PHẬT HỌC CƠ BẢN
Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
Nguyên tác: Peter Della Santina, Ph.D.
Việt dịch: Minh Thiện Trịnh Chỉnh
Melbourne 2002
---o0o---
Chương 8
(Trang 75 - 84.)
Nghiệp Ðạo
Karma.
~~~~~~~
Với chương này, chúng ta bắt đầu xét hai quan niệm phổ biến và có liên hệ với nhau trong Phật giáo: nghiệp đạo (con đường của nghiệp, dẫn từ nghiệp nhơn-hay nghiệp duyên-đến nghiệp quả) và tái sanh. Hai quan niệm này liên quan khá mật thiết nhau, nhưng vì đề tài quá rộng nên tôi xin dành hai chương.
Chúng ta đã biết rằng những yếu tố giữ chúng ta làm tù nhân trong luân hồi là những phiền não: vô minh (si), (tham) vướng và (sân) giận. Chúng ta đã thảo luận việc này khi bàn đến ‘Tập đế’ tức sự thật huân tập của nguyên nhân đau khổ (xem các Chương 4 và 7). Những phiền não đó gây ra cho mỗi sinh vật trong thế giới này, dù là con người, thú vật hay một thực thể sống trong các cõi khác mà ta không thể nhận ra một cách bình thường.
Trang 75. Tuy rằng giữa chúng ta với nhau có ít nhiều khác biệt nhưng tất cả đều giống nhau ở chỗ là phải chịu đựng các phiền não,. Chẳng hạn, có người trong chúng ta giàu có trong khi kẻ khác thì nghèo khổ, người thì mạnh và khỏe trong khi kẻ khác yếu và bệnh, v.v...Có nhiều sự khác biệt giữa chúng ta với nhau, giữa người với thú. Những sự khác nhau này là kết quả của nghiệp đạo. Si, tham và sân là phổ biến cho tất cả các sinh vật, nhưng hoàn cảnh riêng biệt của mỗi sinh vật là kết quả của nghiệp đạo riêng biệt. Việc này tác động vào hoàn cảnh riêng biệt của người đó.
Nghiệp đạo cắt nghĩa tại sao có sinh vật lại may mắn trong khi kẻ khác ít may mắn và tại sao người vui kẻ buồn. Ðức Phật đã nói rõ ràng rằng nghiệp đạo giải thích nguyên nhân cho các sự khác nhau đó. Chúng ta cũng nhớ lại một phần của kinh nghiệm của đức Phật vào đêm giác ngộ: ngài đạt được sự hiểu biết là nghiệp đạo đã quyết định như thế nào về sự tái sinh của các sinh vật và các sinh vật đã chuyển biến như thế nào từ điều kiện hạnh phúc qua không hạnh phúc và ngược lại. Ðó là hậu quả của nghiệp báo riêng của họ. Chính nghiệp quả đã giải nghĩa cho các hoàn cảnh khác nhau của từng sinh vật một.
Trang 76. Sau khi nói nhiều về sự vận hành của nghiệp đạo, ta hãy tìm xem ý nghĩa thực sự của nó bằng lối định nghĩa. Ta bắt đầu bằng cách định nghĩa ngược lại: cái gì không phải là nghiệp đạo?. Thông thường, ta hay hiểu lầm ý nghĩa của nghiệp đạo, đặc biệt là trong việc dùng nó hằng ngày. Bạn thường thấy người ta hay nói tự an ủi hay chịu nhẫn nhục về một sự kiện khác thường. Họ tự cho là nghiệp quả để tự an ủi cho một tình trạng. Khi người ta nghĩ đến nghiệp quả theo lối này, nó trở thành một dụng cụ để trốn thoát và giả định cho hầu hết các lòng tin vào thiên định (predestination) hoặc số mệnh (fate). Chắc chắn việc làm này không phải là cái nghĩa đúng đắn của nghiệp đạo. Có lẽ việc hiểu lầm này là kết quả của một ý tưởng định mệnh khá thông thường trong nhiều văn hóa. Có lẽ chính vì lòng tin phổ quát về thiên định hay số mệnh này mà ý niệm nghiệp quả thường bị lẫn lộn và không hiểu rõ. Nghiệp quả, đúng hơn và khách quan hơn là nghiệp đạo, chắc chắn không phải là số mệnh hay thiên định.
