-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- KIẾN THỨC
CĂN BẢN PHẬT GIÁO
-
-
- CHƯƠNG 5
-
- CÁCH XƯNG HÔ
-
-
2.- Hòa Thượng Là Gì ? Ai Được Tôn
Xưng Danh Hiệu Nầy? (^)
- Hòa-Thượng (the
most venerable) dịch là "lực sanh" nghĩa là nhờ đời sống tâm linh
thanh tịnh của vị đó khiến cho đạo lực của giới tử (người theo
học) được phát sanh.
- Hòa-Thượng còn
có nghĩa là "thân giáo sư" tức là thầy gần gũi nhất của mình để
học hỏi, vì thế cũng có nghĩa là "y học" tức là người mình nương
tựa để học đạo. Hòa-Thượng còn là người chứng minh tối cao trong
hội đồng truyền giới Tỳ-kheo, Bồ-Tát...
- Những Tăng sĩ
nào mới được tôn xưng là Hòa-Thượng ?
- Trong Phật giáo
vốn không có giai cấp, tuy nhiên, trong khi truyền giới để làm
tăng sự trang nghiêm cho buổi lễ cũng như gây được cho người thọ
giới một ấn tượng tốt và đặc biệt khó quên trong đời tu học nên
phải cung thỉnh một vị Hòa-Thượng lớn tuổi chứng minh. Hòa-Thượng
phải là người đã thọ giới Tỳ-kheo và có an cư kiết hạ từ 20 năm
trở lên. Những tăng sĩ tuy đã thọ giới Tỳ-kheo, nhưng không sống
theo tăng đoàn tu học mỗi năm 3 tháng vào mùa mưa để tinh chuyên
giới hạnh thì không đủ tư cách để tôn xưng Hòa-Thượng. Hòa-Thượng
khác với Thượng-Tọa ở tuổi đạo và tuổi đời, vì nhiều kinh nghiệm
tu hành và giới đức tinh nghiêm hơn.
- Ở trong một xã
hội vô trật tự thì giới nhà tu cũng nảy sinh ra một hiện tượng mới
là những Hòa-Thượng trông có vẽ luộm thuộm thiếu tư cách, thiếu
tác phong đạo đức như phá giới và tự xưng là bậc thánh có thể làm
được phép nầy phép nọ để làm thay đổi dược hoàn cảnh hay các hiện
tượng thiên nhiên. Người tăng sĩ chân chánh tu hành không cần đề
cao về mình như thế. Giá trị đạo đức và tư cách sống là thước đo
đúng đắn nhất về một người. Kẻ giả danh đạo đức và cao ngạo, tự tỏ
ra khinh khi mọi người để lừa bịp sự dễ tin của quần chúng, sẽ bị
gán cho nhiều danh từ không mấy tốt đẹp.
- Người Phật tử
chân chánh phải phân biệt rõ ràng để khỏi nhầm lẫn khi xưng hô các
thầy lãnh đạo tinh thần một cách quá đáng.
-
3.- Đại Đức Phải Đủ Những Đức Tánh Gì
? (^)
- Đại-Đức
(Reverend, Reverand) là người xuất gia tu hành đã thọ đủ 250 giới
Tỳ-kheo và tuổi từ 20 trở lên. Ở trong đạo, vị ấy là người đã
thông suốt được kinh luật, có khả năng ứng dụng Phật Pháp trong
quần chúng một cách linh động.
- Như vậy, danh từ Đại-Đức chỉ người
có cả phước lẫn huệ dầy đủ, xứng đáng nhận lãnh vai trò lãnh đạo
tinh thần cho hàng Phật tử tại gia.
- Khi Phật còn
tại thế, các Tỳ-kheo cũng xưng Phật là Đại-Đức Thế-Tôn hay bạch
Đại-Đức ... mỗi khi có việc cần thưa thỉnh. Vì danh từ Đại-Đức
Thế-Tôn dùng để gọi chung cho các đức Phật về đời quá khứ, nên
cũng còn có nghĩa là mẫu người đáng kính và đáng tôn trọng.
Đại-Đức dùng để tôn xưng các giáo sĩ, các nữ tu thuộc các tôn giáo
khác mà không riêng gì Phật giáo. Ví dụ : La Reverende Mère
superieure : Đức Mẹ bề trên.
- Với ý nghĩa cao
đẹp đó, nếu những tu sĩ tuổi đời tuy cao, nhưng khi vào đạo chưa
thọ giới Tỳ-kheo cũng như chưa có khả năng thâm hiểu về đạo Phật
thì chưa đủ tư cách Đại-Đức được. Tuy nhiên, việc tôn xưng còn tùy
thói quen ở mỗi nơi như ở một số những ngôi chùa không mấy đông
Tăng chúng, thầy Bổn-Sư thu nhận đệ tử xuất gia có khả năng về
trình độ học thức ngoài đời, đã lớn tuổi có tác phong đứng đắn
cũng được bổn đạo chùa tôn kính vào hàng Đại-Đức.
- Thật ra cách
xưng hô trong Phật giáo không mang tính cách chức vị, quyền uy như
các phẩm trật ngoài đời. Trong Phật giáo còn một tính cách hết sức
dân chủ là chúng Tỳ-kheo tự tôn trọng nhau về tuổi đạo hơn tuổi
đời, như trường hợp vị lớn tuổi hơn nhưng thọ giới Tỳ-kheo sau
người nhỏ tuổi cũng phải kính vị nhỏ tuổi kia như người đi trước,
bậc đàn anh.
- Khi dùng cách
xưng hô đối với nhà lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, chúng ta phải
thật thận trọng để khỏi phải hạ mình cách quá đáng và nhiều khi
tạo cho người đối tượng một vách ngăn cách biệt !
-
4.- Hãy Phân Biệt Chú Tiểu, Điệu Hoặc
Ông Đạo ? (^)
- Chú tiểu, điệu
hay ông đạo là những danh từ mà người tín đồ Phật tử thường dùng
để gọi những Tăng sinh mới xuất gia ở trong giai đoạn bắt đầu thực
hành Phật giáo.
- Miền Bắc Trung
Nam có một số từ khác biệt nhau, dĩ nhiên chỉ có người trong cùng
một miền mới biết rành mà thôi. Chú tiểu là danh từ người miền Bắc
hay dùng để gọi các chú bé mới xuất gia vào chùa tu, đầu đã cạo
tóc nhưng còn chừa lại một chỏm tóc dài ở phía trước, còn điệu là
tiếng của người miền Trung để gọi chú bé vừa mới tập sự học Phật.
Trong khi đó, ông đạo là tiếng được dùng ở miền Nam cũng chỉ cho
người mới xuất gia vào ở chùa. Chú tiểu là thời kỳ chưa phải làm
việc gì nặng nhọc cả, ngay cả giới luật cũng chỉ có mới thọ 5 giới
như người tu tại gia mà thôi. Trường hợp các em bé ở chùa lâu năm,
cho tới khi thọ giới Sa-di, tín đồ bổn đạo vẫn gọi là điệu hoặc
chú tiểu như thường, vì quen miệng và thân thiết chăng ! Ở miền
Bắc còn có danh từ "Sư Bác" để gọi các tăng sinh đã thọ giới Sa-di
và đã lớn tuổi. Thay vì gọi Đại-Đức hay Thầy, còn danh từ ông Đạo
của người miền Nam gọi trong thời kỳ mà thầy tăng còn tuổi nhỏ,
mới thọ 10 giới Sa-di thật đàng hoàng và đúng nghĩa.
- Một vài khác
biệt về cách xưng hô đối với người tăng sĩ trẻ tuổi là như vậy,
trên thực tế ngày nay mọi người đều hiểu được ý nghĩa và cả cách
dùng nữa.
- Biết được thói
quen của mỗi nơi, chúng ta mới dùng đúng cách và chính xác được
những danh từ trong Phật giáo rất phổ thông nầy.
- Cả ba cách xưng
hô trên cũng đều nằm trong cùng một ý nghĩa, do thói quen của mỗi
nơi mà tên gọi có khác.
-
5.- Đệ
Tử Là Gì ? (^)
- Đệ tử là người
học trò, người nhỏ tuổi hơn tự xưng với người lớn tuổi và những
bậc thầy dẫn đạo có đủ tư cách chỉ dẫn cho mọi việc để học hỏi.
