
trong chùa hoan hỷ, nhất là trong các bửa cơm hàng ngày, phải được
thay đổi do người phụ việc bếp núc một phần, nhưng còn phải tùy
thuộc vào vật liệu nữa, để được đầy đủ dinh dưỡng. Ngoài ra, liêu
cũng còn có nghĩa là cái phòng nhỏ dùng cho một người ở, gồm có
sách vở và vật dụng cần thiết khác. Danh từ tri liêu không mấy
thông dụng. Ngày nay ta có thể gọi bằng mấy tiếng đồng nghĩa như
quản lý, thủ quỷ, tài chánh ... đều chỉ người lo việc chi, thu.
Còn một số mấy từ ngữ thường dùng khác như đồng liêu, để chỉ người
cùng làm một nơi hay học chung trường, trà liêu chỉ nơi các bạn
bè, thân hữu hay lui tới để uống trà và mạn đàm, khách liêu là
phòng dùng để tiếp đó khách.
- Những tên gọi
thuộc về sự tướng mà chùa xưa thường hay dùng, nếu không phải là
người đã từng kinh nghiệm trong thiền môn thì ít có người biết
rành được.
- Sách vở Phật
giáo cũng không ghi chép về các sinh hoạt chùa rành mạch, người
tín đồ nhiều lúc tới chùa như đi vào trong khu rừng mờ mịt qua một
lô danh từ tiếng Hán.
-
37.- Hành Đường Là Thế Nào ?
- Ở những ngôi
chùa lớn hay tại các Phật-học-đường có đông chư Tăng cư trú mới có
sự luân phiên trong việc hành đường.
- Hành đường là
làm việc dọn cơm, pha nước trong bửa ăn cho chư tăng, từ lúc bắt
đầu cho tới lúc mãn giờ ăn. Khi tới giờ cơm ban hành đường vào
ngay trong nhà bếp bưng cơm canh ra sắp đặt trên bàn ăn tại trai
đường, đâu đó xong xuôi rồi mới cử một hồi và cử ba tiếng kiểng để
tập trung chúng tăng lại. Trong tự viện, trừ vị Thượng-Tọa và các
vị Tỳ-kheo lớn tuổi ra, tăng chúng ai cũng phải làm việc phân công
đều đặn liên tục và kéo dài. Trong trường hợp của một tu viện có
50 tăng sinh đang tu học thì việc hành đường chia thành bốn hoặc
năm ban. Mỗi ban ba hay bốn người tùy theo sự sắp xếp trong chư
Tăng. Ban hành đường làm việc trong suốt một ngày trong các bửa
cơm. Công việc nầy được tiếp tục luân phiên mãi như thế. Sau khi
nghe kiểng báo hiệu, tăng chúng y áo chỉnh tề hướng về phía nhà
tổ, nơi có trai đường, để dùng cơm. Trong lúc chư Tăng ăn cơm, ban
hành đường có bổn phận phải coi xem việc thiếu đủ ra sao để tiếp
tế thêm thức ăn tới hay mang bớt chỗ thừa tới bàn đang cần cơm,
canh, tương, rau ... Sau khi mọi người đã dùng bửa xong, ban hành
đường phải đến từng người để pha nước. Tiếp đó lo dọn dẹp chén
bát, trong lúc chư Tăng tụng kinh hồi hướng. Hành đường cũng còn
có nghĩa là đi chung quanh phòng ăn của chúng tăng để coi sóc và
dọn dẹp cho gọn gàng và chu đáo. Ban hành đường luôn luôn phải ăn
sau giờ ăn của đại chúng.
- Việc luân phiên
nhau dọn cơm cho chư Tăng trong tự viện ngoài tinh thần bình đẳng
ra, còn giữ gìn các oai nghi trong bửa ăn được thanh tịnh trang
nghiêm.
-
38.- Tri Khố Có Nghĩa LÀ Gì ?
- Chùa có đất
ruộng nên tới mùa lại thâu hoa lợi về chứa vào kho, nhất là kho
dùng để dựng lúa, bắp, đậu v.v... Người chịu trách nhiệm trông coi
việc xuất nhập nầy gọi là Tri-khố.
