PHẬT HỌC CƠ BẢN
Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
Chương 6
(Trang 47 - 55.)
Phát Triển Tinh
Thần (Ðịnh)
Mental Development.
~~~~~~~
Trong chương
này ta sẽ xét đến ‘Con đường Tám bước’ (Bát Chánh Ðạo) nằm trong
nhóm có tên là phát triển tinh thần. Chúng ta đã biết sự liên đới
nhau giữa các giai đoạn của tám bước. Ðây là điều quan trọng đặc
biệt để hiểu vị trí của sự phát triển tinh thần. Ðược đặt giữa
giới đức và trí huệ, thiền định (tức phát triển tinh thần) có liên
hệ và quan trọng đối với cả hai. Tại sao lại như vậy? Thường
thường, người ta hay nghĩ chỉ cần theo giới luật để có đức hạnh là
đủ để sống một cuộc đời tốt đẹp.
Xin có một vài
câu trả lời cho câu hỏi này. Ngoài mục tiêu hạnh phúc và sung mãn,
Phật giáo còn có mục tiêu tự do nữa. Ðể đạt được tự do, ta phải có
trí tuệ qua cách độc nhứt là thiền định. Dù thực hành đúng các
giới đức, ta cũng cần thiền định vì nó giúp ích thêm cho đức hạnh
ta nếu không muốn nói là cần thiết. Tại sao? Vì thực tập theo các
giới luật trong tình trạng thuận lợi vẫn dễ dàng hơn là ở trong
tình trạng căng thẳng. Có việc làm tốt, đủ sống cho chính mình và
cho gia đình, sống trong xã hội an bình: đây là điều tương đối khá
dễ dàng để hành trì các giới luật. Nhưng khi chính mình ở trong
tình trạng căng thẳng, bất ổn và không chắc chắn--như khi mất việc
hay ở trong hoàn cảnh mà tình trạng vô luật pháp thắng thế,
v.v...việc theo các giới luật sẽ có sự khó khăn.
Ðó là lý do tại
sao chỉ có thiền định cho tâm an mới có thể bảo đảm cho sự thực
hành đúng các giới đức. Ðể làm mạnh thêm khả năng trí óc và kiểm
soát nó hữu hiệu, sự định tâm giúp ta bảo đảm tuân thủ các giới
luật, đồng thời trợ giúp thực sự mục tiêu nhìn thấy sự việc theo
đúng thực tướng của chúng. Ðịnh tâm chuẩn bị cho đầu óc hoàn thành
trí huệ, nó giúp ta mở cánh cửa tự do và giác ngộ. Ðịnh tâm vì thế
có một vai trò quan trọng rõ rệt trong sự thực hành Bát Chánh Ðạo.
Trang 57. Sự
nhấn mạnh của Phật giáo vào sự định tâm là điều không ngạc nhiên
khi chúng ta nhớ đến sự quan trọng của cái tâm trong ý niệm về
kinh nghiệm của Phật giáo. Tâm là yếu tố đơn độc quan trọng nhất
trong việc thi hành Bát Chánh Ðạo. Chính đức Phật nhấn mạnh rõ
ràng khi nói rằng tâm trí là nguồn gốc của tất cả sự vật và rằng
tất cả các sự vật được tạo ra bởi tâm trí. Cũng như vậy, người ta
nói rằng tâm trí là nguồn gốc của tất cả các phẩm hạnh.
Ðể đạt được
những phẩm hạnh này, bạn phải rèn luyện tâm. Tâm là chìa khóa để
thay đổi bản chất của kinh nghiệm. Người ta nói rằng, nếu chúng ta
phải che đậy toàn thể mặt đất với một chất mềm nhưng đàn hồi để
bảo vệ đôi chân của chúng ta không bị gai nhọn và đá sỏi, quả thật
đây là điều rất khó làm. Nhưng nếu chỉ bao bàn chân ta với đôi
giày thì cũng giống như toàn thể mặt đất được bao phủ. Cũng giống
như vậy, nếu phải thanh lọc toàn thể vũ trụ khỏi tham dục, sân
giận và si mê thì quả thật là điều rất khó. Nhưng nếu chỉ thanh
lọc tâm trí ta ra khỏi ba phiền não thì cũng như chúng ta đã thanh
lọc được toàn thể thế giới phiền não. Phật giáo chú trọng vào tâm
trí vì nó là chìa khóa thay đổi cái cách chúng ta chứng nghiệm các
sự vật và liên hệ với tha nhân.
Sự quan trọng
của tâm trí cũng được thừa nhận bởi các khoa học gia, tâm lý gia
và cả vật lý gia. Bạn có thể đã biết đến một số các kỷ thuật mà
hiện nay các nhà trị liệu tây phương đang dùng cho khả năng tưởng
tượng của con người. Họ dùng các phương pháp một cách thành công
tương tự như các kỷ thuật nổi tiếng của thiền định để giúp các
bệnh nhân khắc phục bệnh tâm thần, đau nhức trầm kha cùng các bệnh
tật khác. Phương pháp thực hành này hiện nay được chấp nhận trong
cộng đồng trị liệu.
Trang 58. Tất
cả chúng ta đều có thể nhìn vào kinh nghiệm của mình để biết được
ảnh hưởng của tâm vào thể trạng riêng của mình. Tất cả chúng ta đã
hưởng hạnh phúc và biết được ảnh hưởng lợi lạc của nó như thế nào
vào các sinh hoạt của mình. Ðược ở trong tình trạng như vậy, chúng
ta thấy mình hữu ích, phản ứng thích đáng và có khả năng hành động
tốt đẹp nhất. Những lúc tâm trí bị xáo trộn, chán nản, hoặc bị
tràn ngập bởi những cảm tính có hại, chúng ta thấy dù cẩn thận
cũng không thể hoàn thành những việc thật giản dị. Do vậy, chúng
ta có thể thấy được sự quan trọng của cái tâm trong bất cứ phạm vi
đời sống nào mà chúng ta muốn xét đến.
Ba bước trong
Bát Chánh Ðạo được đề cập trong sự định tâm là ‘Chánh tinh tấn (Cố
gắng đúng), Chánh niệm (Nhớ nghĩ đúng) và Chánh định (Ðịnh thần
đúng)’. Ba bước này khuyến khích và giúp đỡ ta tự lực, chú tâm và
an tịnh.
Trang 58. Nói
chung, ‘Cố gắng đúng’ (Chánh tinh tấn) là vun trồng một thái độ tự
tin vào công việc làm của mình. Chúng ta cũng có thể gọi ‘Cố gắng
đúng’ là ‘nhiệt tâm’. Chánh tinh tấn là nhận lấy và theo đuổi công
việc của mình với lòng nhiệt thành và một ý chí thi hành cho đến
cùng. Người ta hay nói rằng chúng ta phải làm công việc của mình
giống như một chú voi đi vào hồ nước mát khi bị cái nóng của ánh
nắng mặt trời giữa trưa. Với loại cố gắng này, chúng ta có thể
thành công trong bất cứ kế hoạch nào mà ta muốn làm, hoặc trong
học tập, hoặc trong sự nghiệp hay thực hành Pháp Phật.
Trong ý nghĩa
này, chúng ta có thể nói Cố gắng đúng (Chánh tinh tấn) là cách
thực hành lòng tự tin của mình sao cho hữu ích. Nếu không chịu cố
gắng vào việc làm của mình làm sao ta có thể hy vọng thành công.
Hơn nữa sự cố gắng phải được cân nhắc, ở đây chúng ta nên nhớ lại
đặc tính căn bản của Trung đạo với thí dụ của các sợi dây của cây
đàn luýt. Cố gắng không nên quá căng, quá bó buộc và cũng không
nên quá lỏng lẻo. Ðây là những gì mà chúng ta muốn nói đến ‘Chánh
tinh tấn’ (tức cần mẫn, nỗ lực, cố gắng đúng): một quyết tâm có
kiểm soát, bền chí và vui vẻ.
Trang 59. ‘Cố
gắng đúng’ được định nghĩa như sau: 1. cố gắng đề phòng sự xuất
hiện của tư tưởng không lành mạnh, 2. cố gắng diệt bỏ những tư
tưởng không lành mạnh một khi nó hiện ra, 3. cố gắng nghĩ tưởng
đến những tư tưởng lành mạnh và 4. cố gắng duy trì những tư tưởng
lành mạnh. Mặt thứ tư rất quan trọng bởi vì tư tưởng lành mạnh
thường hay ‘chết yểu’ khi ta vừa vun trồng được nó. Bốn mặt này
tập trung khả năng trí óc vào tinh thần của chúng ta. Mục tiêu của
chúng là: giảm bớt và sau đó diệt trừ tư tưởng không lành mạnh làm
rối trí ta; tăng cường và sau đó thiết lập vững chắc tư tưởng lành
mạnh để biến tinh thần chúng ta được tự nhiên và toàn vẹn hơn.
Trang 59. ‘Nhớ
nghĩ đúng’ (Chánh niệm) là bước thứ hai của Bát chánh Ðạo trong
phần phát triển tinh thần (Ðịnh). Nó rất cần thiết trong cuộc sống
bình thường hàng ngày của chúng ta. Giống như tất cả các điều dạy
khác của Phật, ‘Nhớ nghĩ đúng’ (Chánh niệm) có thể chứng minh rõ
rệt nhất với những thí dụ trong cuộc sống thường ngày. Chắc bạn
cũng thấy là Phật liên tục dùng những thí dụ quen thuộc cho những
người nghe ông thuyết giảng. Vì thế chúng ta dễ thành công hơn khi
xét đến sự quan trọng của tĩnh thức (niệm) trong các sinh hoạt tầm
thường hằng ngày
Tĩnh thức là
chú ý. Nó giúp cho tâm trí khỏi bị xao lãng hoặc mù mờ. Sẽ có ít
tai nạn hơn tại nhà và ở ngoài đường nếu người ta ý thức hơn. Dù
đang lái xe hay băng qua đường, nấu cơm hay làm sổ sách, chú tâm
hơn bạn sẽ được an toàn và hiệu quả hơn. Việc thực tập tĩnh thức
giúp tăng trưởng hiệu quả và năng suất, đồng thời làm giảm thiểu
con số rủi ro vì thiếu chú ý.
Trong việc thực
tập, tĩnh thức là một loại dây cương cho trí óc. Bỏ ra năm mười
phút để xem trí óc mình hoạt động như thế nào, bạn sẽ thấy rõ ràng
hơn sự cần thiết của loại dây cương kiểm soát đó. Thí dụ bạn đang
đọc quyển sách này, bất thình lình một luồng gió làm sập cửa sổ
xuống. Tôi chắc chắn bạn sẽ lập tức chuyển sự chú ý và để tâm vào
nơi đó. Như vậy là trí óc bạn đã không chú tâm vào trang sách rồi.
Thế là hầu như vào bất cứ lúc nào trong cuộc sống, trí óc ta đều
chạy theo các giác quan. Ðầu óc chúng ta hầu như không bao giờ tập
trung hay đứng yên. Các vật của các giác quan làm mê hoặc sự chú ý
của ta có thể thuộc về hình sắc, âm thanh hay tư tưởng. Khi lái xe
trên đường, đôi mắt và đầu óc bạn có thể bị thu hút bởi một quảng
cáo hấp dẫn; lúc đi vào hè phố, mũi bắt vào mùi nước hoa thoang
thoảng của một vị phụ nữ. Thế là sự chú ý của bạn có thể bị kéo về
nơi có mùi và có người! Tất cả các vật của các giác quan là những
nguyên nhân của sự phân tán chú ý.
Trang 60. Vì
thế, để điều hoà các ảnh hưởng của sự phân tán tư tưởng, ta cần tự
trông chừng để khỏi bị vướng mắc vào những vật và tình trạng không
lành mạnh. Việc tự trông chừng này chính là sự tĩnh thức. Phật đã
từng kể câu chuyện hai con dơi, dơi thầy và dơi trò. Vào một dịp,
dơi thầy hỏi dơi trò,‘Con bảo vệ ta và ta sẽ bảo vệ con. Bằng cách
đó chúng ta sẽ đánh lừa và móc túi thiên hạ.’ Nhưng dơi trò nói,
‘Không, thưa thầy, cái đó không được. Con bảo vệ con, thầy bảo vệ
thầy.’ Cũng giống như thế, mỗi người trong chúng ta phải tự bảo vệ
tâm trí riêng của mình.