- Trong Phật
giáo, danh từ đệ tử được dùng chỉ tất cả mọi người theo học hỏi
giáo lý giải thoát và tôn xưng đức Phật là bậc thầy sáng suốt, kẻ
chỉ đạo đúng đắn để nương theo. Ở các bài Sám Nguyện thường hay mở
đầu bằng tiếng đệ tử như :
- Đệ tử chúng con
từ vô thỉ
- Gây bao tội ác
bởi lầm mê.
- Đắng trong sanh
tử đã bao lần,
- Nay đến trước
đài vô thượng giác ...
- Hoặc : Đệ tử
hôm nay gặp ngày Khánh-Đản, hay : Đệ tử kính lạy đức Phật Thích-Ca
v.v...
- Như thế, chữ đệ
tử mang một ý nghĩa bao quát và có hàm ý rằng y như pháp mà thành
tựu được việc tu hành của kẻ khao khát muốn tìm về chân lý của Đức
Phật. Đức Phật có đủ mọi đức tính : Từ bi, bình đẳng, bao dung ...
đáng để cho chúng ta nương theo học hỏi, cũng như người học trò
quý mến thầy và tự nhận mình là đệ tử. Không những trong phạm vi
Phật giáo tiếng đệ tử được dùng mà ngay trong các lãnh vực sinh
hoặc ngoài đời cũng vẫn áp dụng nói một cách tự nhiên.
- Các nhà mô
phạm, những bậc thánh nhân, các giáo chủ của tôn giáo là thước đo
giá trị đạo đức cho đời sống tinh thần đúng đắn nhất mà người theo
học là kẻ đến sau, như là học trò vậy.
-
7.- Cho Biết Tứ Hoằng Thệ Nguyện Là
Gì ? (^)
- Tứ hoằng thệ
nguyện là bốn lời phát nguyện rộng lớn của người Phật tử để cầu
cho tất cả chúng sanh đạt đến đạo Vô-thượng Bồ-đề.
- Bốn điều thệ
nguyện đó như sau :
- - Chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ : Chúng sanh có muôn loài, xin thề nguyện cứu
độ tất cả.
- - Phiền não vô
tận thệ nguyện đoạn : Phiền não không cùng tận xin nguyện đều dứt
sạch.
- - Pháp môn vô
lượng thệ nguyện học : Các pháp môn có nhiều và sâu rộng như biển
cả mênh mông nhưng người tu học nguyện học hỏi để đạt tình thấu
lý.
- - Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành : Cầu mong tu hành đạt đến giác ngộ, giải
thoát an vui.
- Đây là phần
tụng trước khi hồi hướng (trong các khóa lễ kỳ an hay kỳ siêu) và
người hành trì nguyện đem tất cả phước lành đã tạo được, hướng về
tất cả nhân loại chúng sanh, mong cho đều được hạnh phúc, an vui.
Xin gợi ý, bốn lời phát nguyện nên dịch sang vần để dễ dàng thuộc
và nhớn lúc tụng đọc :
- Chúng sanh độ
khắp xa gần
- Não phiền rũ
sạch lòng trần nhẹ lâng
- Pháp mầu số
lượng chuyên tâm
- Đạo Phật vô
thượng thậm thâm nguyện thành.
- Kinh điển của
Phật giáo rất nhiều không kể xiết, mỗi lời, mỗi câu đều mang một ý
nghĩa rất sâu sắc. Khi đã hiểu được trọng vẹn mạch ý của cả bài,
lúc tụng đọc chúng ta mới thấy được lý thú.
-
8.- Thất Chúng Trong Phật Giáo Là Thế
Nào ? (^)
- Đệ tử của Phật
gồm 2 thành phần là xuất gia và tại gia mà trong đó còn chia ra
thành bảy chúng khác nhau.
- Đoàn thể xuất
gia gồm có 5 chúng và Phật tử tại gia có 2 chúng như sau :
- Xuất gia gồm :
Sa-di (nam giới thọ 10 giới căn bản) Sa-di-ni (nữ giới), Tỳ-kheo
(nam giới thọ 250 giới và phải trên 20 tuổi), Tỳ-kheo-ni (nữ giới
348 giới) và Thức-xoa-ma-na (nữ giới xuất gia phải thọ 6 giới
Thức-xoa trước khi thọ giới Tỳ-kheo-ni). Còn thành phần của Phật
tử tại gia có 2 chúng là Ưu-bà-tắc hay Cận-sự-nam, tức nam giới
Phật tử thực hành Phật giáo tại gia và Ưu-bà-di hay Cận-sự-nữ hoặc
thiện nữ nhơn, để chỉ cho người Phật tử đã quy y Tam-Bảo và giữ
năm giới cấm. Tuy nhiên, gọi 6 chúng đệ tử Phật cũng không sai vì
giới Thức-xoa-ma-na chỉ dự bị cho giới Tỳ-kheo của bên Ni mà thôi.
Dù tu tại gia hay xuất gia, người Phật tử vẫn làm được việc Phật
sự. Hai thành phần đệ tử của Phật bày hợp nhau lại để chung sức
chung lòng phát triển ngôi nhà Phật giáo. Một đời vua Asoka của
Ấn-Độ sau Phật Niết-Bàn 300 năm, vua Trần-Thánh-Tông của Việt-Nam
... là những vị Bồ-Tát hiện thân cư sĩ tu tại gia đã tạo nên cho
Phật giáo những công trình thật vĩ đại, đáng ghi nhớ đời đời. Do
đó, việc duy trì và phát triển Phật giáo là vai trò của người xuất
gia và bổn phận của người Phật tử tại gia.
- Người tu sĩ hay
cư sĩ Phật tử cũng đều là đệ tử của Phật nên việc hợp lực nhau để
làm việc Phật sự thì không còn lãnh vực tại gia hay xuất gia mà
tùy thuộc vào khả năng, thiện chí và phương tiện thực hiện.
-
9.- Hãy Giải Thích Ý Nghĩa Của Cổng
Tam Quan Chùa ? (^)
- Ở những ngôi
chùa cổ phía trước chánh điện, nơi mặt tiền, cách một cái sân, nơi
lối ra vào có một cửa chính chia ra làm 3 lối đi gọi là cửa tam
quan.
- Tam quan là 3
cửa hay 3 lối đi dẫn vào phía bên trong chùa. Chính giữa rộng, hai
lối đi hai bên thường hẹp, chỉ đủ cho một người vào lọt. Cổng
chỉnh thường đóng kín lại, mỗi khi có lễ lạc gì lớn mới được mở ra
để cho khách vào chùa chiêm bái.
- Ngày xưa, những
ngôi quốc tự do nhà nước lập ra, cổng chính dành riêng cho các
quan chức cao và vua chúa mỗi khi đến lễ Phật, còn dân chúng và
hàng quan lại cấp nhỏ chỉ được phép vào chùa bằng lối đi hai bên
cổng mà thôi.
- Những ngôi chùa
lớn có lối kiến trúc cổng tam quan cũng đồ sộ để cho được cân
xứng, mỹ thuật. Những ngày thường nhật cửa tam quan thường đóng và
chỉ mở một cổng bên phía tay phải để cho khách vào ra lễ Phật,
ngoạn cảnh. Cổng chùa không lập quá xa với chánh điện thờ Phật,
nghĩa là tùy theo phạm vi rộng hẹp của mỗi nơi và cổng tam quan
chỉ cách điện Phật một cái sân thôi. Những ngôi chùa ở trên núi
cao, cũng có lối kiến trúc cổng tam quan gần với chánh điện mà
không quá xa, cách biệt ở dưới chân núi.
- Ngày nay, việc xây chùa và cổng
chùa không còn giữ được theo lối kiến trúc thuần túy mỹ thuật cổ
điển nữa mà đã bị pha trộn theo đủ lối, đủ kiểu Âu Á lẫn lộn. Do
đó danh từ cổng tam quan không còn mấy thông dụng cũng như ít có
người biết đến, như trường hợp những ngôi chùa trong các đô thị
theo hình thức mới nầy.
- Nếp sinh hoạt
tăng viện thay đổi cho phù hợp với thời đại, nhưng hình thức cổ
điển của cổng chùa và mái chùa tượng trưng cho dân tộc tính cần
được duy trì thì hay hơn cả.
-
10.-
Mười Hiệu Xưng Tán Đức Phật Gồm Có Những gì ? (^)
- Phật thường đầy
đủ phước đức, tướng mạo trang nghiêm với 80 vẽ đẹp và 32 tướng
tốt, xứng đáng là bậc thầy của nhân loại. Mười hiệu xưng tán đức
Phật là : 1- Như-Lai, 2- Ứng-cúng, 3- Chánh-biến-tri, 4-
Minh-hạnh-túc, 5- Thiện-thệ, 6- Thế-gian-giải, 7- Vô-thượng-sĩ, 8-
Điều-ngự-trượng-phu, 9- Thiên-nhơn-sư, 10- Phật, Thế-Tôn.
- Tại sao phải
dùng 10 hiệu khác nhau để xưng tán đức Phật ? Đức Phật ra đời vì
muốn chỉ bày cho chúng sanh tìm thấy Phật tánh của mình do công
phu tu tập để đạt đến giác ngộ hoàn toàn như Phật. Như hoa sen
trong bùn lầy mà vẫn có mùi thơm ngào ngạt. Đức Phật cũng như thế,
dù ở trong cõi đời khổ đau mà vẫn giác ngộ nên đáng ca tụng là bậc
thầy của cả trời và người. Chữ Như-Lai có nghĩa là thừa cái đạo
như thật để chứng quả Chánh-đẳng Chánh-giác nên gọi là Như-Lai.
Ứng-cúng tiếng Phạn là A-la-ha tức là thọ nhận của trời và của
người cúng dường. Chánh-biến-tri là giác ngộ. Minh-hạnh-túc là do
tu tập ở túc mạng nhiều đời mà tỏ ngộ. Thiện-thệ dịch là Tu-già-đa
tức là lấy trí huệ sáng suốt chứng được Niết-Bàn. Thế-gian-giải
dịch là Lộ-già-bị tức giải bày rõ về pháp "Hữu" và "Vô" ở thế
gian. Vô-thượng-sĩ, tiếng Phạn gọi là A-nậu-đa-la tức giải thoát
mọi ràng buộc. Điều-ngự-trượng-phu : Điều phục mọi ý niệm xấu ác
dũng mãnh không sợ sệt. Vì Đức Phật là bậc thầy soi đường cho cả
trời và người và hiệu sau cùng để tán tụng bậc trí giác toàn vẹn
được đời chiêm ngưỡng.
- Ở bài kinh sám
hối có 10 hiệu Như-Lai để tán dương công đức tu hành của Đức Phật
và người học Phật nguyện học hành theo các công đức lành ấy.
-
11.- Lục Độ Là Những GÌ ? (^)
- Lục độ hay 6
pháp độ được người qua khỏi bể sanh tử mà hàng Bồ-Tát chọn làm
pháp môn tu tập là :
- - Bố thí : Ban
cho kẻ khác niềm an lạc. Không cứ cho đồ vật mới gọi cho mà có thể
cho cả lời nói, cử chỉ để an ủi người cô thế, tức là ta đã thực
hiện được hạnh bố thí rồi.
- - Trì giới :
Giữ gìn giới cấm, trước là để răn mình làm điều phi pháp, sau để
làm gương cho người khác noi theo.
- - Nhẫn nhục :
Nhịn chịu mọi nghịch cảnh không có nghĩa là người dại dột mà để
thể hiện sức cố gắng của người mà tâm địa đã đạt được một trình độ
cao mới thực hiện nổi.
- - Tinh tấn :
Tiến tới không lùi sụt hay ngừng nghỉ khi bắt tay vào làm một việc
gì khó khăn.
- - Thiền định :
Dùng con mắt quan sát, suy tư trong yên tịnh và lắng lòng để gạn
lộc phiền não nơi tâm.
- - Trí huệ : Là
sự nhận thức đúng, suy đoán lanh lợi, như con dao sắt cạnh của mỗi
người dùng cắt mọi ràng buộc, chi phối trong đời sống nội tâm. Trí
huệ cũng còn là sự nghiệp hành đạo của người tu hành (duy huệ thị
nghiệp).
- Người nào thực
hành đúng theo phép 6 độ một cách trọn vẹn tức là thể hiện được
phần não hạnh Bồ-tát trong đời nầy.
-
12.- Tứ Vô Lượng Tâm Là Gì ? (^)
- Bồ-Tát tu hành
pháp bố thí trong 6 độ (bố-thí, trì-giới, tinh-tấn, nhẫn-nhục,
thiền-định, trí-huệ) và Tứ-vô-lượng-tâm là một trong muôn hạnh
lành.
- Tứ-vô-lượng-tâm
là tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ, tâm-xả, tức là lòng quảng đại, thương
xót, vui thuận và tha thứ là bốn yếu tố cần thiết làm tư lương cho
việc tu tập tâm từ bi thường gắn liền với nhau, nhưng trong ý nghĩ
có sự khác biệt rất xa. Vì cái tâm rộng khắp không lường có thể
làm Phật, Thánh Hiền, ma quỷ cũng từ đó phát sanh. Để diễn tả cái
tâm, cổ nhân có tác bốn câu thơ như vầy :
- Tam điểm như
tinh tượng
- Hoành câu tợ
nguyệt tà
- Phi mao tùng
thử đắc
- Tác Phật giả do
tha.
- Dịch :
- Ba chấm như vì
sao
- Cong vòng vành
trăng khuyết
- Lông sừng từ
đây đội
- Làm Phật cũng
do tâm.
- Tâm tạo ra sơn
hà đại địa, thế giới muôn loài, cho nên người tu cần phải vận dụng
hết lòng ngay thật của mình vào việc tu niệm để giúp đỡ cho kẻ
khác. Đây là hạnh nguyện độ sanh mà hàng Bồ-tát thường xả thân làm
việc thiện.
- Bốn thứ tâm
lành rộng lớn chỉ có được khi nào người Phật tử biết hy sinh cả
thân mạng để làm việc lợi ích cho kẻ khác mới có được.
-
13.- Chùa Và Tự Viện Khác Nhau Ra Sao
? (^)
- Chùa là tiếng
rất phổ thông ai cũng biết cả. Chùa do chữ Tự (pagoda hay temple)
có từ thế kỷ thứ 2 thứ 3 Tây-lịch. Các ngài Ca-Diếp Ma-Đằng và
Trúc-Pháp-Lan từ Ấn-Độ qua Giao-Châu ở Hồng-Lô tự dịch kinh
Tượng-Đầu-Báo-Nghiệp Sai-Biệt và kinh Tứ-Thập-Nhị-Chương.
- Chùa và Tự Viện
khác nhau ra sao ? Cho tới nay cả 2 danh từ đều được dùng lẫn lộn,
ít có ai phân biệt được chỗ khác nhau. Tuy nhiên, hiểu theo văn
hiện đại người ta ưa dùng chữ Tự Viện hơn Chùa, nhất là trên các
văn thơ về phương diện ngoại giao. Chữ Tự Viện ngoài ra, còn hàm ý
rằng nơi rộng rãi khoảng mát, do một Tăng sĩ trẻ tuổi trụ trì. Nói
chung, Chùa hay Tự Viện đều chỉ có một người trông coi. Vị nầy là
Viện-chủ, tức là người giữ mối giềng thể thống của tông môn mà duy
trì mạng mạch của Phật giáo cho các thế hệ kế tiếp.
- Chùa đối với
người Việt-Nam có tín ngưỡng là nơi nương tựa tinh thần cần thiết
không thể thiếu được. Nó cũng như chất dinh dưỡng cho các mầm non
của các lớp tuổi trẻ mai sau. Chùa vì thế rất quen thuộc đối với
người dân quê, như gắn liền vào đời sống của họ. Trong khi đó, ở
thành thị được nhắc tới danh từ Tự Viện hơn chùa. Nói một cách
khác, theo thói quen người ta dùng Chùa hay Tự Viện, nhưng chữ Tự
Viện có phần văn vẽ hơn nhiều.
- Chùa là hình
ảnh quen thuộc khó quên trong đời người. Dù có đi đâu xa, ngôi
chùa làng vẫn như còn ngự trị nơi tâm tư của người lữ thứ. Do ý
nghĩa nầy, các nhà thơ, nhà văn không tiếc lời để diễn tả nỗi niềm
cảm mến cảnh chùa của mình thật đậm đà và chan chứa tình nước tình
quê. Đây ta hãy nghe nhà thơ Nguyễn-Bính bộc lộ ý nghĩ chân thành
nầy qua mấy câu thơ sau :
- Quê tôi có gió
bốn mùa,
- Có trăng giữa
tháng, có chùa quanh năm.
- Sương khuya,
gió sớm, trăng rằm,
- Chỉ thanh đạm
thế, âm thầm thế thôi.
- Mai nầy tôi bỏ
quê tôi,
- Bỏ trăng, bỏ
gió chao ôi bỏ chùa !
- Chùa hay Tự
Viện là nơi công cộng cho tín đồ làm chỗ sinh hoạt vào những dịp
lễ vía hay sám hối và hội họp v.v... Như vậy, nơi nào có vị Sư trụ
trì, có tổ chức đoàn thể như gia đình Phật tử, ban-hộ-niệm,
ban-tương-tế xã-hội ... đều được gọi là chùa cả.
- Người Việt hải
ngoại ngày nay đều lập ra các hội Việt kiều Phật tử, phần nhiều
lại thiếu thầy lãnh đạo, nhưng các hội nầy là bước đầu trong việc
lập các ngôi chùa trong tương lai.
-
14.- Thiền Thất Hay Thảo Am Là Gì ? (^)
- Phật giáo
Thiền-tông rất quen thuộc với danh từ thiền thất hay thảo am. Vậy,
ý nghĩa của nó là gì ?
- Thiền thất là
nhà thiền nơi mà vị Tăng sĩ lập ra để tu tập, nhưng lấy việc tọa
thiền làm chánh. Thiền thất vì thế không lớn, chỉ vừa đủ một người
tu tập thôi. Bên trong thiền thất, thiền sinh thường không trang
hoàng gì nhiều, ngoài những hình ảnh và cách tu thiền như mười bức
họa chăn trâu (thập mục ngưu đồ), hình Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma, hình con
trâu đen hoặc trắng có một người dắt trong tư thế đã hàng phục
được trâu, tượng trưng cho tâm hành giả cũng được chế ngự mọi
phiền não do công tu luyện mà thành. Bên ngoài thiền thất thường
có sân rộng với cây cảnh mát mẻ, nhất là vườn có trồng hoa cho
bông đơm nở tốt tươi để làm trợ duyên cho việc tu thiền.
- Thảo am không
là danh từ Phật giáo thuần túy, vì những nhà thơ văn muốn có một
đời sống biệt lập với mọi người, cũng như cần sự yên tỉnh để làm
việc viết lách, đọc sách nên lập ra một túp lều tranh nho nhỏ xinh
xắn để sinh hoạt trong đó. Thảo am vì thế thường không rộng mà chỉ
đủ cho một người ở để việc sinh hoạt về lý trí được yên tỉnh,
không bị hoàn cảnh chung quanh chi phối.
- Ngày nay chúng
ta không tìm thấy thảo am nào ở trong xã hội văn minh vật chất nầy
cả, một phần do cuộc sống hiện tại đã bị nhiễm độc bởi tiếng động
cơ, hơi độc của chất hóa học phóng ra khắp nơi trong vũ trụ, một
phần tâm thức con người cũng đã bị mất thăng bằng giữa đời sống
vật chất và tinh thần, nên ít ai nghĩ tới việc tìm về nơi núi sâu
rừng thẳm để luyện trí chăng ? Song song với danh từ thảo am còn
có "cốc" cũng giống như thiền thất, do các thiền sinh lập để làm
nơi tham thiền, biện đạo.
- Thiền thất,
thảo am, cốc là những nơi dành riêng cho người nào có một tâm thức
sáng ngời và muốn sống gần gũi với thiên nhiên để phát triển tinh
thần trong phạm vi tu tập rất thích hợp.
-
15.- Chánh Điện và Đại Hùng Bảo Điện
Khác Nhau Như Thế Nào ? (^)
- Chánh điện
(sanctuary) là nơi tôn trí, thờ phụng hình tượng Phật, Bồ-Tát
thường được xây ở gian giữa của ngôi chùa.
- Khách từ ngoài
vào cổng chính bước vào chùa liền thấy ngay được hình ảnh đức Phật
tọa trên tòa sen trong tư thế bán già hay kiết già đang nhìn ra
hướng sân chùa. Chánh điện chữ Hán đã được dùng theo nghĩa tiếng
Việt tức là điện thờ Phật. Nếu gọi một cách thành kính trang
nghiêm là Đại-hùng-bảo-điện, điện báu thờ đức đại hùng, tức là đức
Phật có đại-hùng, đại-lực, và đại-từ-bi. Chữ bảo là báu như ngọc
ngà châu báu, trong ý nghĩa của 3 ngôi báu : Phật, Pháp, Tăng, tức
là Tam-Bảo được thờ trong chùa vậy. Mỗi khi ở ngoài vào lễ Phật,
ta gọi là lên chánh điện, ít người gọi điện đại hùng, vì danh từ
chỉ dùng để khắc bản trước điện thờ Phật. Trong ý nghĩa đó, người
Nhật-Bản không gọi điện thờ Phật là chánh điện mà gọi là Hondo
(bổn đường). Hondo có nghĩa là gian nhà chánh giữa, cũng đồng
nghĩa với chữ chánh, trong nghĩa của chữ chánh điện vậy.
- Chánh điện có
lối trang trí như thế nào còn tùy thuộc vào khả năng tài chánh của
mỗi ngôi chùa và theo khiếu thẩm mỹ của người lập nên nữa. Có
nhiều ngôi chánh điện chúng ta mới bước vào đã cảm thấy tâm trí
nhẹ nhàng thư thái như trút bớt được những phiền não ưu tư của
cuộc sống phức tạp ngoài đời. Việc tôn trí chánh điện cho được
trang nghiêm cũng thu hút nhiều người quy về với chánh pháp của
Phật Tổ ... Trong điện thờ Phật thật đơn giản và chỉ một tôn tượng
của đức Thích-Ca, hay Bồ-Tát Quán-Thế-Âm hoặc tượng Phật A-Di-Đà
mà thôi.
- Người hành trì
Phật giáo nhờ sự mới thấu đạt lý, cho nên ngôi chánh điện phải
thật gọn gàng, nhưng không kém phần trang nghiêm và mỹ thuật.
-
16.- Bát Công Đức Thủy Là Thế Nào ? (^)
- Cảnh giới
Cực-Lạc của đức Phật A-Di-Đà an vui thanh tịnh mà ở đó, theo kinh
A-Di-Đà, bốn mùa cây cối xanh tươi và nhạc trời tấu khúc, chim hót
líu lo vang lừng suốt ngày đêm, có ao thất bảo, trong ao chứa nước
đủ 8 thứ công đức. Nước 8 thứ công đức đó là :
- 1.- Nước lóng
trong
- 2.- Lạnh mát
không cáu bợn
- 3.- Vị ngọt
thơm ngon
- 4.- Uống vào
tâm hồn nhẹ nhàng khoan khoái
- 5.- Thấm nhuần
- 6.- An hòa
- 7.- Nước uống
vào trừ được đói khát
- 8.- Nước uống
vào các căn lành đều tăng trưởng.
- Một đoạn trong
kinh Di-Đà nói về nước tám công đức như sau : "Hữu thất bảo trì,
bát công đức thủy sung mãn kỳ trung trì để thuần dĩ : Kim sa bố
địa, tứ biên giai đạo kim ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, nhi
nghiêm sức chi ..."
- (Có ao bảy báu
với nước tám thứ công đức đầy đủ. Trong đáy ao thuần toàn cát vàng
trải ra. Mặt đất và quanh bốn bên lát toàn vàng bạc, lưu-ly,
pha-lê, xa-cừ, ngọc mã-não để trang sức cho cảnh Tịnh-độ ...)
