|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Cây Giác-Ngộ
The
Tree of Enlightenment.
-
Chương 18
- (Trang
156 - 166.)
-
Triết lý Trung đạo
-
The Philosophy of the
Middle Way.
-
~~~~~~~
-
-
Triết lý Trung đạo (Madhyamaka) là triết lý quan trọng nhất của
phái Bắc truyền (Ðại thừa) và nó cũng được xem là triết lý chủ
yếu của Phật giáo nói chung. Ngoài ra, nó là giáo thuyết của
tánh không (shunyata) và cũng là thuyết (vada) của sự không có
(nih) tự tánh (svabhava)--nihsvabhavavada. Người sáng lập triết
lý này là thánh giả Long thọ (Nagarjuna), người đã sống vào cuối
thế kỷ thứ I và đầu thế kỷ thứ II Tây lịch. Ông sanh ở phía nam
Ấn độ, cha mẹ theo đạo Bà la môn. Nhưng các sử gia cho chúng ta
biết rằng ông là một người cải tâm sang Phật giáo lúc còn trẻ.
Long Thọ là luận sư hơn là nhà canh tân. Ông lấy một số cảm hứng
và hiểu biết từ các kinh điển và kinh Vi diệu pháp, giải thích
và trình bày lại rõ ràng hơn và thẳng thắn hơn. Ông nổi tiếng
nhờ những tác phẩm văn chương lớn lao, như các tác phẩm triết lý
Trung Ðạo Căn bản Luận Chương (Mulamadhyamakakarika) và Bảy Mươi
Chương về Tánh Không (Shunyatasaptati), và các tác phẩm về luận
lý, hạnh Bồ tát, các nguyên tắc cơ bản của Phật giáo và ngay cả
các tác phẩm của một nhân vật hết lòng mộ đạo, như bốn tác phẩm
đề cao đức hạnh mà Trí huệ Bát nhã Ba la mật là một. Các cố gắng
đẩy mạnh và truyền bá các tư tưởng quan trọng của phái Bắc
truyền (Ðại thừa) giúp ông chiếm được sự tôn kính khắp nơi không
chỉ ở Ấn độ mà còn ở Tây tạng, Trung hoa và Nhật bản. Ông đã nổi
bật trong số những người thành lập đầu tiên các tông phái Phật
giáo Tây tạng, Nhật bản (Zen), và Trung hoa (Ch’an).
-
Trang 157. Các tác phẩm của ngài Long Thọ, đúng ra là giáo lý
của Trung luận thuyết không phải là quá cấp tiến đến độ vượt ra
ngoài tổng quan của Phật giáo. Chúng có gốc gác rõ ràng từ lời
dạy của đức Phật và trong truyền thống đầu tiên của Phật giáo,
đặc biệt là Vi diệu pháp. Trong kinh điển Nam truyền (Tiểu thừa)
có các lời phát biểu của đức Phật về sự quan trọng của ‘tánh
không’ và cũng có một bộ tài liệu nổi tiếng ‘Mười Bốn Ðiều Không
Thể Nói Ra’ hoặc các câu hỏi không thể trả lời được. Ngoài ra,
chúng ta thấy rất rõ ràng tiền thân của Trung luận thuyết là ở
trong văn chương Trí huệ Bát nhã Ba la mật, trong đó chủ đề
chính yếu là ