-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
- Chương 17
- (Trang 149 - 155.)
- Kinh Lăng già
- The Lankavatara
Sutra.
- ~~~~~~~
- Kinh Lăng già
tiêu biểu cho một bộ phận văn học sâu rộng và đặc biệt quan trọng
cho sự hiểu biết phái Bắc truyền (Ðại thừa). Giống như kinh (Diệu)
Pháp (Liên) Hoa và các kinh Bát nhã Ba la mật, kinh Lăng già là
một tác phẩm lớn có rất nhiều tập. Nó phức tạp về ý tưởng và về
lối sáng tác văn chương. Các học giả xác định niên đại tác phẩm
văn viết này ở vào cuối thế kỷ thứ IV Tây lịch. Mặc dầu về niên
đại xuất bản thì có thể được chấp nhận, nhưng về mặt ý tưởng thì
nó đã có trong thời kỳ phôi thai và đã được các vị Tổ Bắc truyền
như Vô Trước (Asanga0 và Thế thân (Vasubandhu) phân tách và hệ
thống hóa. Vì cả hai vị đều sống vào thế kỷ thứ IV Tây lịch, nên
chúng ta sẽ phải đặt vị trí việc thành lập các giáo thuyết Kinh
Lăng già trước khá xa thời gian đó.
- Ðiều này phù
hợp với những gì tôi đã nói trước đây về nguồn gốc và tính chất
xác thực của văn chương phái Bắc truyền (Ðại thừa) nói chung. Dù
sao, chúng ta đã thấy nhiều ý tưởng phôi thai của phái Bắc truyền
cũng có trong kinh điển phái Nam truyền (Tiểu thừa) (xem Chương
14). Kinh Lăng già là đại diện căn bản cho văn học kinh điển phái
Bắc truyền (Ðại thừa). Ta có Du già tông (Ðại nhựt tông, Mật tông
Tây tạng, Chơn ngôn tông Nhật bản, Yogachara), trường phái xác
nhận sự hợp nhất của Thiền quán và Hành động; Duy thức tông
(Vijnanavada), trường phái cho rằng chỉ có Thức; và Duy tâm
(Chittamatra), trường phái cho cái Tâm là độc nhất (Duy Tâm). Văn
học Trí huệ Bát nhã Ba la mật nói chung hình thành nền móng kinh
điển của trường phái Trung Ðạo (Madhyamaka). Cũng như vậy, kinh
Lăng già và một số các kinh khác hình thành nền móng kinh điển của
trường phái Du già và Duy thức tông. Cũng xin nhớ rằng, các Pháp
của trường phái này cũng có thể tìm thấy trong các Pháp của trường
phái kia, và ngược lại.
- Trang 150. Giáo
lý mà nhờ đó kinh Lăng già nổi tiếng là tính ưu việt của (tâm)
thức. Ðôi khi nó được gọi là giáo lý Duy Tâm, hay cái bản thể độc
nhứt của thức. Kinh nói với những từ rõ ràng không nhầm lẫn rằng 3
cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới là chỉ do chính tâm mà thôi.
Nói một cách khác, tất cả các sự vật có nhiều dạng của thế giới,
các danh và các sắc của kinh nghiệm chỉ là những biểu hiện của
tâm. Kinh Lăng già nói rằng sự bất lực của chúng ta để thoát ra
khỏi sự phân biệt giữa các ý niệm ‘chủ quan - đối tượng’ là nguyên
nhân của tái sanh trong luân hồi sanh tử. Ngày nào không giải
thoát khỏi sự phân biệt đó, ngày đó ta tiếp tục bị tái sanh trong
luân hồi. Vì thế chính cái khả năng làm ta thoát khỏi các ý niệm
đối đãi ‘chủ - khách’ là chìa khóa giác ngộ.