- Cõi Tịnh-độ do
tâm tạo nên, vì thế, những gì diễn tả trong kinh Di-Đà đều là điều
có thật. Ngoài ra, con người ở đó được sống lâu, không già, không
bịnh, không chết. Món ăn, thức uống của người ở cảnh giới Cực-Lạc
toàn bằng thiền định mà được no đủ vui say nên không cần tới thức
ăn.
- Ở đời, chúng ta
gắng công tu hành cho tinh tấn và niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà
nhất tâm tới khi chết được sanh vào thế giới Cực-Lạc là bi nguyện
của đức Phật A-Di-Đà.
-
17.- Y Phục Thường Dùng Của Tăng Sĩ
Có Chia Ra Thứ Loại Nào Không ? (^)
- Trong Phật giáo
không có giai cấp và chức vị song giới hạnh và đạo đức được chú
trọng tới nhiều hơn. Y phục cũng chia ra làm 4 loại như sau :
- * Áo dài 5 thân
: Áo gồm 5 mãnh vải ráp lại và có 3 hột nút cài chéo trước ngực từ
cổ bên trải qua nách bên phải. Loại áo dài nầy dùng cho các em bé
mới tập sự xuất gia ở chùa và tuổi từ 8-15 còn trong thời kỳ hành
điệu (chú tiểu)
- * Áo nhật bình
: Áu mầu nâu hoặc lam mà trước ngực có một mãnh vãi cắt thành hình
chữ nhật có chiều dài từ ngang vai xuống tới trên rốn độ vài phân
(2cm) với bề dài 25cm x 10cm ngang. Loài áo nầy dùng cho thầy nào
đã thọ 10 giới, với số tuổi từ 16-20. Đặc điểm là một hàng nút từ
ngực xuống tới chân gồm 5 hoặc 7 hột.
- * Áo tràng : Áo
có tràng vắt ngang qua phía trước ngực từ vai bên trái qua nách
bên phải và 3 hột nút cài bên nách phía tay phải. Các thầy Tỳ-kheo
(Tăng đã thọ 250 giới) thường mặc loại áo tràng khi đi đường và
lúc giảng đạo.
- Dù y phục có
phân ra như thế, nhưng một số các thầy lớn tuổi vẫn thích mặc áo
nhật bình hơn, nhất là khi tiếp khách và lúc làm việc trong chùa.
- * Áo vạt hò :
Loại nầy ngắn và trông giống như áo bà ba của người nông dân
Việt-Nam. Tuy hình thức có phần khác hơn áo bà ba, vì áo của người
thường có hàng nút thẳng từ cổ xuống giữa bụng, trong khi đó áo
vạt hò thường dài tới quá gối lại có hàng nút nằm phía tay phải
gần bên hông tay phải. Áo vạt hò ngắn gọn rất tiện lợi lúc làm
việc, khi nhổ cỏ, tưới hoa trong vườn chùa.
- Đại loại về y
phục của người tu sĩ Phật giáo được phân ra như thế để chúng ta dễ
nhận thức. Còn riêng về phẩm phục lúc hành lễ lại có hình thức
khác hơn nhiều.
-
18.- Y Phục Của Tăng Sĩ Về Mầu Sắc
Tại Sao Có Sự Khác Nhau ? (^)
- Y phục của hàng
tăng sĩ mầu sắc tuy có nhiều song mầu thông dụng nhất vẫn là mầu
vàng cam. Chính đức Phật Thích-Ca vẫn thường mặc chiếc y vàng để
đi du thuyết hóa độ chúng sanh khi Ngài còn tại thế.
- Mầu sắc y phục
được thay đổi theo mỗi quốc gia để được phù hợp với phong tục, địa
lý của từng nơi, do đó người Tăng sĩ Phật giáo không hẳn bắt buộc
phải theo đúng một khuôn mẫu cố định nào. Tuy nhiên, trên hình
thức chúng ta phân biệt được hai hạng tu sĩ : Quấn y vàng khi họ
đi đường và một số khác mặc y phục mầu đà hoặc mầu lam. Khi ra
đường đắp y mầu vàng là hình thức của người tu theo phái nguyên
thủy Phật giáo hay phái Therevada. Như ở các nước Tích-Lan,
Thái-Lan, Cambodia, Lào một số chư Tăng thực hành Phật giáo theo
hạnh khất thực nầy. Trong khi đó, mầu lam hay mầu khói hương lại
rất thông dụng với người tu hành các nước như Trung-Quốc,
Triều-Tiên, Việt-Nam. Phật giáo Nhật-Bản tùy theo mỗi tông phái và
cấp bậc của họ mà mầu sắc y phục cũng thay đổi. Theo phái
Thiền-tông, mầu đem rất thông dụng, và các mầu vàng, tím, xanh lá
mạ cũng dùng cho y phục lúc hành lễ.
- Câu nói :
"Chiếc áo không làm nên thầy tu" thì mầu sắc của y phục cũng chỉ
là trên mặt hình thức và thói quen của mỗi dân tộc.
- Việc quan trọng
và cần thiết đối với người học Phật là nghiên cứu giáo điển để cầu
đạt ngộ chân lý, còn hình thức chỉ là sự tướng mà thôi.
-
19.- Phẩm Phục Của Tăng Sĩ Phật Giáo
Ra Sao ? (^)
- Phẩm phục là áo
dùng khi hành lễ và người Tăng sĩ gọi là chiếc y và cái áo hậu (áo
mặc trong).
- Có 3 loại y như
sau :
- - Y năm điều :
Vải may y cắt thành từng ô ráp lại, mỗi ô hình chữ nhật dài và
ngắn xen kẻ nhau trên toàn thể chiếc y chia thành 5 đường dọc và 2
đường ngang (chữ nhật dài 40 cm x 20 cm, khung chữ nhật ngắn 30 cm
x 20 cm).
- - Y bảy điều :
Trên toàn thể chiếc y chia thành bảy phần dọc và 3 phần vải cắt
ngang 2 khung dài 1 khung ngắn. Tiếng Phạn gọi là Uất-đa-la-tăng
và tiếng Trung-Hoa dịch là Thượng-trước-y : Cái y ở ngoài và mặc
lúc làm lễ trong chùa.
- - Y chín điều :
Gồm 9 khung dọc và 3 khung ngang với 2 mãnh hình chữ nhật dài liền
nhau rồi tiếp theo một mãnh ngắn trên toàn thể chiếc y, gọi đây là
Tăng-già-lê cũng dùng trong việc lễ bái, khi đi đường hoặc các
cuộc gặp gỡ quan trọng. Ngoài 3 loại phẩm phục, người Tăng sĩ còn
2 loại y phục nữa là y 12 điều và y 25 điều. Y 9 điều gọi là hạ
phẩm của đại y, y 12 điều là trung phẩm và y 25 điều là đại phẩm
của đại y. Y 25 điều hay y bách nạp gồm có 100 mãnh vải khác màu
sắc kết lại mà thành. Người Tăng sĩ coi chiếc y như mạng sống, vì
y pháp bất ly thân. Do đó, lúc đi xa, khi có công việc cần cấp họ
đều mang y theo bên mình để tùy cơ ứng pháp, Vì Phật pháp bất ly
thế gian pháp.
- Chiếc y là
ruộng phước đức để hàng Phật tử gieo trồng vào mãnh vườn của ngôi
nhà Phật giáo, nên người mang y không thể không cẩn trọng giữ
gìn.
-
20.- Tăng Già Có Phải Là Tăng Sĩ Lớn
Tuổi Không ? (^)
- Tăng-già không
có nghĩa là các vị tu hành đã lớn tuổi như có một số người giải
thích. Danh từ Tăng-già, chư Tăng hay chúng Tăng chỉ một đoàn thể
hòa hợp từ 4 thầy Tỳ-kheo trở lên mới gọi được là Tăng-già.
- Tăng-già còn
dùng chỉ các tu sĩ Phật giáo có học thức, đạo đức và giữ gìn giới
luật của Phật Tổ được thanh tịnh, trọn vẹn không sái phạm. Chư
Tăng sống chung nhau trong cùng một tự viện có sự hòa hợp nhường
nhịn nhau từ lời nói, ý nghĩ, hành động, nhờ đó có thể giải quyết
được mọi tranh chấp, cải vả ... vô ích để cùng nhau răn nhắc tu
hành giới đức trang nghiêm, ngỏ hầu thực hành Phật giáo một cách
đầy đủ theo phương pháp khoa học và sau đem áp dụng giáo lý vào
đời sống xã hội. Những Tăng sĩ ưa tranh chấp, ngã mạn, tự cao
không còn đủ tư cách xứng đáng để gọi là Tăng-già được nữa, vì
chính bản thân các Tỳ-kheo ấy đã không có sự hòa hợp chung với các
bằng hữu đồng tu khác thì việc hòa mình của họ với tín đồ khó
thành tựu được.
- Ngoài ra
Tăng-già không có nghĩa hòa hợp trong phạm vi đoàn thể chư Tăng mà
nó còn chỉ cho cái cung cách gương mẫu, đạo đức nơi họ đối với
hàng Phật tử tại gia nữa. Có người lấy làm thắc mắc rằng một thầy
Tỳ-kheo trụ trì trong một ngôi chùa thì không đủ tư cách để gọi
được Tăng-già chăng ? Như đã nói ở trên, nhưng riêng cá nhân vị ấy
cũng đủ tác phong đạo đức để cho hàng Phật tử cung kính, học hỏi.
Nếu trong trường hợp chỉ có một Tăng sĩ độc nhất thì chỉ gọi được
Tăng sĩ hoặc tu sĩ mà không thể xưng Tăng-già được, vì chưa đủ số
chúng Tăng trong phép hòa hợp.
- Nơi nào có chư
Tăng cùng nhau tu học và giữ gìn giới hạnh thật trang nghiêm, nơi
đó chứng tỏ đạo Phật được hưng thịnh và giáo pháp Phật-Đà được
xiển dương sâu rộng trong quần chúng để nhiều người có cơ hội tu
học.
-
21.-
La Hán Là Quả Vị Thứ Mấy Trong Việc Tu Chứng ? (^)
- La-hán nói cho
đủ là A-la-hán (Arahan), quả vị tu chứng cao tột đỉnh của hàng
Tiểu-thừa Phật giáo.
- Trong 4 quả vị
Thánh của bậc Tiểu-thừa là Tu-đà-hoàn, (mới nhập vào dòng Thánh
gọi là Dự-lưu), Tư-đà-hàm (còn một lần sanh trở lại thế gian nữa
nên gọi là Nhất-lai), A-na-hàm (phiền não hoặc nghiệp đã đoạn trừ
và không vào đời nầy nữa ở kiếp sau gọi là Bất-hoàn) và A-la-hán
(không còn bị dòng sanh tử chi phối nên gọi là Bất-sanh). A-la-hán
có 3 nghĩa :
- 1- Sát-tặc :
Tức là đoạn diệt tất cả giặc phiền não nơi tự thâm tâm và giặc
ngoại cảnh.
- 2- Ứng-cúng :
Bậc đã giác ngộ có thể thọ nhận của trời người cúng dường.
- 3- Bất-sanh :
Tức nhập Niết-Bàn vĩnh viễn không còn thọ quả báo trong vòng sanh
tử nữa.
- A-la-hán còn
gọi Bích-chi-Phật, vì hàng Tiểu-thừa chí đạt tới quả vị tu chứng
cuối cùng là A-la-hán mà thôi. Ngoài ra, 18 hình tượng La-Hán được
thờ trong một số các chùa là chững vị nào ? Đó là :
- 1-
Tân-Đỗ-La-Bạt-La-Đọa-Xà tôn giả
- 2-
Tân-Đầu-Lư-Phả-La-Đọa tôn giả
- 3-
Ca-Nặc-Ca-Phạt-Tha tôn giả
- 4- Tô-Tần-La-Dà
tôn giả
- 5- Nặc-Cự-La
tôn giả
- 6- Bạt-Đà-La
tôn giả
- 7- Ca-Lý-Ca tôn
giả
- 8-
Phạt-Xà-La-Phất-Đa-La tôn giả
- 9- Thú-Bác-Ca
tôn giả
- 10- Bán-Thát-Ca
tôn giả
- 11- La-Hầu-La
tôn giả
- 12-
Na-Già-Tê-Na tôn giả
- 13- Nhơn-Yết-Đà
tôn giả
- 14-
Phạt-Na-Bà-Tư tôn giả
- 15- A-Thị-Đa
tôn giả
- 16-
Chú-Trà-Bán-Thác-Ca tôn giả
- 17-
Châu-Lợi-Bàn-Đặc (Châu-Lợi-Bàn-Đà) tôn giả.
- 18- Khánh-Hữu
(Nan-Đề-Mật-Đa-La) tôn giả.
- Những vị La-hán
thường được nhắc tới tên là ngài Tân-Đầu-Lư tôn giả, ngài
Châu-Lợi-Bàn-Đà hay ngài Nan-Đề-Mật-Đa tôn giả. Kinh Trung-A-Hàm
có nói về sự tích của các vị A-la-hán nầy.
-
22.- Phật Học Viện Và Phật Học Đường
Khác Hay Giống Nhau ? (^)
- Nơi nào chư
Tăng hay Ni cùng nhau tập trung lại một chỗ để tu học dưới sự lãnh
đạo của một Ban-giám-đốc gọi là Phật-Học-Đường.
- Nhìn tổng quát
ta vẫn tưởng rằng giữa Phật-Học-Viện và Phật-Học-Đường giống nhau,
nhưng phân tích để tìm hiểu ta sẽ thấy sự khác nhau.
Phật-Học-Đường vốn có một lịch sử lâu dài như Phật-Học-Đường chùa
Quán-Sứ Hà-Nội, Phật-Học-Đường Báo-Quốc (Huế), Phật-Học-Đường
Lưỡng-Xuyên (Vĩnh-Bình). Phật-Học-Đường chỉ cho nơi nào có từ 10
Tăng sĩ sinh hoạt trở lên và tổ chức thành lớp học với một ban
giảng huấn hẳn hoi, cũng như giảng đường, trai đường, thiền đường
và chánh điện thờ Phật nơi đó gọi là Phật-Học-Đường. Ngoài ra,
việc giáo dục ở trong các Phật-Học-Đường phải theo một hệ thống
giáo dục thuộc Giáo-Hội, tức là có chia ra thành nhiều cấp bậc từ
thấp đến cao như : Sơ-đẳng, Trung-đẳng và lớp Cao-đẳng Phật-giáo.
Trong khi đó, Phật-Học-Viện cũng có lối tổ chức giống nhau, nhưng
có tính cách quy mô rộng lớn hơn nhiều. Phật-Học-Viện chỉ mới xuất
hiện sau nầy vào thập niên 1960-1970 như Phật-Học-Viện Hải-Đức
(Nha-Trang), Phật-Học-Viện Huệ-Nghiêm (Sàigòn), Phật-Học-Viện
Nalanda (Ấn-Độ) ... là những nơi có thể dung nạp được từ 50 Tăng
sinh trở lên đến 300 Tăng sinh trở lại. Trong lịch sử Phật giáo
Việt-Nam có lẽ lần đầu tiên tại Phật-Học-Viện Huệ-Nghiêm có tới
con số dưới 300 tăng sinh cùng nhau ở chung tu học (1964-1965).
- Ngoài ra,
Phật-Học-Viện còn theo chương trình giáo dục song phương, tức là
ngoài Phật học ra, chư Tăng còn theo học cả chương trình của bộ
giáo dục nữa. Sau khi chư Tăng tốt nghiệp Trung-đẳng Phật giáo,
đồng thời cũng tốt nghiệp Trung-học đệ nhị cấp, nếu tiếp tục việc
học họ sẽ vào các Đại-học ngoài đời hay Đại-học Phật giáo hoặc
theo học ở một lớp cao đẳng Phật học chuyên khoa.
- Phật-Học-Viện
và Phật-Học-Đường đều là những nơi đào tạo tăng tài để cung ứng
cho nhu cầu Phật sự những cán bộ trung kiên của Phật giáo.
-
23.- Nhị Giáo Là Gì ? (^)
- Danh từ nhị
giáo do tông Chân-ngôn Thiên-Thai phân biệt từ Hiển-giáo và
Mật-giáo mà thành nhị giáo.
