-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
- Chương 12
- (Trang 115 - 120.)
- Năm món hợp
thành người (NGŨ UẨN)
- THE FIVE
AGGREGATES.
- ~~~~~~~
- Trong chương
này chúng ta sẽ xét đến năm món tích tụ lại thành chúng sanh (ngũ
uẩn hay ngũ ấm): sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Nói một cách khác,
ta sẽ xét đến việc phân tích kinh nghiệm cá nhân (hay cá tính)
theo quan điểm Phật giáo.
- Trong các
chương trước, tôi đã có vài dịp lưu ý rằng những điều dạy của Phật
giáo được tìm ra có liên hệ đến đời sống và tư tưởng hiện đại
trong các lãnh vực khoa học, tâm lý, v.v...Chúng cũng được dùng
cho việc phân tích kinh nghiệm cá nhân xét theo quan điểm ngũ uẩn.
Các nhà tâm thần học và tâm lý gia hiện đại đã đặc biệt quan tâm
sự phân tích này. Nó cũng được gợi ý rằng, trong việc phân tích
kinh nghiệm cá nhân theo quan điểm ngũ uẩn, chúng ta có một bảng
tâm lý tương dương với các yếu tố được vẻ ra trong khoa học hiện
đại--nghĩa là, một bảng kiểm kê và đánh giá rất cẩn thận về các
thành phần kinh nghiệm của ta.
- Những gì chúng
ta sắp làm, chủ yếu là phát triển thêm việc phân tích vấn đề ở
cuối chương 11. Trong chương đó, chúng ta đã bỏ thời giờ cho vấn
đề vô ngã, tìm hiểu sơ qua 2 cách phân tích kinh nghiệm cá nhân về
thân và tâm. Bạn hẵn nhớ rằng chúng ta đã phân tích thân và tâm để
xem có thể định chổ cái tâm được không: trong cả hai, ta không tìm
được cái ngã. Chúng ta đã kết luận rằng chữ ‘ngã’ chỉ là một tên
gọi tiện lợi cho một tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần.
Chữ ‘rừng’ là một tên gọi tiện lợi cho một tổng hợp các cây cối.
Trong chương này chúng ta sẽ đem sự phân tích đi xa hơn nữa. Thay
vì xét kinh nghiệm cá nhân theo thân và tâm, chúng ta sẽ phân tích
nó theo quan điểm ngũ uẩn.
- Trang 116. Ðầu
tiên, chúng ta hãy xét đến sự kết tập về vật chất, tức sắc uẩn.
Sắc uẩn là những gì mà ta gọi là các yếu tố vật chất của kinh
nghiệm. Nó bao gồm thân xác riêng của ta và những vật chung quanh
ta--trái đất, cây cối, dinh thự và các vật chất thuộc đời sống
hàng ngày. Sắc uẩn bao gồm 5 giác quan và các vật thuộc về vật
chất tương ứng với các giác quan đó: mắt với các vật thấy được,
tai với các vật nghe được, mũi với các vật ngữi được, lưỡi với các
vật nếm được và da (thân) với các vật xúc chạm được.
- Những thành
phần hữu hình tự chúng không đủ sản sinh ra kinh nghiệm. Sự tiếp
xúc đơn thuần giữa mắt và thị vật, tai và thính vật... không thể
tạo ra kinh nghiệm. Mắt có thể liên kết với một đối tượng vô hạn
mà không sinh ra ấn tượng; tai có thể bỏ qua âm thanh một lúc mà
không sinh ra kinh nghiệm. Chỉ khi nhãn căn, sắc trần và ý thức
hòa trộn vớì nhau thì kinh nghiệm ấn tượng mới được sản sinh ra.
Vì thế ý thức là một yếu tố không thể không có trong việc sản xuất
ra kinh nghiệm.
- Trước khi chúng
ta tiếp tục với các yếu tố tinh thần của kinh nghiệm cá nhân, tôi
xin lưu ý một chút về một căn khác cùng với đối tượng trần của nó.
Tôi muốn nói đến giác quan thứ sáu: căn ý. Ðây là căn bổ sung cho
5 căn kia. Cũng giống như 5 căn cơ quan kia có các đối tượng tương
ứng của chúng, ý căn có thuộc tính của nó là pháp trần. Và như
trong trường hợp của 5 giác quan, ý phải hiện diện để thống nhất
cái tâm và vật của nó để tạo ra kinh nghiệm.