- Những ngôi chùa
lớn có từ 5 đến 10 mẫu ruộng thường cho người khác canh tác, tới
mùa thu hoạch hoa mầu về chứa vào kho để chi dụng hàng ngày trong
tự viện. Muốn cho việc hết còn được phân minh chùa phải cắt đặt
sẵn một người trông coi về việc nầy. Người ấy có bổn phận báo cáo
cho thầy trụ trì biết rõ sổ sách việc xuất kho, tồn kho để dự tính
ngân sách sắp tới. Người biết tính toán sổ sách và rành về tiền
bạc có thể phụ trách việc nầy. Ngoài ra, Tri-khố còn là người giữ
tài chánh cho chùa nữa. Như mỗi ngày phải chi bao nhiêu và trong
một tháng số tiền chi, thu phải được ghi vào sổ sách rành mạch để
dễ dàng quyết định được khả năng kinh tế cho chùa. Trong trường
hợp, có những việc bất thường trong tự viện như việc tu bổ phòng
xá, đám tiệc cũng do viên Tri-khố biết tính toán khéo là mọi việc
có thể chạy đều.
- Tri-khố ngoài
việc giữ sổ sách và chi, thu ra, còn có bổn phận phát triển cho
ngân quỷ của chùa để có được một vị thế kinh tế quân bình và hợp
lý cho tự viện. Trong một tu viện có từ 10 tăng sĩ trở lên là vai
trò của Tri-khố phải có để lo về việc tiền bạc. Theo danh từ phổ
thông ngày nay, Tri-khố chính là thủ quỷ, tức là người giữ tài
chánh trong việc thu, xuất mỗi ngày của chùa. Chùa có tổ chức kinh
tế tự túc, tức là vai trò của người trông coi về tài chánh rất
nặng nề và quan trọng. Tuy nhiên, cho tới nay chúng ta vẫn chưa có
được một nền kinh tế tự lập hoàn toàn cho chùa mà phải còn nhờ vào
sự hão tâm đóng góp của người tín đồ để nuôi dưỡng tăng chúng, là
một hình thức không tiến bộ cần phải được cải đổi. Tại Nhật-Bản,
các ngôi chùa có nền kinh tế tự túc thật dồi dào và việc chi thu ở
các ngôi chùa trung bình có thầy trụ trì quyết định, còn ở các
trung tâm Phật giáo lớn hơn có thủ quỷ phụ trách việc tài chánh.
- Phật giáo
Việt-Nam cho đến khi nào có ngân quỷ tự trị hoàn toàn về phương
diện tài chánh mới mong phát triển tổ chức giáo hội đúng mức
được.
-
39.- Cho Biết Tri Tạng Là Gì ?
- Để cung ứng cho
nhu cầu tri thức, tại các chùa lớn thường có thiết lập một hệ
thống thư viện, nơi tàng trữ những kinh sách giá trị.
- Tri-tạng là
người trông coi về thư viện. Chữ Tạng có nghĩa là kho tàng dùng để
chỉ cho kinh, luật, luận của Phật giáo. Như thế, chùa có nhiều
kinh điển giá trị cần phải có người coi sóc. Người được đề cử
trông coi việc nầy gọi là Tri-tạng, nếu gọi theo danh từ ngày nay
là viên quản thủ thư viện. Kinh sách phải xếp đặt theo thứ tự để
dễ tìm mỗi khi có người muốn tìm đọc tới loại nào, cũng như để xem
chừng sâu mọt nhấm gậm tới các quyển kinh sách quí, phải có người
chịu trách nhiệm trông coi tủ sách của tự viện.
- Tri-tạng hay
người quản thủ thư viện có nhiệm trao đổi sách quí, thay đổi vị
trí sách trong tủ vào làm dồi dào tủ sách cho độc giả có sách mới
để đọc là việc làm rất cần thiết và hữu ích vậy. Tri-tạng ngoài
việc trao đổi bằng kinh nghiệm để duy trì và phát triển tủ sách
của chùa ra, còn phải nghiên cứu xem loại kinh điển, sách báo nào
phù hợp với trình độ tri thức của chư Tăng trong tự viện, bằng mọi
cách phải vận động mua thêm sách mới về làm phong phú cho kiến
thức của đại chúng là điều thật lợi ích vô cùng.