- Dựa vào giáo
pháp của đức Phật Thích-Ca mà thành lập Hiển-giáo hay Mật-giáo hay
tiệm và đốn-giáo. Căn cứ vào đâu để chia ra tiệm và đốn ? Các vị
Bồ-Tát thuộc hàng Đại-thừa trực tiếp lãnh hội giáo pháp của đức
Phật để tu hành và được giải thoát ngay trong đời nầy gọi là
đốn-giáo, trong khi đó hàng Tiểu-thừa y cứ vào các kinh điển tu
tập tức là tự tu tự độ, do đó việc giải thoát có phần chậm hơn gọi
là tiệm-giáo. Tiệm có nghĩa là dần dần theo cấp độ của bài tính
cộng.
- Những nhà
Phật-học Trung-Quốc còn chia thành Nội-giáo và Ngoại-giáo. Phàm
phu chúng ta muốn thoát ly khỏi tam giới cần phải nương vào giáo
pháp thực hành gọi là Nội-giáo. Các bậc Bồ-Tát tu theo các pháp
lục-độ vạn-hạnh (xem bài riêng) để thoát được ba cõi gọi là
Ngoại-giáo. Ngài Đàm-Vô-Sấm đời Tây-Tấn còn chia nhị giáo như sau
: Bán-tự-giáo và mãn-tự-giáo cũng để chỉ phiền não và Bồ-đề vậy.
- Theo như kinh
Pháp-Hoa Huyền-Nghĩa lại chia làm Biên-giáo và Viên-giáo hay Quyền
và Thật. Nhưng nếu căn cứ vào Luận Chỉ Quán lại chia thế-gian-giáo
và xuất-thế-gian-giáo. Theo Luận Đại-Thừa Nghĩa-Chương thì gọi
liễu-nghĩa và bất-liễu-nghĩa, gọi là nhị-giáo để chỉ cho sự giải
thoát của Đại-thừa và Tiểu-thừa.
- Sự lập luận tuy
có nhiều trình độ tu tập của các chúng đệ tử Phật, và do sự đạt
ngộ cao hay thấp để phần Đốn hoặc Tiệm, Quyền và Thật v.v...
- Phật giáo cần
nhất ở thực hành, còn hình thức phân chia dù có nhiều hơn nhị giáo
đi nữa, cái tinh thần giải thoát và giáo pháp của đức Phật không
vì đó mà tăng hay giảm.
-
24.- Bảy Cách Lễ Phật Ra Sao ? (^)
- Lễ Phật có
nhiều cách khác nhau, nếu để ý phân biệt ta sẽ thấy rõ ý nghĩa của
mỗi cách như dưới đây :
- - Lễ Phật vì
tâm cống cao ngã mạn
- - Lễ Phật để
cầu danh
- - Đem cả thân
tâm lễ Phật
- - Lễ Phật do
lòng thanh tịnh
- - Lễ Phật để
cầu nhập vào cõi pháp giới
- - Thành tâm tu
quán các pháp mà lễ Phật
- - Vì thật tướng
bình đẳng nên lễ Phật.
- Hai cách lễ đầu
tiên do tâm trí tạp loạn của những người chưa thật tâm trong việc
lễ bái đúng nghĩa. Có nhiều lý do khiến người lạy Phật mà ngay
chính nơi thâm tâm họ không thật sự cung kính, với mục đích khác
ngoài việc phát tâm tu hành theo Phật đạo. Còn 5 cách lễ sau mới
thật sự là người có thật tâm lễ Phật trong cung cách của kẻ tu
hành học đạo. Cách lễ Phật cung kính nhất là từ đầu mặt, cho tới
chân tay và cả tâm tư đều chí thành đảnh lễ mới đúng nghĩa lạy đối
với người thực hành Phật giáo.
- Hành giả muốn
tu có kết quả, tức là muốn đạt đến giải thoát, việc trước tiên
trong khi lạy Phật phải thật tâm để tỏ "sự" rồi mới đạt đến lý sâu
xa. Nếu còn nuôi dưỡng tâm cống cao ngã mạn hay để cầu được tiếng
tăm mà lễ Phật, thì việc lễ bái đã không có lợi ích gì lại còn làm
trò cười cho người khác nữa.
- Lễ Phật chỉ có
một lòng chí thành cung kính và tập trung tư tưởng trong chánh
niệm mới đạt được lợi ích thiết thật cho người thực hành.
-
25.- Mười Đại Nguyện Trong Bài Sám
Phổ Hiền Là Gì ? (^)
- Tại các chùa
chư Tăng mỗi buổi sáng, sau khi tụng kinh Lăng-Nghiêm xong, thường
tụng bài Sám-Thập-Nguyện của ngài Phổ-Hiền. Mười nguyện đó là gì
?
- 1- Kính lễ chư
Phật.
- 2- Xưng tán các
đức Như-Lai
- 3- Cúng dường
chư Phật
- 4- Sám hối tội
lỗi
- 5- Vui, ưa làm
việc công đức
- 6- Thỉnh cầu
chư Phật chuyển nói chánh pháp độ sanh.
- 7- Cầu Phật an
trụ lâu nơi đời.
- 8- Thuận theo
Phật Pháp để tu hành.
- 9- Hòa thuận,
lăn xã vào đời để làm việc lợi ích chung.
- 10- Hồi hướng
công đức đến tất cả mọi loài chúng sanh.
- Trong 10 lời
phát nguyện trên, gồm có 5 phần quang trọng, gọi là ngũ hối (5
điều ăn năn hối lỗi) được chia thứ tự nhau sau :
- 1- Nguyện thứ
1-3 : Quy mạng tức đem thân mạng nương về với Phật, Pháp, Tăng.
- 2- Sám hối tội
chướng cho việc ác tiêu trừ.
- 3- Vui theo
việc thiện của người khác làm.
- 4- Nguyện thứ
6-8 : Cầu thỉnh Phật nói pháp và nguyện theo học.
- 5- Nguyện thứ
9-10 : Hồi hướng công đức lành đến mọi loài chúng sanh đều được
lợi lạc, an vui.
- Người Tăng sĩ
sống trong Tự Viện luôn luôn tâm niệm những ý nguyện cao cả độ
sanh và thực hành lòng đại bi như ngài Phổ-Hiền vậy.
-
26.- Nhị Môn Là Gì ? (^)
- Có rất nhiều lý
luận và định nghĩa về danh từ nhị môn. Nhị môn là hai cửa theo
nghĩa thông thường. Còn theo Phật giáo, nhị môn là gì ? sau đây là
một số những định nghĩa :
- - Cửa Thánh đạo
và cửa Tịnh-độ.
- - Cửa che lập
(phàm tục) và cửa mở rộng (Thánh môn)
- - Cửa lưu
chuyển và cửa hoàn diệt.
- - Cửa chân như
và cửa sanh diệt.
- - Cửa phước đức
và cửa trí huệ.
- Trở lên qua
những cách phân chia hai cửa cho thấy rằng cửa của phàm phu và cửa
của bậc Thánh nhân là một sự đối nghịch nhau. Nếu biết tu sửa
những hành vi thô xấu của con người trần thế, ta có thể từ nơi
phàm mà vào dòng Thánh là hai lối đi, tuy không có hình tướng
nhưng luôn mở rộng để đón tiếp những người nào chuyên cần tinh tấn
trong việc tu niệm. Tùy theo người chọn phương pháp (pháp môn) tu
để đạt được chân lý mà có phân ra thành nhiều nghĩa khác nhau,
thật ra cũng chỉ để phân biệt giữa kẻ phàm tục và người đã giác
ngộ mà thôi. Vì tất cả đều chỉ sự giải thoát và mê lầm vậy. Con
người khi chưa tu hành tức còn những phiền não, nhiễm trước gọi là
phàm phu và những kẻ đã dày công tu niệm lại tìm thấy được niềm an
vui, tự tại, đó là các bậc siêu phàm hay là Thánh nhân.
- Như vậy, nhị
môn là chỉ cho hai cánh cửa đang mở tung ra để cho người nào khéo
xếp đặt có thể bước vào được ngôi nhà rộng của chánh pháp, còn như
đối với kẻ lơ là sẽ bị lạc đường đi vào những ngỏ ngách tối tăm
nguy hiểm của đọa lạc, tối tăm.