- Trang 117. Bây
giờ hãy xét đến các yếu tố tinh thần của kinh nghiệm và xem chúng
ta có thể hiểu được ý thức đã biến đổi các yếu tố vật chất hiện
hữu thành kinh nghiệm cá nhân như thế nào hay không. Ðầu tiên,
chúng ta phải nhớ rằng ý thức chỉ là sự nhận biết hay nhạy cảm về
một sự vật. Khi các yếu tố vật chất của kinh nghiệm, chẳng hạn
mắt-vật tiếp xúc nhau cùng với ý thức hợp lại, nhãn thức mới hiện
ra. Ðây chỉ là ý thức của thị vật, không phải như những gì chúng
ta thường gọi kinh nghiệm cá nhân. Kinh nghiệm cá nhân hàng ngày
của chúng ta được tạo ra qua nhiệm vụ của 3 yếu tố tinh thần chánh
về kinh nghiệm: thọ uẩn, tưởng uẩn và hành uẩn. Ba khối kết tập
này có nhiệm vụ biến đổi sự nhận biết hay nhạy cảm đơn thuần thành
kinh nghiệm cá nhân.
- Thọ uẩn gồm 3 loại: thích, không
thích và dững dưng. Khi một đối tượng được biến thành kinh nghiệm,
tức nó đã có một trong những cảm tính trên.
- Kế đến là tưởng
uẩn. Ðây là một khối kết tập mà nhìều người cảm thấy khó hiểu. Khi
nói đến tưởng, chúng ta có trong đầu cái hoạt động của sự thừa
nhận hay nhận diện. Tức là, chúng ta nói đến một cái ‘tên’ cho đối
tượng của kinh nghiệm. Cái nhiệm vụ của tưởng là biến một kinh
nghiệm mập mờ thành một kinh nghiệm nhận diện được và có thể thừa
nhận được. Ở đây chúng ta nói đến sự thành lập một ý niệm, một ý
tưởng, một đối tượng đặc biệt. Với tưởng, giống như với thọ, ta
cũng có một ý niệm rõ ràng, xác quyết về đối tượng của kinh
nghiệm.
- Cuối cùng là
hành uẩn. Nó được mô tả là một phản ứng có điều kiện đối với đối
tượng của kinh nghiệm. Nó cũng có cái nghĩa cùng tham dự với thói
quen. Chúng ta đã bỏ thì giờ bàn cải về ‘hành’ trong chương 10, đã
xét 12 thành phần của nhân duyên. Chúng ta đã mô tả hành là các ấn
tượng được tạo ra bởi những hành động trước đây, cái năng lượng
thói quen tức tập khí được chứa trong đó qua một tiến trình của vô
số cuộc đời trước đây. Ở đây, hành, là một trong ngũ uẩn, giữ một
vai trò tương tự. Nhưng ‘hành’ không những có một giá trị tĩnh mà
còn còn có giá trị động nữa bởi vì, giống như những hành động hiện
tại bị ảnh hưởng bởi những hành động trong quá khứ, các phản ứng
của ta ngay phút sát na này cũng được tác động và điều khiển bởi
‘hành’ theo một cách riêng của nó. Vì thế, ‘hành’ có giá trị đạo
đức, ‘tưởng’ có giá trị ý niệm và ‘thọ’ có giá trị cảm tính.
- Trang 118. Bạn
hẵn để ý rằng tôi dã dùng các từ ’hành’ và ‘hình thái tinh thần’
chung với nhau. Ðó là vì mỗi từ đại diện cho một nữa cái nghĩa của
từ gốc: ‘hình thái tinh thần’ tượng trưng cho cái phân nữa của quá
khứ, và ‘hành’ chỉ cho một nữa của ‘phút sa na hiện tại bây giờ và
ở đây’. Hình thái tinh thần và hành làm việc chung với nhau để tạo
thành các phản ứng của ta đối với đối tượng của kinh nghiệm. Những
phản ứng này có những hậu quả thuộc về luân lý, đạo đức: quả lành,
quả dữ và quả trung tính.
- Bây giờ ta có thể thấy được các
yếu tố về vật chất và tinh thần của kinh nghiệm làm việc chung với
nhau như thế nào để tạo ra kinh nghiệm cá nhân. Ðể sáng tỏ hơn, ta
hãy lấy thí dụ về việc bạn đi tản bộ trong một công viên. Trên
đường đi, mắt bạn tiếp xúc với một vật (sắc uẩn). Bạn cố tập trung
ý thức vào vật đó để xác định xem vật đó là gì. Cái tưởng uẩn của
bạn lúc ấy nhận diện ra vật đó là, thí dụ, một con rắn. Khi điều
đó xảy ra, cảm tính của bạn đối với vật đó với cái thọ uẩn không
thích. Bạn phản ứng với cái hành uẩn: hành động có chủ ý là có thể
chạy xa đi hoặc đi lượm một cục đá.
- ]Trang 119.
Trong các hoạt động hàng ngày, chúng ta có thể thấy ngũ uẩn làm
việc chung với nhau như thế nào để tạo ra kinh nghiệm cá nhân.
Chính ngay lúc này, chẳng hạn, có sự tiếp xúc giữa 2 thành phần
của sắc uẩn--các dòng chữ trên trang giấy và con mắt của bạn. Cái
thức uẩn của bạn thấy biết qua những dòng chữ trên trang giấy. Cái
tưởng uẩn của bạn nhận diện ra những chữ được viết ở đó. Cái thọ
uẩn của bạn tạo ra một phản ứng cảm tính: thích, không thích hay
dững dưng. Cái hành uẩn của bạn đáp ứng với một phản ứng có điều
kiện: ngồi chú ý đọc hay nghĩ bâng quơ, hay có thể ngáp dài. Chúng
ta có thể phân tích tất cả kinh nghiệm cá nhân của chúng ta theo
quan điểm ngũ uẩn.