- Trong mỗi một ngôi chùa đều cần
phải có một tủ sách để làm món ăn tinh thần là điều cần thiết.
Kinh sách càng nhiều, vai trò của người coi sóc càng lớn, nhất là
việc sắp xếp thứ loại theo mục lục để được dễ dàng trong việc tra
cứu.
- Việc phụ trách
một thư viện như vậy, không cần đòi hỏi người có kiến thức cao mà
cần nơi khả năng chuyên môn cũng như người nhiều thiện chí đảm
trách.
-
40.- Vai Trò Của Tri Khách Trong Tự
Viện Như Thế Nào ?
- Vai trò của
Tri-khách rất quan trọng đối với một ngôi chùa, đó là bộ mặt đối
ngoại, cũng như trong một quốc gia là bộ Ngoại giao vậy.
- Tri-khách là
người đại diện cho chùa tiếp đãi, hướng dẫn, giải thích các nghi
vấn trong mọi trường hợp, mỗi khi khách cần. Ở trong các tổng bổn
sơn (tổ đình) của chùa Nhật thường có ít nhất là hai người
Tri-khách, ngoài ra còn có một ban tiếp tân phụ lực, cũng giống
như các tổ chức đám tiệc quan trọng khác. Viên Tri-khách có thể
giải thích, tường trình rõ ràng mọi sinh hoạt của tự viện, để
khách nhờ đó có một khái niệm chính xác về cách tổ chức là việc
cần thiết.
- Người phụ trách
việc tiếp đãi khách của chùa phải cho thật khéo léo và niềm nỡ từ
lời nói cho tới thái độ tiếp đón mời mọc khách, nếu không tế nhị
trong việc nầy khó mà gây được cảm mến của người viếng thăm. Tại
các ngôi chùa nhỏ, việc tiếp khách thường do vị trụ trì đảm trách
luôn.
- Một ngôi chùa
có phát triển lớn mạnh hay không, một phần đều do thái độ ngoại
giao khéo của người tri khách, nhất là việc giao tế cần thiết.
Ngôi chùa chỉ có một hay hai vị tăng sĩ và do một ban quản trị
điều hành mọi việc thì vai trò của tri khách không còn cần thiết
nữa, trong trường hợp nầy do một ủy viên giao tế hoặc ban ngoại
giao trông coi. Viên tri khách của chùa phải biết qua lịch sử tạo
lập chùa, các vị Tổ sư kế thừa tông phái, các di tích lịch sử có
liên hệ v.v.., cũng như những bút tích, thi kệ của các vị Tổ để
lại (nếu có) phải tìm hiểu cho thật tường tận để khỏi phải lúng
túng khi bị chất vấn.
- Theo một tinh
thần mới, chúng ta lần lần phải tìm cách thoát xác khỏi những danh
từ chữ Hán, nhưng vẫn giữ nguyên được ý nghĩa của tiếng khó hiểu
trong phạm vi của Phật giáo như tri khách có nhiều người biết, còn
như thư trạng, tri tạng v.v... cần phải thay đổi cho được thích
hợp và dễ hiểu.
- Muốn được nhiều
người biết đến ngôi chùa cho được chính xác cần cắt đặt người tiếp
đãi khách thật nồng hậu, vì đó là bộ mặt nổi của tự viện.
-
41.- Thị Giả Có Phải Là Dùng Một
Người Hầu Như Nô Lệ Cho Mấy Nhà? Tu ?
- Ở trong các
chùa ngày nay hầu như danh từ thị giả không còn dùng nữa. Đây là
tiếng Hán cổ cho nên chúng ta cần phỉ biết qua ý nghĩa.
- Các Hòa-Thượng,
Thượng-Tọa, Đại-Đức lớn tuổi thường tu nhập thất có khi 10 ngày, 2
tuần lễ. Mọi việc tiếp xúc với bên ngoài đều cắt đứt, do đó phải
có người giúp đưa cơm nước, giặt giũ quần áo và mỗi khi các thầy
cần điều gì. Người phụ trách, lo công việc nầy gọi là thị giả.
Người hầu thầy thường là một chú tiểu lanh lẹ và đàng hoàng, để
giúp các Thượng-Tọa đang cần nhiều thì giờ cho việc viết sách, trì
kinh, tọa thiền v.v... trong các việc lặt vặt, nhờ đó người đệ tử
tạo thêm phước đức.
- Ngay ở những
ngôi chùa trong phố mà không phải tọa lạc trên núi non xa xôi hẽo
lánh, các thầy lớn tuổi đều phải có người giúp đỡ. Hình thức hầu
thầy không có nghĩa kẻ được sai nhờ là nô lệ mà là kẻ mong làm
việc thiện để giúp cho đạo hạnh tròn đầy, vì người mới xuất gia
lúc nào cũng phải nương theo thầy để học hỏi. Việc đi sát gần thầy
để săn sóc, người đệ tử có cơ hội tốt học được nhiều điều bổ ích
cho mình.
- Việc hầu thầy
là bổn phận của người đệ tử mới tập sự xuất gia, để nhờ đó học
được những kinh nghiệm trong việc tu hành rất có lợi.
-
42.- Cho Biết Ý Nghĩa Và Vai Trò Của
Hương Đăng Là Gì ?
- Hương-đăng là
người được đề cử để lo việc hương đèn, hoa quả nơi chánh điện thờ
Phật cho được tươm tất, trang nghiêm.
- Thường mỗi ngày
vào buổi sáng và buổi chiều, người phụ trách đèn nhang lo việc
quét dọn chánh điện thờ Phật, thay đổi, sắp xếp, trang hoàng bàn
thờ Phật, bàn thờ tổ, bàn kinh có ngăn nắp gọn gàng. Người lo việc
hương đèn phải coi sóc, báo cáo để người giữ tài chánh mua sắm
những thứ cần dùng cho chùa. Nhiệm vụ hay vai trò của Hương-đăng
vì thế không có gì nặng nhọc cả. Tuy nhiên, về mặt hình thức của
ngôi chánh điện rất quan trọng cho việc bài trí, người phụ trách
hương đèn ít nhất có cặp mắt thẩm mỹ hay nghệ thuật là điều rất
cần thiết. Ở trong các ngôi chùa nhỏ, nhiệm vụ nầy là của thầy trụ
trì, hay chùa ít người thì việc cắt đặt riêng một người giữ việc
hương đèn không cần thiết. Việc sắp xếp bàn thờ Phật cho đẹp cũng
làm tăng thêm giá trị tinh thần để mọi người trong chánh điện phấn
khởi, tinh tấn tu hành.
-
43.- Hãy Nói Rõ Danh Từ Thư Trạng Và
Cách Xử Dụng Ra Sao ?
- Thư-trạng là
người lo việc giấy tờ hay sổ sách ở trong một ngôi chùa. Danh từ
nầy đồng nghĩa với thư ký ngày nay.
- Trước đây trên
các công văn, sớ giấy của chùa chỉ có ấn dấu, không ký tên. Đây là
một hình thức khác hẳn với bây giờ. Nói khác hơn, Thư-trạng là
người chuyên giữ việc hành chánh cho công việc điều hành của chùa.
Người lãnh nhiệm vụ nầy cần có khả năng về nhiều mặt, nhất là có
khả năng biết tổ chức. Trước đây, trong thời kỳ các chùa còn xử
dụng chữ Hán, Thư-trạng là người phải cần được chọn lựa kỹ lưỡng
mới làm việc được. Viên thư ký làm việc dưới sự điều hành của thầy
trụ trì. Tuy nhiên, thư ký có quyền thay thầy điều hành mọi giấy
tờ cần thiết khi thầy vắng mặt. Thư ký của chùa hay của bất cứ một
tổ chức nào cũng đều quan trọng cả, nhất là về mặt điều hành tổ
chức, một phần lớn công việc làm đều có ảnh hưởng sâu rộng tới
quần chúng. Thường các chùa lớn có đông tín đồ nên việc cúng kiến
như cầu an, cầu siêu, cưới xin ... rất bận rộn, do đó một người lo
việc giấy tờ không kịp nên phải có thêm một người phụ tá để giúp
việc.
- Những danh từ
khó hiểu trong các kinh sách của Phật giáo dần dần được dịch sang
tiếng Việt. Đây là một điều mà mọi Phật tử đều mong muốn.
-
44.- Duy Na Là Người Phụ Trách Việc
Gì ?
- Duy-na là người
thủ chuông trong thời khóa tụng ở chùa hay nơi nào có thờ Phật.
- Ở hai bên tả hữu của chánh điện
thờ Phật có hai người, một bên chuông và một bên mõ ngay trước bàn
kinh. Khi nào có người chủ lễ đứng giữa thì người thủ chuông khỏi
phải xướng lễ. Trong trường hợp thiếu chủ lễ, bên thủ chuông kiêm
luôn chủ lễ. Việc gõ chuông cũng phải đúng với nhịp dứt của mỗi
đoạn kinh. Duy-na chỉ điểm tiếng chuông khi nào biết là ý của đoạn
trên dứt và sang một đoạn khác, nhờ đó mọi người theo đúng nhịp mõ
đễ tụng. Lời kinh, tiếng kệ khi lên bỗng lúc xuống trầm theo tiếng
ngân cũng do người thủ chuông một phần. Chúng ta cần phải luyện
tập cho nhiều mới gõ chuông rành được. Một người có nhiều kinh
nghiệm trong việc tụng kinh khi điểm tiếng chuông khiến người nghe
thanh thoát nhẹ nhàng, ngược lại, chúng ta sẽ cảm nghe như âm
thanh làm chát tai, mệt óc lúc tụng kinh.
- Một sự tướng
tuy rất nhỏ trong chùa như việc thỉnh chuông cũng rất tế nhị như
vậy, vì mọi người lúc vào chánh điện hay nơi thờ Phật đều lắng
lòng chăm chú vào bài kinh đang đọc.
- Âm thanh của
tiếng chuông nhẹ lâng đưa lời hòa âm của người tụng vào trong
không gian tĩnh lặng như lời cầu nguyện cho chúng sanh đều được
gội nhuần công đức.
-
45.- Duyệt Chúng Nghĩa Là Gì ?
- Người đứng phụ
trách việc gõ mõ cho mọi người tụng kinh theo một nhịp điều hòa
gọi là Duyệt-chúng, tức làm mọi người hòa vui.
- Thường bên mõ ở
về phía tay trái của chánh điện, phía ngoài ngó vào. Tiếng mõ phải
hòa theo lời kinh của mọi người, có nghĩa là lúc giọng lớn, phải
nâng tiếng mõ lên cao, còn khi giọng của mọi người xuống thấp,
tiếng mõ cũng nhỏ lại. Việc gõ mõ tuy không khó, nhưng có người
cầm tới dùi mõ là khiến mọi người đọc muốn đứt hơi, mệt mỏi.
Duyệt-chúng có nghĩa là làm cho tâm lý mọi người phơi phới vui vẽ.
Như vậy, một người thủ mõ giỏi là biết giữ thật điều hòa hơi lên
xuống của mọi người với tiếng mõ để có sự hòa nhịp từ tâm cho tới
cảnh bên ngoài. Tiếng chuông lúc thỉnh lên, ta còn nhận ra được
tâm của người gõ, thì nhịp mõ lại là thước đo đúng nhất về người
giữ việc làm phấn khởi tâm lý mọi người trong giờ phút trang
nghiêm của buổi lễ.
- Ngày xưa các
chùa quan niệm rằng, chùa nào giữ tiếng mõ cho thường xuyên, cũng
có nghĩa là vấn đề tài chánh khỏi phải lo lắng, có ý nói rằng,
tăng chúng của chùa biết lo tinh tấn tu hành.
- Mỗi tôn giáo có
một hình thức riêng về các nghi thức. Giữ nhịp mõ cho khoan thai
trong nghi lễ Phật giáo, cũng là một cách cảm hóa người nghe như
tiếng pháp âm vi diệu ...
-
46.- Tọa Cụ : Hình Thức Và Công Dụng
Ra Sao ?