-
28.- Thập Huyền Môn Hay Thập Huyền
Duyên Khởi Lý Sự Vô Ngại Pháp Môn Là Gì ? (^)
- Lập luận của
Đại-thừa Phật giáo đưa người tu hành đạt tới chỗ chứng đắc cần
hiểu rõ cả sự và lý mà 10 pháp môn huyền diệu sau đây là cửa ngỏ
để đi vào ngôi nhà Chánh-pháp của chư Phật.
- Có nhiều cách
trình bày 10 pháp môn, song cách phổ thông hơn cả mà nhiều người
biết tới là :
- 1.- Đồng thời
cụ túc tương ưng môn (các pháp tương ứng hòa hợp)
- 2.- Quảng hiệp
tự tại vô ngại môn (rộng, hẹp đều tự tại không gì ngăn ngại)
- 3.- Nhất đa
tương dung bất đồng môn (một và tất cả đều tương dung nhau)
- 4.- Chư pháp
tướng tức tự tại môn (thật tướng của các pháp đều như vậy)
- 5.- Bí mật ẩn
hiện câu thành môn (mật, hiển đều thành hình sự vật)
- 6.- Vi tế tương
dung an lập môn (mọi vật dù nhỏ đến đâu cũng hình thành tự nhiên)
- 7.- Nhân
Đà-la-ni cương cảnh giới môn (Cảnh giới Đà-la-ni là cảnh bao la vô
tận, các bậc giác ngộ chứng đắc và lấy đó làm khuôn mẫu cho người
tu hành)
- 8.- Thát sự
hiển pháp sanh giải môn (nương vào sự vật để đạt tới lý hầu giải
thích sự vật)
- 9.- Thập thế
cách pháp dị thành môn (các pháp môn tu tập khác nhau phải trải
qua nhiều đời mới đạt được)
- 10.- Chủ bạn
viên minh cụ đức môn (không còn phân biệt chủ và khách nữa mà đồng
viên thành các đức tánh đầy đủ)
- Nói tóm lại,
Mật-giáo căn cứ vào lập trường theo lý chân không của kinh
Bát-Nhã, sắc tức thị không, không tức thị sắc ... và triển khai tư
tưởng nầy mà lập thành 10 cửa huyền diệu để dẫn hành giả đạt tới
lý mầu của Đại-thừa Phật giáo.
- ***********
-
Sách tham khảo :
- -
Tư-Tưởng Việt-Nam của
Nguyễn-Đăng-Thục. Nhà xuất bản Khai-Trí, Sàigòn 1964.
-
- Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt-Nam
của Vũ-Ngọc-Phan. Nhà xuất bản Khoa-Học Xã-Hội, 1978.
-
29.-
Pháp Quán Ngũ Đình Tâm Là Gì ? (^)
-
Ngũ-đình-tâm-quán là một pháp tu quán tưởng để cho tâm dừng các
vọng niệm mà hàng Tiểu-thừa thực hành trong 5 pháp quán. Đây là
quả vị đầu tiên hàng Thanh-văn chứng nhập có 2 loại :
- 1.-
Bất-định-quán : Quán sát tướng trạng của các cảnh giới đều bất
tịnh để làm đình chỉ việc tham dục, đối với người tu có tâm nhiều
tham trước.
- 2.- Từ-bi-quán
: Hướng về các loài hữu tình chúng sanh đều có sự liên quan với
nhau, là một pháp làm dứt tâm sân hận.
- 3.-
Nhân-duyên-quán : Quán pháp 12 nhân duyên liên tục cả quá-khứ
hiện-tại và tương-lai để đình chỉ ngu si đối với người tu hành
nhiều ngu tối.
- 4.-
Giới-phân-biệt-quán : Theo các pháp phân ra 6 giới hay 18 giới là
pháp làm dứt ngã kiến áp dụng cho người tu kiến chấp sai lầm.
- 5.- Sổ-tức-quán
: Cách đếm và điều hòa hơi thở để làm cho tâm loạn động trở thành
thanh tịnh. Còn một lối phần ngũ-đình-tâm như sau : Bất-định,
từ-bi, nhân-duyên, niệm Phật và sổ-tức-quán (đếm hơi thở).
- Nhờ quán sát kỹ
các tướng trạng hay mặt thật của vũ trụ muôn loài mà tu tập đạo
giải thoát để thấy rõ chân lý, thật tánh của các pháp do tâm đã
gạn lọc sạch vọng niệm. Hành giả trải qua 5 phép quán niệm như thế
gọi là 5 cách dừng tâm tạp niệm.
- Quán sát đến
khi nào tâm ta lắng trong như mặt nước không bị cáu bợn và không
còn vẫn đục nữa, lúc đó là giai đoạn tỏ rạng được lý mầu của đạo
sáng tỏa mười phương.
-
30.- Thập Mục Ngưu Đồ LÀ Gì ? (^)
- Thường thường
tại các trung tâm tu thiền, nơi vách tường có trưng bày 10 bức họa
chăn trâu. Cái tâm ta buông lung theo ngoại cảnh và nhờ tu thiền
định mà hàng phục được, nhưng phải trải qua 10 giai đoạn như người
chăn dắt con trâu hung dữ :
- 1- Tìm trâu
- 2- Thấy được
dấu chân trâu
- 3- Nhận ra đúng
là trâu
- 4- Bắt trâu trở
lại
- 5- Trâu đã bị
xỏ mũi
- 6- Cưởi trên
lưng trâu trở về nhà
- 7- Quên trâu,
chỉ còn thấy bóng dáng người chăn
- 8- Cả người và
trâu đều không ai cần để ý tới nữa.
- 9- Trở về với
nguồn gốc, tức tìm lại bản chân tâm.
- 10- Xông xáo đi
vào đời một cách an nhiên không trở ngại.
- Mười bức họa
tượng trưng nầy không rõ do ai tạo ra và có từ lúc nào, nhưng căn
cứ vào tranh vẽ hội họa do Quách-Am Thiền-sư (?) làm ra đồ hình và
có kèm theo 10 bài tụng để giải thích rõ mỗi giai đoạn trong bức
họa. Còn nếu ta khảo cứu kỹ ở các bộ ngữ lục thì 10 bức họa chăn
trâu do ngài Thanh-Cư Thiền-sư tác (điều nầy cũng chưa lấy gì làm
chắc chắn), vì 10 bức họa do ngài Thanh-Cư tạo khác với nét vẽ ở
những đồ hình ngày nay. Song căn cứ vào thứ tự hình thức trong các
hình vẽ thì chính ngài Quách-Am đã sửa đổi lại các bức họa cho phù
hợp với các giai đoạn chuyển biến của tâm để lưu hành cho tới ngày
nay chăng ?
- Nhìn vào 10 bức
tranh, chúng ta thấy có sự tiến bộ rõ rệt trong việc tu tập vì
hành giả phải vận dụng rất nhiều công phu. Con người từ chỗ vô
minh (lúc đi tìm trâu), tìm thấy dấu chân và nhận ra không lầm
trâu, đến chỗ hàng phục được mọi khó khăn (ở bức họa số 4 và 5)
của dục vọng, phiền não khuấy động từ tâm thức. Từ đó hành giả cần
phải gia công tu tập mới đạt được trạng thái an tỉnh tâm hồn (hình
6) mà không còn bị giặc phiền não chi phối nữa. Đến đây là giai
đoạn đã khá vững vàng trên đường tu tập và có thể hòa nhập vào
chân tâm, tức tìm lại được bản lai diện mục của mình (bức họa 8 và
9). Cuối cùng là nắm được trọn vẹn bí pháp để lăn xả vào đời cứu
độ chúng sanh mà không ngại bất cứ một chướng duyên nào có thể
ngăn chặn được chí hướng của ta cả.
- Đó là tất cả ý
nghĩa của 10 bức họa. Người tu hành chịu khó nhìn vào nơi mỗi bức
họa quan sát và suy nghĩ sẽ rõ được ý nghĩa sâu sắc trong việc tu
thiền cũng chẳng khác gì người tìm trâu vậy.
-
-
--o0o--
Xem Tiếp Trang Kế
|
|