- Tuy nhiên có
một điểm phải được nhớ về tính chất của ngũ uẩn, đó là mỗi một uẩn
đều thay đổi luôn luôn. Các thành phần tạo thành sắc uẩn thì vô
thường và trong tình trạng thay đổi không ngừng. Chúng ta đã thảo
luận điều này trong Chương 11, trong đó chúng ta thấy được: thân
thể trở nên già, yếu, bệnh, các sự vật chung quanh ta luôn luôn vô
thường và thay đổi không ngừng. Các cảm thọ của chúng ta cũng thay
đổi không ngừng. Ngày hôm nay chúng ta có thể có một cảm thọ vui
đối với một sự việc, ngày mai có thể có một cảm thọ không vui.
Ngày hôm nay chúng ta có thể nhận biết một vật với một cách đặc
biệt nào đó; sau đấy, với những hoàn cảnh khác nhau, các cảm niệm
của chúng ta lại thay đổi. Trong lúc nửa sáng nửa tối, chúng ta
nhận ra sợi dây là con rắn; lúc ánh sáng của ngọn đuốc chiếu vào
vật đó, chúng ta nhận ra nó là một sợi dây.
- Các cảm niệm,
giống như các cảm thọ và các đối tượng vật chất của kinh nghiệm
của chúng ta, thay đổi không ngừng và vô thường; các phản ứng về
hành của chúng ta cũng vậy. Chúng ta có thể thay đổi các thói quen
của mình. Chúng ta có thể học hỏi để hiền lành và từ bi. Chúng ta
có thể đạt được các thái độ của sự xả bỏ, bình thản, thư thái
v.v..Thức, cũng vô thường và thay đổi không ngừng. Thức hiện lên
tùy thuộc vào một vật và một giác quan. Nó không thể hiện ra một
cách độc lập. Ta có thể thấy rằng tất cả những yếu tố vật chất và
tinh thần của kinh nghiệm của mình--giống như thân xác, những vật
chung quanh có hình tướng, tâm trí và nhũng ý kiến của chúng
ta--đều vô thường và thay đổi không ngừng. Tất cả các uẩn này là
thay đổi luôn luôn và vô thường. Chúng là những tiến trình, chứ
không phải là sự vật. Chúng động chứ không phải tĩnh.
- Trang 120. Có
lợi ích gì cho việc phân tích kinh nghiệm cá nhân về phương diện
ngũ uẩn? Có lợi ích gì cho việc giãm thiểu sự thống nhất kinh
nghiệm cá nhân có vẻ không thật thành những thành phần sắc, thọ,
tưởng, hành và thức? Cái mục đích là để tạo ra một trí huệ vô ngã.
Những gì chúng ta muốn hoàn thành là làm sao kinh nghiệm được thế
giới này không phải được xây dựng trên và chung quanh ý tưởng của
một cái ngã. Chúng ta muốn có một kinh nghiệm cá nhân theo quan
niệm tiến trình: một quan niệm vận hành một cách vô ngã chứ không
phải vận hành theo cái ngã và theo những gì ảnh hưởng đến cái ngã.
Ðiều này giúp ta tạo ra một thái độ bình thản, thư thái. Nó sẽ
giúp chúng ta khắc phục những phiền muộn cảm tính về niềm hy vọng
hay sự lo sợ về các sự vật của trần đời.
- Chúng ta hy
vọng được hạnh phúc và sợ đau khổ. Chúng ta hy vọng được khen và
sợ chê. Chúng ta hy vọng được thắng và sợ thua. Chúng ta hy vọng
đươc nổi tiếng và sợ ô danh, nhục nhã. Chúng ta sống trong một
tình trạng nửa vời của hy vọng và lo sợ. Chúng ta đã kinh nghiệm
qua niềm hy vọng và mối lo sợ này vì chúng ta hiểu được hạnh phúc,
đau khổ, v.v. về phương diện cái ngã: chúng ta hiểu cái sướng cái
khổ của riêng mình, cái khen cái chê của riêng mình, v.v...Nhưng
một khi hiểu biết chúng về phương diện các tiến trình vô ngã, và
một khi--qua sự hiểu biết này--diệt trừ ý tưởng của cái ngã thì
chúng ta có thể khắc phục được niềm hy vọng và nỗi lo sợ. Chúng ta
có thể xem sướng khổ, khen chê và tất cả những cái còn lại với sự
bình thản, thư thái. Chỉ khi đó chúng ta mới không còn bao giờ bị
lệ thuộc vào sự mất thăng bằng cho việc cân phân giữa hy vọng và
lo sợ.
--o0o--
|
|