- Tọa-cụ là tấm
vải dùng để ngồi thiền hay lạy Phật của tăng sĩ Phật giáo, nhất là
Phật giáo phái thiền. Mỗi khi trải tấm vải để ngồi thiền, phải đọc
bài kệ như sau :
- Tọa cụ ni sư
đàn
- Trưởng dưỡng
tâm miêu tánh
- Triển khai đăng
thánh địa
- Phụng trì
Như-Lai mạng
- Án đàn ba, đàn
ba tóa ha.
- Dịch nghĩa :
Tấm tọa cụ bằng một thứ vải bền chắc nuôi dưỡng tâm niệm thiện,
ngõ hầu bước lên thềm thang của bậc Thánh, nhờ đó vâng giữ giáo
pháp của Phật.
- Khi thọ giới Tỳ-kheo, người thọ
giới phải sắm đủ các pháp cụ cần thiết như : Y hậu, bình bát, một
tấm tọa cụ và một đảy lọc nước. Nếu thiếu một trong các thứ cần
dùng nêu trên, thầy Sa-di không thể thọ được giới Tỳ-kheo.
- Tấm vải nầy
thường vuông vức bằng 1m x 1m, xếp gọn lại và bỏ trong xách tay
hay cặp táp. Thầy Tỳ-kheo khi đi đâu cũng không rời y hậu và tọa
cụ, vì lúc lễ Phật đều phải cần tới các thứ ấy.
- Ngày nay, chúng
ta ít thấy tăng sĩ Việt dùng tới miếng vải lót trải khi ngồi thiền
hay vào chánh điện lạy Phật tụng kinh, phải chăng họ đã đi xa rời
với hình thức của Phật giáo cổ truyền ? Tấm vải nầy về mầu sắc
thường là mầu đà hay vàng lợt da cam.
- Duy trì nếp
sống và hình thức cố hữu trong Phật giáo, cũng có nghĩa là giữ gìn
được mạng mạch của Phật pháp, vì cái gì hễ "phi cổ bất thành kim"
vậy.
-
47.- Kiết Già Và Bán Già Khác Nhau
Thế Nào ?
- Người tu thiền
trong tư thế ngồi có hai cách : Ngồi kiết già hay bán già.
- Thế nào là kiết
già và thế nào là bán già ?
- Những ai có thể
ngồi thiền theo lối kiết già và những người nào ngồi theo lối bán
già hay cả hai đều thực hành được ?
- Thế ngồi bán
già tức là ngồi vắt bàn chân trái để lên trên đùi bên chân phải.
Thế ngồi nầy dễ đối với người mới tập sự tu Thiền, vì ít mỏi hơn
so với thế ngồi kiết già. Người mới bắt đầu học theo phép tu Thiền
định có thể ngồi theo lối bán già, rồi dần dần để cho việc ngồi
được thục luyện, sau đó mới tập ngồi theo lối kiết già được. Kiết
già là thế ngồi vắt bàn chân trái để lên trên đùi của chân bên
phải và bàn chân phải để lên đùi của chân trái, ngồi hướng thẳng
người đúng 90 độ, rồi bắt đầu tập trung tư tưởng.
- Người nào chưa
từng tập luyện bao giờ mà bắt đầu bằng thế ngồi nầy đều cảm thấy
nhức mỏi khó chịu và chỉ cố gắng chịu đựng được trong vòng 10 hay
15 phút. Sau đó chân bị tê cóng và bước đi khập khểnh loáng
choáng, vấp ngã. Những Thiền-sư chuyên tâm vào việc tọa thiền
thường chú tâm ngồi thiền định suốt trong 5 đến 10 tiếng đồng hồ
vẫn không biết mỏi. Một người trung bình có thể ngồi theo thế kiết
già trong vòng một hoặc hai tiếng đồng hồ cũng không thấy có gì
thay đổi cả.
- Chúng ta có thể
ngồi thiền theo lối kiết già và bán già cùng một thời gian thiền
định đều được cả, nghĩa là lúc đầu ta ngồi theo cách kiết già, sau
đó độ 20 phút hoặc nữa tiếng, tự cảm thấy mỏi và khó chịu thì đổi
sang cách bán già cũng không có gì trở ngại cả.