- Nhưng ‘Duy Tâm’
là gì mà Kinh Lăng già muốn nói đến? Ðó có phải là cái tâm quan
sát, thực nghiệm, cái tâm tham dự vào những hoạt động của 6 thức
không? Rõ ràng đấy không phải là cái tâm này. Cái tâm mà Kinh muốn
nói đều vượt qua và tiêu diệt các ý niệm đối đãi về hiện hữu - phi
hiện hữu, giống - không giống, thường - vô thường. Nó vượt qua các
ý niệm về ngã, bản thể và nghiệp quả. Nó cũng vượt lên trên ý niệm
nhân quả. Theo Kinh, tất cả các ý niệm đều là sản phẩm của sự
tưởng tượng giả tạo hay ‘phân biệt sai lầm’ (biến kế, vikalpa).
Cái tâm mà Kinh nói không tham dự vào những ý niệm đối đãi. Từ
điều này, rõ ràng cái tâm mà Kinh đề cập một cách chính xác là
‘tánh không’ (shunyata) mà kinh văn Bát nhã Ba la mật đã diễn đạt.
- Nếu cái tâm mà
Kinh Lăng già nhấn mạnh vượt qua các ý niệm đối đãi về hiện hữu -
phi hiện hữu, giống - khác, v.v...vậy thì cái thực thể bất nhị của
nó biểu hiện như thế nào trong các sự vật đa dạng của thế gian?
Kinh Lăng già và cả trường phái Duy Tâm đã trả lời chi tiết bằng
hệ thống Tám loại thức. Nó bao gồm sáu thức ta hằng quen thuộc
trong tín ngưỡng Phật giáo nói chung (năm thức hiện lên cùng với
năm giác quan, và thức thứ sáu, tức ý thức, hiện ra cùng với khả
năng của tâm). Hai loại kế là thức chứa hay tàng thức (A lại da
thức, alaya-vijnana) và trí phiền não (klishtamanas-- mana=mạn,
kiêu căng). Tám thức này tạo thành căn bản triết lý của Du già
tông (Yogachara) và Duy thức tông (Vijnanavada).
- Kinh này đã
dùng thí dụ để mô tả tiến trình phân chia đối nghịch từ một tình
trạng tâm không đối đãi, chơn đế thành một tình trạng tâm tách vỡ
ra từng mảnh, do bởi 6 thức quan sát mà chúng ta kinh nghiệm trong
đời sống hàng ngày. Thí dụ này là biển, gió và sóng. Dưới biển sâu
yên tĩnh thế nào thì tàng thức A lại da sâu kín cũng thế. Bị gió
chuyển, mặt đại dương mới khuấy động thành sóng, những sóng này
quay tròn và quay cuồng mãi. Cũng vậy, chiều sâu yên tĩnh của tàng
thức A lại da bị khuấy động bởi ngọn gió phân biệt, gây ra sóng.
Sáu thức quan sát kia cũng vận hành tương tự như vậy.
- Thủ phạm chính là ‘trí phiền não’
(klishtamanas, Trí Mạt na) gây khổ sở vì ngọn gió phân biệt. Chính
vì phương tiện của trí phiền não này mà sự phân biệt mới xãy ra.
Trí phiền não Mạt na là trung gian giữa Tàng thức và 6 thức thực
nghiệm. Chúng ta có thể gọi trí phiền não Mạt na là cái tôi nguyên
tắc, nguyên tắc của tính cá nhân hiện hữu (individuation) hay phân
biệt.
- Tàng thức giữ
một vai trò đặc biệt quan trọng vì nó không chỉ hiện hữu giống như
cái chiều sâu tĩnh mịch của đại dương mà nó còn vận hành như là
một ‘kho chứa’ Ðây là lý do tại sao nó được gọi là ‘kho chứa’ bởi
vì nó thu thập các hạt giống của các ấn tượng thuộc về cảm giác và
hành động. Chúng ta có thể hiểu rõ thêm hệ thống Bát thức được
giới thiệu trong Kinh Lăng già nếu chúng ta mường tượng được chúng
trong một vòng tròn, giống hệt như các thành phần của thuyết Duyên
khởi. Hiểu được vậy, ta sẽ có một biến hoá từ ‘tàng thức không đối
đãi’ tiến qua sự vận hành phân biệt bằng phương tiện môi giới của
‘trí phiền ‘ (mạt na) và tiếp tục đi vào ‘sáu thức quan sát’, mà
chúng lần lượt cung cấp cho tàng thức các ấn tượng về hành động,
hay nghiệp quả. Như vậy là ta đã có một tiến trình vòng tròn, nơi
đó tàng thức phát triển qua sự phân biệt cho sáu thức thực nghiệm,
mà chúng lần lượt gieo trồng các hột giống cho các hành động tương
lai trong mảnh đất phì nhiêu của tàng thức.