Có người nói
như thế có vẻ ích kỷ, tinh thần làm việc chung bỏ đâu? Tôi nghĩ
nghi ngờ như thế là do hiểu lầm mà thôi. Một dây xích chỉ mạnh nhờ
từng mắc xích yếu nhất của nó. Một toán làm việc chung với nhau có
hiệu quả là nhờ từng hội viên cá nhân của toán đó. Một nhóm toàn
những người bị phân tán tư tưởng, không có khả năng thi hành trách
nhiệm riêng cho có hiệu quả, sẽ là một toán không được việc. Cũng
như vậy, muốn giữ vai trò cho có hiệu quả đối với các bạn trong
nhóm, ta phải tự bảo vệ sự tĩnh thức riêng của mình. Giả dụ có
chiếc xe đẹp, bạn sẽ cẩn thận đậu xe ở nơi nào ít bị cọ quẹt. Dù ở
chỗ làm hay ở nhà, bạn sẽ thỉnh thoảng trông chừng ra ngoài cửa để
xem cái xe có sao không. Bạn sẽ rửa nó thường hơn, đem nó ra ngoài
tiệm để sửa nó đều đặn hơn và có thể bảo hiểm nó với một số tiền
lớn. Cũng giống như vậy, mỗi người trong chúng ta sở hữu một thứ
có giá trị hơn tất cả các thứ khác, đó là cái tâm .
Trang 61. Nhận
ra được giá trị và sự quan trọng của cái tâm, ta phải tự bảo vệ
nó. Ðấy là sự tĩnh thức. Việc thực tập tĩnh thức có thể được thực
hành bất cứ chỗ nào và bất cứ lúc nào. Có người nghĩ rằng tập tĩnh
thức (hay thiền định) là quá khó. Họ cũng sợ thử nó nữa. Họ là
những người nghĩ đến thiền một cách cứng nhắc, qui tắc, có nghĩa
là, tập trung đầu óc để ngồi thiền. Nếu không sẵn sàng thực tập
các kỷ thuật thiền tĩnh thức, ta có thể thực tập ‘Chánh tinh tấn’
và ‘Chánh niệm’. Hai bước đầu của việc ấy là 1. vun trồng một thái
độ tự tin, bằng cách để ý và chú tâm; (2) nhìn lại thân và tâm để
luôn biết mình đang làm gì.
Khi tôi viết
những dòng này, trong góc cạnh đầu óc tôi, tôi vẫn có thể trông
chừng cái tâm của tôi. Tôi đang nghĩ đến điều gì? Tâm tôi chăm chú
vào điều gì? Tôi đang suy nghĩ về những gì xãy ra sáng nay, hoặc
tuần rồi, hoặc những gì tôi sẽ làm tối nay? Tôi có lần nghe một
người thầy nhận xét rằng nếu bạn đang pha một tách trà thì ngay
lúc bạn đang pha trà và pha trà ngon chính là bạn đang thiền định
Phật giáo.
Cái chính yếu
của thiền là định thần chú tâm chính xác và ngay lúc đang làm, dù
việc đó là việc đi dến trường, quét dọn trong nhà, hay nói chuyện
với một người bạn. Dù rằng bạn làm chuyện gì đi chăng nữa, bạn có
thể thực hành sự tĩnh thức. Việc thực hành tĩnh thức có thể áp
dụng mọi nơi, mọi lúc.
Trang 62. Thông
thường, việc thực hành tĩnh thức hay quán tưởng giữ một vai trò
quan trọng trong Phật giáo. Phật gọi quán tưởng là cách hoàn thành
sự chấm dứt đau khổ. Thực tập quán tưởng có 4 cách áp dụng đặc
biệt: 1. quán thân, 2. quán thọ, 3. quán tâm và 4. quán pháp. Bốn
lối thực hành về quán tưởng tiếp tục giữ một vai trò quan trọng
trong việc thực hành thiền định Phật giáo cho đến ngày hôm nay.
Trang 62. Chúng
ta hãy tiếp tục xét đến bước thứ ba của phát triển tinh thần, đó
là sự tập trung tinh thần, đôi khi được gọi là ‘tĩnh lặng’ hay
giãn dị hơn là thiền quán. Bạn hẳn nhớ lại rằng chúng ta đã biết
về nguồn gốc thiền quán từ thời kỳ văn minh Thung lũng sông Ấn.
Thiền quán, hay tập trung tinh thần, không dính dáng với tình
trạng kích động hay uể oải, ít nhiều dính dáng tới bán tỉnh thức
hay hôn mê. Tập trung tinh thần chỉ là sự thực tập chú trọng tâm ý
vào một vật. Vật này có thể thuộc về vật chất hay tinh thần. Hoàn
tất được sự tập trung, cái tâm trở nên hoàn toàn hoà đồng với vật
đó mà không bị dính mắc vào các tình trạng tinh thần khác như xao
lãng, uể oải, kích động và chập chờn. Ðây là mục tiêu của việc
thực tập ‘Chánh định’: tập trung tâm ý chăm chú vào một vật một.