- Việc ngồi kiết
già hay bán già không quan trọng mà điều cần thiết hơn cả là trong
lúc ngồi như vậy, ta có tập trung được tư tưởng hay không mới đáng
đề cập tới mà thôi.
-
48.- Du Tăng Khất Thực Và Hành Khất
Khác Nhau Ở Điểm Nào ?
- Du tăng khất
thực là người tăng sĩ sống đúng theo hạnh của Phật, ngày ăn một
bửa, tối ngủ dưới gốc cây, không nhà cửa, chùa, thất mà cứ đi ta
bà như thế suốt quanh năm để xin ăn và truyền bá Phật Pháp.
- Chữ du trong du
tăng có nghĩa là đi chu du hay vòng quanh tới nhiều nơi chốn khác
nhau để xin của cúng. Do đó, bài thơ diễn tả ý nầy, có đoạn như
sau :
- Gót đạo sĩ bốn
phương trời rải bước,
- Cõi Ta-bà đâu
chẳng phải nhà ta.
- Một mình đi với
bình bát, cà sa,
- Đói xin ăn, nơi
gốc cây nằm ngủ.
- Mùi phú quí mặc
ai người hưởng thú,
- Bả vinh hoa ta
nào có sá gì.
- Chỉ một lòng tu
niệm đạo từ bi,
- Diệt phiền não
cõi lòng thường thanh tịnh...
- Đó cũng là hạnh
nguyện của người tăng sĩ khất thực, thực hành đúng theo như Phật
lúc còn tại thế. Phái Phật giáo quấn y vàng không chủ trương lập
chùa, thiền viện, cơ sở ... mà chỉ có một tấm lòng hiến dâng cho
đạo trong hạnh đi du phương cầu thực và lấy việc lợi sanh làm sự
nghiệp. Họ biết bỏ cái "ngã" làm kẻ ăn xin, khiến cho người phát
tâm đem lòng kính phục. Nếu có dịp chứng kiến thái độ kiên nhẫn
của các sư khất thực nơi các khu phố, chợ có đông người để xin đồ,
chúng ta mới thấy được là một việc rất khó thực hành đối với kẻ
tầm thường.
- Tuy nhiên, việc
tu hành và truyền bá đạo Phật như thế, không thể nào gây được ảnh
hưởng lớn được, vì thiếu cơ sở, thiếu tổ chức cũng như ít người
hậu thuẩn, thì việc phát triển đạo Phật cũng bị thu hẹp và chậm
chạp.
- Chữ khất thực
có nghĩa là khất cầu Phật Pháp để đổi lại thức ăn nuôi lấy pháp
thân huệ mạng, do nơi phát tâm cao thượng của người thực hành mà
có, trong khi đó, hành khất có nghĩa là xin ăn theo một ý nghĩa
xấu hoàn toàn, nhằm gán cho kẻ tồi trong xã hội.
- Trong hiện tại,
ta ít thấy các nhà sư tu theo hạnh khất thực, có lẽ một phần vì
tập quán các nơi có khác, một phần vì người tu theo hạnh du phương
đã ít, và một số các nước theo truyền thống nguyên thủy Phật giáo
lại nằm trong vùng kiểm soát của Cộng-sản.
-
49.- Tham Thiền, Thiền Định Và Tọa
Thiền Khác Nhau Thế Nào ?
- Phật giáo phái
Thiền-tông chủ trương tu thiền hay thiền quán, tức là ngồi định
tâm để tập trung tư tưởng vào một điểm cố định theo ý muốn của
hành giả.
- Việc tu thiền
có nhiều căn cơ và trình độ khác nhau, tùy theo công phu tu tập
của người thực hành nhiều hay ít mà có chỗ đạt ngộ cao thấp không
đồng nhau. Những danh từ tham thiền, thiền định và tọa thiền đều
có nghĩa là tu theo phép quán tưởng để tập trung tư tưởng cả, tuy
nhiên ý nghĩa có sự khác nhau, ta cần phân biệt :
- Tọa thiền mà
Phật giáo phái thiền Nhật-Bản gọi là Zazen, dùng để chỉ chung cho
mọi trình độ cao thấp khác nhau về việc thực hành, kể cả người mới
bắt đầu tu cũng đều gọi là tọa thiền được vậy.