Nếu nghiệp quả không phải là số mệnh cũng không phải là thiên định vậy thì nó là cái gì? Chúng ta hãy xét cái nghĩa nơi chính chữ đó. Nghiệp có nghĩa là hành động tức là hành vi làm ra việc này hay việc kia. Ngay tức khắc, chúng ta có một định nghĩa rõ ràng rằng cái ý nghĩa thực sự của nghiệp quả không phải là số mạng mà là hành động, tức là nó động. Nhưng nghiệp quả không phải chỉ là hành động, một hành động máy móc, cũng không phải là vô ý thức hay vô tình. Trái lại, hành động nghiệp quả này là có chủ tâm, có ý thức và cố ý, được tác động bởi sự tự ý mình hoặc do ý chí.
Trang 77. Tại sao hành động có chủ tâm này lại giúp ta tốt đẹp hơn hoặc gây cho ta tệ hại hơn? Rất có thể chứ. Mỗi hành động đều có một phản ứng hay kết quả của nó. Sự thật này đã nói lên một cách rõ ràng về vũ trụ vật lý học do vật lý gia cổ điển Newton đưa ra. Thuyết của ông cho rằng mỗi hành động đều có một phản ứng ngược lại và bằng nhau. Trong luật về hành động và trách nhiệm, có một kết quả tương ứng về hành động và phản ứng. Chúng điều hành các biến cố trong vũ trụ vật chất. Ðó là luật mà mỗi hành động có chủ ý phải có kết quả của nó. Vì lý do này, Phật tử thường nói đến hành động có chủ ý với các hậu quả chín mùi hoặc hành động có chủ ý với kết quả một phần của nó. Vì vậy, khi muốn nói về hành động có chủ ý cùng với những hậu quả chín mùi, chúng ta dùng câu ‘‘luật nghiệp quả’’.
Ở vào trình độ cơ bản nhất, luật nghiệp quả dạy rằng các loại hành động đặc biệt hiển nhiên dẫn đến những kết quả thích đáng hay tương tự. Chúng ta hãy lấy một thí dụ tương tự để chứng minh điểm này. Nếu chúng ta ươn trồng một hạt xoài, khi cây lớn lên, kết quả sẽ là một cây xoài, và sau đó sẽ ra xoài trái. Cũng như vậy, nếu chúng ta trồng một hạt lựu, kết quả là chúng ta sẽ có cây lựu, và trái sẽ là trái lựu. ‘‘Gieo thế nào, bạn sẽ gặt thế ấy’’: tùy loại hành động mà ta sẽ được quả tương tự.
Trang 77. Cũng như vậy, theo luật nghiệp quả, nếu ta hành động lành mạnh, sớm muộn gì cũng sẽ được một kết quả lành mạnh. Nếu ta hành động không lành mạnh, hiển nhiên sẽ có kết quả không lành mạnh. Ðây là những gì chúng ta muốn nói trong Phật giáo, đó là những nguyên nhân đặc biệt đem lại những hậu quả đặc biệt tương tự. Ðiều này trở thành rất rõ ràng khi chúng ta xét đến những ví dụ đặc biệt của các hành động lành mạnh hay không lành mạnh và những hậu quả tương tự với chúng.
Từ định nghĩa tổng quát và ngắn gọn này, ta có thể hiểu nghiệp quả gồm 2 loại: nghiệp quả tốt đẹp hay lành mạnh và nghiệp quả xấu xa hay không lành mạnh. Ðể tránh sự hiểu lầm từ ngữ này, ta thử xem chữ gốc của chúng: kushala và akushala. Kushala có nghĩa là ‘thông minh’ hay ‘có kỷ năng’, và akushala là ‘không thông minh’ hoặc ‘không có kỷ năng’. Biết được như vậy, chúng ta thấy rằng những từ này được dùng trong Phật giáo không có nghĩa tốt và xấu, mà có nghĩa là thông minh và không thông minh, giỏi và dở, lành mạnh và không lành mạnh.
Trang 78. Hành động thế nào là lành mạnh và thế nào là không lành mạnh? Hành động lành mạnh là hành động có lợi cho mình và cho người, được khởi động không phải bởi si, tham, sân mà bởi trí, dũng, bi.
Làm sao biết được hành động lành mạnh sẽ cho hạnh phúc và một hành động không lành mạnh sẽ gây ra không hạnh phúc? Câu trả lời ngắn gọn là ‘thời gian sẽ trả lời’. Chính Phật đã cắt nghĩa rằng, chỉ có người ngu khờ mới tưởng rằng một hành động không lành mạnh tuy ban đầu không gây ra đau khổ, nhưng phải chờ một thời gian sau với sự khổ đau xãy ra, anh ta mới nhận ra rằng hành động đó là không lành mạnh. Tương tự như vậy, chỉ có người không kiên nhẫn mới tưởng rằng một hành động lành mạnh tuy ban đầu không cho hạnh phúc, nhưng phải chờ một thời gian sau với niềm hạnh phúc đem đến, anh ta mới nhận ra rằng hành động đó là lành mạnh.