- Trang 152. Tàng
thức đặc biệt quan trọng trong Kinh lăng già và quả thật cho Phật
giáo Bắc truyền (Ðại thừa). Trong bản dịch Tây tạng, tàng thức
được gọi là thức cơ sở, làm nền tảng cho tất cả thức. Ðiều này có
nghĩa là nó có tiềm năng cho cả luân hồi và niết bàn, hiện tượng
và giác ngộ. Như vậy vì tính phân biệt mà tàng thức phát triển
tuần tự thành sáu thức thực nghiệm, nhưng cũng nhờ diệt trừ tính
này, tàng thức trở thành hạt giống của niết bàn.
- Ðiều quan trọng
là phải xét kỷ sự liên hệ giữa tàng thức và ý niệm Phật tánh
(tathagatagarbha, Như lai tạng). Hẵn bạn cũng biết sự liên hệ tự
nhiên giữa chúng theo những gì mà tôi đã nói về tiềm năng niết bàn
của tàng thức. Kinh Lăng già mô tả cái tâm, hay thức, tự bản chất
là thuần khiết. Thuần khiết như thế nào? Nghiên cứu tỉ mỉ Kinh
Lăng già, văn học kinh điển và các luận thuyết khác, ta thấy rằng
thuần khiết có nghĩa là ‘tâm không’. Vì thế, ‘cái thuần khiết
nguyên thủy của tâm’ là cái tâm thuần khiết ngay từ đầu, từ bên
trong, không có các đối đãi của hiện hữu - không hiện hữu, giống -
khác, v.v.. Sự thuần khiết này tương đương với ‘tánh không’. Sự
thuần khiết này chính là bản thể của Phật tánh, của tiềm năng về
niết bàn của tàng thức.
- Trang 153.
Chính trong bối cảnh này mà Phật tánh giống như vàng, như đá quý,
hoặc như một bộ đồ dơ bẩn. Sự thanh khiết nội tại (tánh không),
thấy được tiềm năng, nhận ra Phật tánh, khi những uế trược của
tính phân biệt được diệt trừ. Cái trong sáng của vàng, đá quý hay
đồ dơ lộ trần ra qua sự tinh lọc, rửa sạch các uế trược cũng giống
như bản chất nguyên thủy, nội tại, trống không và thanh khiết của
tâm qua sự diệt sạch thói quen phân ‘chủ thể - khách thể’ bằng lối
áp dụng kỷ luật của một vị Bồ tát.
- Tánh Phật là
tánh của tâm không và thanh khiết. Chính nhờ tánh không và thanh
khiết chủ yếu này của tâm, tất cả giống vật hữu tình đều có tiềm
năng để đạt Phật quả.
- Trang 153. Một
khối đồng có thể tạo thành một cái bô, một vật chứa nước ở đài
tưởng niệm, hay một tượng Phật, cũng giống như ‘tánh không’ của
tâm, tùy nhân và duyên, có thể xuất hiện dưới hình thức của một
sinh vật bình thường, một Bồ tát hay môt vị Phật.
- Phật Tánh không
phải là ngã hay linh hồn. Cũng không phải là một bản thể tịch
tĩnh. Nó có thể được so sánh với một dòng nước bởi vì nó luôn luôn
thay đổi, có nhiều mặt và rất năng động. Chính vì lý do này mà,
trong một Kinh nổi tiếng khác, Kinh Giải thâm mật
(Sandhinirmochana), đức Phật có nói rằng tàng thức sâu sắc và tế
nhị, chuyển động như một dòng nước với tất cả những hạt giống ấn
tượng đầy cảm tính. Ðức Phật nói rằng ông không dạy cái ý tưởng
tàng thức cho những người dại, vì sợ rằng họ có thể tưởng lầm nó
ra thành một cái ngã. Ðiều thú vị để chú ý rằng trên căn bản, tàng
thức tương tự với ý niệm tiềm thức tiệm tiến (bhavanga) của Nam
truyền (Tiểu thừa) và được tìm thấy trong Vi diệu pháp. Tiềm thức
này mang các hạt giống của những hành động đời trước. Ý niệm này
được nới rộng và chi tiết hóa trong Kinh Lăng già và trong triết
lý của trường phái Du già tông.
- Trang 154. Kinh
Lăng già gợi ý thêm một giáo thuyết quan trọng khác trong thời kỳ
hình thành: giáo thuyết tam thân của Phật quả: pháp thân tức kích
thước siêu việt (dharmakaya), báo thân tức kích thước thần thánh
(sambhogakaya) và hóa thân tức kích thước thế gian (nirmanakaya).
Tam thân phản ảnh 3 trình độ của thực tướng giác ngộ: 1. kích
thước siêu việt đồng nghĩa với trình độ rốt ráo của giác ngộ, nó
ra ngoài danh và sắc; 2. kích thước thần thánh, tượng trưng và lý
tưởng của Phật quả, chỉ những vị đạt được tình trạng tâm linh cao
mới với tới được; và 3. kích thước thế gian là kích thước của Phật
quả, dựa vào đó tất cả chúng ta dù chưa giác ngộ có thể với tới
được, có thể tham dự vào thế giới hiện tượng bình thường. Chính
kích thước thế gian này xuất hiện vô số các hình thức để nuôi nấng
dưỡng dục và giải phóng các giống hữu tình.
- Bạn có thể nhớ
lại bản thể của phái Bắc truyền (Ðại thừa) là lòng đại từ đại bi.
Các phương tiện thiện xảo, có được là do lòng đại từ bi, biểu hiện
cho việc nghĩ ra các giới luật, các cỗ xe cũng như vô số các hình
thức khác nhau của Phật quả mà hóa thân trên thế gian. Theo Kinh
Lăng già và những bản văn Bắc truyền khác, hóa thân Phật quả trên
thế gian có thể đảm nhiệm bất cứ hình thức nào. Có thể là một hình
thức đặc biệt có thể nhận ra được như Phật Thích Ca Mâu Ni rất
quen thuộc với chúng ta; có thể là hình thức của một người say
rượu, đánh bạc...để giúp đỡ hay giải thoát các giống vật hữu tình.
Nếu Pháp Phật không ảnh hưởng được kẻ say rượu, người đánh bạc,
cũng không lay chuyển được qua đạo hạnh của một vị Bồ tát thì Phật
hay một Bồ tát khác sẽ đảm nhiệm vai trò một trong những người
đồng hội đồng thuyền với anh ta, và qua việc thực hiện các phương
tiện thiện xảo sẽ giúp giải thoát con người đó. Ngoài việc giữ vai
trò các vật sinh động, Bồ tát có thể cũng mang hình thức các vật
không sinh động, như đồ ăn, quần áo, thuốc men, cầu đường
v.v...Ðiều này được Shantideva viết thật hay trong quyển Bồ tát
Hạnh (Bodhicharyavatara) của ông. Ông nguyện rằng ông có thể thành
đồ ăn cho những người đói khát, thuốc men cho những người bệnh,
chỗ trú ẩn cho những kẻ vô gia cư. Vì thế, qua những phương tiện
thiện xảo có được do lòng đại từ đại bi, đức Phật và Bồ tát xuất
hiện dưới vô số hình thức mà ta không biết được và không nhận ra
được, làm việc cho sự giải thoát các loài hữu tình, từng việc tùy
theo nhu cầu và khả năng của các vị đó.
--o0o--
|
|