- Thiền định chỉ
cho một người có trình độ tu tập cao và đã đạt được đến giai đoạn
thuần thục, trong việc tập trung tư tưởng rất dễ dàng, như đức
Phật Thích-Ca ngồi thiền định (nhập định) suốt 49 ngày dưới cây
Bồ-đề cho tới khi giác ngộ tức là chứng quả thành Phật.
- Tham thiền hàm
chứa 2 ý nghĩa khác nhau :
- 1.- Đại tham là
một cuộc tập họp đại chúng rộng rãi do vị Thượng- Tọa Thiền-sư chủ
xướng để mọi thiền sinh có cơ hội tham cứu về lý thuyết lẫn thực
hành việc tu thiền. Tuy nhiên, trong trường hợp có mặt đông đảo
các thiền sinh nầy, những người nào có căn cơ khá vững chắc về
thiền mới dám đặt câu hỏi. Vì vị thiền sư thường hay lật ngược các
câu hỏi để khám phá ra trình độ tu chứng của người hỏi.
- 2.- Tiểu tham
là việc tham cứu về thiền một cách bán chính thức. Trong những giờ
rãnh rỗi, vài ba người gặp vị Thượng-Tọa Thiền-sư nơi sân cỏ hoặc
ngoài vườn hoa đều có thể lợi dụng cơ hội tốt để hỏi thêm về những
cách thức tu tập. Những người mới bắt đầu học tu thiền nên theo
lối tham cứu nầy rất lợi ích vậy.
- Môn thiền ngày
nay rất thịnh hành ở Âu Mỹ, vì con người sống trong các xã hội văn
minh cơ khí nên đầu óc luôn luôn bận rộn, họ cần có thì giờ để tập
trung tư tưởng mà thiền Phật giáo là pháp môn hữu hiệu nhất.
-
50.- Tự Viện Có Khác Với Chùa Không
?
- Tự viện là
tiếng gọi chung cho ngôi chùa, nơi ấy tăng chúng tu học và sống
trong tinh thần lục hòa (xem bài 6 phép lục hòa) của Phật giáo.
- Tự viện nói cho
đủ là chùa và Phật-học-viện hay Phật-học-đường gồm có một số đông
tăng sĩ cùng nhau chung sống để học hỏi và thực hành Phật giáo
dưới sự chăm sóc và điều hành của một Giám-viện hay Ban-giám-đốc.
Danh từ tự viện còn được dùng theo lối kính ngữ, như trong trường
hợp người đối diện với ta là trụ trì của một ngôi chùa. Khi muốn
hỏi thăm về cách sinh hoạt của ngôi chùa ấy chẳng hạn, ta dùng
tiếng "quý tự" hay "quý viện" rất đẹp vô cùng.
- Cũng cần phân
biệt giữa "tự" và "viện". Tự thường nhỏ hơn viện, trừ những ngôi
cổ tự (chùa cổ) còn hầu hết các ngôi chùa kiến trúc theo lối tân
đều có cả trường học, có sân rộng, vườn hoa ... Như vậy, nơi nào
có đông tăng chúng ở tu học, với một ban giảng huấn điều hành việc
giảng dạy được gọi là Phật-học-viện, còn ngược lại, thiếu hai yếu
tố trên gọi là chùa hay tự.
- Hiện tại ở hải
ngoại, chùa và viện Phật học lần lượt được thiết lập tại nhiều nơi
như Hoa-Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Úc-Đại-Lợi. Đây là công tác Phật sự
quan trọng của cộng đồng người Việt từ sau năm 1975, vì ở trong
nước các ngôi chùa, các Phật-học-viện đã bị đóng cửa vĩnh viễn,
tăng sĩ phải hoàn tục hay đi vùng kinh tế mới. Hiện tại các
Phật-học-viện cho mở lại dưới kế hoạch của nhà nước.
- Nhiều chùa và
Phật-học-viện càng được xây thêm, càng chứng tỏ rằng tiếng pháp âm
của Phật giáo còn được tiếp tục duy trì và phát triển ở nhiều nơi
trên thế giới.
--o0o--
|
|