Trang 78. Vì thế chúng ta cần phán xét các hành động lành mạnh và không lành mạnh theo kết quả dài hạn của chúng. Một cách rất giản dị là không sớm thì muộn những hành động lành mạnh gây kết quả lợi lạc cho mình và cho người và những hành động không lành mạnh gây đau khổ cho mình và cho người.
Ðặc biệt những hành động không lành mạnh phải được tránh, có liên hệ đến thân, khẩu, ý. Có tất cả 3 hành động không lành mạnh của thân, 4 của miệng và 3 của ý. Ba hành động không lành mạnh của thân là (1) giết, (2) trộm cắp, và (3) tà dâm; bốn hành động không lành mạnh của khẩu là (4) nói dối, (5) nói nặng, (6) nói xấu và (7) nói ác ý; và ba loại không lành mạnh của ý là (8) tham lam, (9) sân giận và (10) mê si. Bằng cách tránh mười hành động không lành mạnh này, chúng ta có thể thoát khỏi các hậu quả của nó.
Trang 79. Kết quả chung cho các hành động không lành mạnh là đau khổ. Chúng có nhiều hình thức khác nhau. Hậu quả chung cuộc của các hành động không lành mạnh là sự tái sinh trong các cảnh giới thấp hơn, bất hạnh hơn: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nhẹ hơn, các hành động không lành mạnh không đủ để gây ra sự tái sinh trong những cỏi thấp hơn thì nó gây ra đau khổ dù vẫn được sanh ra làm người.
Tới đây chúng ta có thể thấy hiệu quả của cái nguyên tắc đã nói ở trên: cái nhân gây ra quả tương ứng. Chẳng hạn, nếu chúng ta thường quen hành động vì lòng ác cảm và ghét bỏ, như hại mạng của người khác, điều này sẽ gây tái sinh trong địa ngục, nơi chúng ta sẽ bị tra tấn hoặc bị giết. Nếu hành động giết chóc các sinh vật khác không phải là thói quen và được lặp đi lặp lại, như thế sẽ có kết quả không được sống thọ dù rằng được sanh làm người. Hoặc là các hành động của loại này có thể gây ra là sống xa cách với người thân, sợ hãi, hay tính đa nghi. Trong trường hợp này, chúng ta cũng có thể thấy rõ cái quả tương đương với đặc tính của cái nhân như thế nào. Giết người tức là làm cho cuộc đời người đó bị giảm đi, tước mất đi người thân của họ, vì thế nếu chúng ta tự cho phép mình trong việc giết người chúng ta sẽ phải chịu những hậu quả tương tự.
Giống như vậy, việc trộm cắp do lòng tham hay dính mắc có thể dẫn đến việc tái sinh làm ngạ quỷ. Chúng ta sẽ bị hoàn toàn tước mất những gì mình muốn và bị từ khước các thứ như đồ ăn và chổ ở. Và dù rằng trộm cắp không tái sinh thành ma đói, nó sẽ gây ra nghèo khổ, tùy thuộc vào những người khác về phương diện mưu sinh v.v.... Tà dâm sẽ có vấn đề về mặt hôn nhân.
Trang 80. Nói tóm lại, hành động không lành mạnh cho kết quả không lành mạnh dưới các hình thức đau khổ khác nhau, và hành động lành mạnh có kết quả, hạnh phúc lành mạnh. Chúng ta có thể giải thích những hành động lành mạnh bằng hai cách, tiêu cực và tích cực. Hoặc có thể đánh giá một hành động là lành mạnh khi ta tránh làm những hành động không lành mạnh như giết người, trộm cắp, tà dâm, hoặc chúng ta có thể nghĩ đến những hành động lành mạnh như lòng rộng lượng, tự chế, thiền định, tôn kính, độ người, hồi hướng công đức, vui mừng với công đức của người khác, nghe Pháp, dạy Pháp và sự tu sửa các quan điểm sai sót của mình.