Hầu hết chúng ta đều có trải qua việc này trong cuộc sống hàng
ngày. Thỉnh thoảng, một cái gì đó tự nhiên xuất hiện trong đầu
ngay lúc ta đang chăm chú nghe một bài nhạc, nhìn ra biển hay bầu
trời. Bạn có thể chứng nghiệm trong một phút giây, lúc tâm ý vẫn
chăm chú hoà đồng vào một sự vật, âm thanh hay hình sắc.
Tập trung tinh
thần có thể được thực hành bằng một số cách. Vật được tập trung có
thể thấy được bằng mắt (ngọn lửa, bức ảnh, cành hoa) hoặc có thể
là một ý tưởng (tình thương hay lòng từ bi). Khi thực tập, bạn có
thể tập trung tâm ý một cách liên tục trên một vật đã được chọn.
Dần dần, việc này dẫn đến khả năng làm cho đầu óc nằm yên trên vật
mà không bị phân tán ý tưởng. Khi việc này được duy trì trong một
thời gian kéo dài nào đó, bạn đã hoàn thành sự nhất tâm.
Trang 63. Ðiều
quan trọng để ghi nhớ rằng muốn thực hành thành công và tốt đẹp
nhất là phải có sự hướng dẫn của một vị thầy kinh nghiệm. Những
yếu tố kỷ thuật để thực tập cho thành công gồm: thái độ, tư thế,
thời hạn và lúc thực hành. Chỉ đọc một quyển sách thì khó được hết
tất cả những yếu tố đúng này được. Bạn cũng không cần trở thành
một tu sĩ để thực hành loại thiền quán này. Bạn không cần phải
sống trong rừng hay từ bỏ đời sống hoạt động hàng ngày. Bạn có thể
bắt đầu với từng giai đoạn thiền quán tương đối ngắn, từ 10 hay 15
phút một ngày.
Trang 63. Sự
thành thạo trong loại thiền quán này có hai lợi ích chính. Ðầu
tiên, nó dẫn đến hạnh phúc tinh thần và vật chất, thoải mái, vui
vẻ, trầm lặng và yên tĩnh. Thứ hai, nó chuyễn cái tâm thành một
dụng cụ có khả năng thấy sự vật theo thực tướng của nó. Vì thế, nó
chuẩn bị cái tâm để đạt được trí huệ.
Sự phát triển
dần dần kỷ năng nhìn sự vật theo đúng thực tướng của chúng qua sự
thực hành thiền quán, được so sánh giống như sự phát triển các
dụng cụ đặc biệt, bằng các phương tiện qua đó chúng ta có thể thấy
được cái thực tướng của nguyên tử và những cái tương tự. Cũng như
vậy, nếu chúng ta không phát triển tiềm năng trí não của chúng ta
qua sự vun trồng ‘Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định’, sự
hiểu biết của chúng ta về thực tướng của các sự vật may lắm cũng
chỉ là tri thức thông thường thôi. Ðể biến sự hiểu biết Tứ Diệu Ðế
từ một tri thức sách vở thành kinh nghiệm trực tiếp, chúng ta phải
hoàn thành cái định ‘nhất điểm tụ’.
Chính tại điểm
này mà sự phát triển tinh thần sẵn sàng chuyển sự định tâm thành
trí huệ. Bây giờ chúng ta có thể thấy rõ ràng vai trò đặc biệt của
thiền quán trong Phật giáo. Ðề cập ngắn gọn chỗ nầy, tôi muốn nói
về quyết định của Phật khi rời bỏ hai người thầy dạy thiền quán,
Alara Kalama và Uddaka Ramaputta, và về sự tổng hợp thiền định và
trí huệ vào đêm giác ngộ của ông. Cũng vậy, cái định ‘nhất điểm
tụ’ chính nó cũng chưa đủ. Nó giống như việc chuốt viết chì trước
khi chuẩn bị viết hay việc mài búa để cắt cái thân cây tham vướng,
sân giận, và mê si. Khi được ‘nhất điểm tụ’, chúng ta sẵn sàng nối
thiền định với trí huệ hầu đạt được giác ngộ.
--o0o--
|