Một lần nữa ta thấy kết quả của hành động tương ứng với nguyên nhân của nó. Chẳng hạn, lòng quảng đại làm ta giàu có, nghe Pháp cho kết quả trí tuệ, v.v...So với tính chất tương tự với nguyên nhân thì hành động lành mạnh cho kết quả lành mạnh hay lợi lạc, còn hành động không lành mạnh có những kết quả không lành mạnh.
Trang 80. Nghiệp quả hay nghiệp đạo, dù lành mạnh hay không, đều được chuyển biến bởi các điều kiện (duyên) theo sau. Nói một cách khác, một hành động lành mạnh hay không lành mạnh có thể ít nhiều, nặng nhẹ hơn tùy các điều kiện hành động theo sau. Các điều kiện quyết định sức nặng hay sức mạnh của nghiệp quả có thể qui về người hay vật chủ động và người hay vật bị động, hay mục tiêu mà hành động hướng tới. Vì thế các điều kiện ảnh hưởng đến nghiệp quả đều áp dụng cho cả hành động chủ thể cũng như cho đối tượng.
Lấy thí dụ về sát sanh thì năm điều kiện sau đây phải tuyệt đối hội đủ: (1) có một sinh vật để sát sanh, (2) có ý thức về sự hiện hữu của sinh vật ấy, (3) có ý muốn giết sinh vật ấy, (4) có hành động giết sinh vật ấy, và (5) có cái chết của sinh vật ấy. Ở đây chúng ta có thể thấy những điều kiện áp dụng cho chủ thể cũng như cho đối tượng hành động giết người: Những điều kiện chủ quan là ý thức có sự hiện hữu của một sinh vật, ý muốn giết và hành động giết. Những điều kiện khách quan là sự hiện hữu của một sinh vật và cái chết tiếp theo đó của sinh vật ấy.
Trang 81. Tương tự như vậy, có 5 điều kiện (duyên) khác nhau có thể chuyển biến được ảnh hưởng đến nghiệp quả: 1. lặp đi lặp lại, 2. chủ tâm, 3. không hối tiếc, 4. phẩm chất và 5. biết ơn (biết cái giá trị của duyên đưa tới). Một lần nữa, năm điều này được phân loại thành chủ quan và khách quan. Các điều kiện chủ quan là 1. hành động được lặp đi lặp lại, 2. làm với chủ ý và quyết tâm và 3. hành động làm mà không tiếc nuối hoặc hoài nghi. Nếu bạn lặp đi lặp lại hành động không lành mạnh với sự chủ ý và không hối tiếc, cái sức mạnh của hành động đó sẽ tăng lên.
Trang 81. Các điều kiện khách quan: phẩm chất (hành động hướng tới sinh vật đó) và biết ơn tức biết giá trị của điều kiện đưa tới (sự liên hệ tồn tại giữa khách thể và đối tượng của hành động). Nói một cách khác, nếu chúng ta làm một hành động (lành mạnh hay không lành mạnh) đối với một sinh vật với sức mạnh đặc biệt, như một A la hán hay một vị Phật, hành động đó sẽ có kết quả lớn hơn. Cuối cùng, cái lực của các hành động đó sẽ mạnh hơn khi chúng được làm đối với những người mà ta thân thiết, có liên hệ trong quá khứ như cha mẹ, thầy cô và bạn bè.
Các điều kiện chủ thể và đối tượng, gộp chung lại, quyết định nghiệp đạo hay nghiệp lực. Ðấy là điều quan trọng, bởi vì điều này sẽ giúp chúng ta nhớ rằng nghiệp quả không chỉ là một vấn đề của đen và trắng hoặc tốt hay xấu. Nghiệp một mặt là hành động chủ ý và trách nhiệm đạo đức, nhưng mặt khác nó còn có ý nghĩa là sự vận hành nghiệp lực được cân bằng rất chuẩn mực để sao cho nghiệp quả hợp với nghiệp nhơn. Nó tính chung tất cả các điều kiện chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến đặc tính của một hành động một cách chính xác. Ðiều này làm cho các kết quả của một hành động tương tự và ngang bằng với các nguyên nhơn.
Trang 82. Các quả của nghiệp lực trở nên hiển lộ hoặc dài hạn hay ngắn hạn. Thông thường nghiệp quả được chia thành 3 loại, được quyết định bởi số thì giờ bỏ ra trong cuộc đời này, trong cuộc đời sắp tới hay chỉ sau nhiều cuộc đời.
Khi các kết quả của nghiệp đạo hiện tiền trong cuộc đời này, đây là điều có thể thấy chúng trong vòng một khoảng thời gian tương đối ngắn. các quả của loại nghiệp này có thể được thấy dễ dàng và trực tiếp bởi chính mắt chúng ta. Chẳng hạn, khi một người từ chối học hành, dễ duôi trong việc lạm dụng rượu chè hay thuốc phiện, hoặc bắt đầu trộm cắp để thoả mãn các thói quen có hại, các quả sẽ rõ ràng trong vòng một khoảng thời gian ngắn. Chúng có quả báo hiện tiền như việc mất bạn, sống khổ và bệnh tật v.v....
Trang 82. Mặc dầu chính chúng ta không thể thấy các quả trung hạn và dài hạn của nghiệp quả, Phật và các vị đệ tử của ông, những người đã phát triển tâm thức thiền định đều có thể nhận biết. Mục kiền Liên bị cướp tấn công đầy máu me, có đến gặp Phật và ngài thấy rõ rằng các biến cố đó là do cái nhân mà Mục Liên đã làm trong cuộc đời trước đây: tiền kiếp của Mục Liên đã đem cha mẹ vào rừng và sau khi đánh họ chết, báo rằng họ đã bị cướp giết. Cái quả của hành động không lành mạnh này, được làm trong nhiều đời trước, nay hiện tiền trong cuộc đời của Ngài Mục kiền Liên.
Khi chết chúng ta phải để lại tài sản, mọi thứ và ngay cả những người thân của chúng ta: tuy vậy nghiệp quả của chúng ta sẽ theo sau giống như bóng (theo hình). Phật đã nói rằng không có chỗ nào trên trái đất hay trên thiên đàng mà ta có thể thoát khỏi nghiệp báo. Khi có điều kiện (duyên), tùy theo tâm và thân, các quả của nó sẽ hiện tiền tùy vào những điều kiện thích đáng, như một trái xoài sẽ hiện ra trên cây xoài. Chúng ta có thể thấy rằng, ngay cả trong thế giới tự nhiên, một số kết quả xuất hiện lâu hơn những cái khác. Nếu chúng ta trồng hạt dưa hấu, chúng ta sẽ được trái trong một thời gian ngắn hơn so với việc trồng các hạt của cây hạnh nhân. Cũng vậy, các quả của nghiệp báo hiện tiền trong ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn tùy thuộc vào tính chất của hành động.
Trang 83. Ngoài 2 loại chính lành mạnh và không lành mạnh của nghiệp quả,, chúng ta nên lưu ý nghiệp quả trung tính. Nó là hành động không có hậu quả đạo đức, hoặc vì chính đặc tính của nó không có giá trị đạo đức, hoặc vì cái hành động đó được làm không có chủ ý. Những thí dụ của loại nghiệp này gồm đi, ăn, ngủ, thở, làm chuyện nhỏ v.v...Cũng giống như vậy, những hành động làm một cách không cố ý tạo thành nghiệp quả trung tính, bởi vì cái yếu tố hành trì hết sức quan trọng không xãy ra. Chẳng hạn, nếu bạn đạp nhằm chết một côn trùng thì hành động như vậy được xem là nghiệp quả trung tính.
Sự lợi ích của việc hiểu biết luật nghiệp quả rất hiển nhiên. Trước hết, hiểu biết được như vậy khiến ta không hành ác nhờ vậy không gây ra đau khổ. Một khi hiểu rằng, trong suốt cuộc đời của chúng ta, mỗi mỗi hành động cố ý sẽ cho ra một phản ứng giống nhau và tương đương với nó. Một khi hiểu rằng, sớm muộn chúng ta sẽ phải nhận lãnh các quả của các hành động của mình, chúng ta sẽ tự chế những hành vi không lành mạnh bởi vì chúng ta sẽ không muốn chuốc lấy những kết quả đau khổ của các hành động như thế. Cũng giống như vậy, biết rằng những hành động lành mạnh sẽ có kết quả là hạnh phúc, chúng ta sẽ làm hết sức để vun trồng các hành động lành mạnh.
Trang 84. Suy ngẫm về ‘luật nghiệp quả’, về hành động và phản ứng trong các hoạt động có ý thức, điều đó khuyến khích ta từ bỏ các hành động không lành mạnh và thực hành các hành động lành mạnh. Trong chương tới, ta sẽ xét kỹ những quả báo đặc biệt của nghiệp đạo trong các cuộc đời kế tiếp, đồng thời xét một cách chính xác xem nó tạo điều kiện (duyên) và quyết định như thế nào về vấn đề tái sinh của con người. 
 
--o0o--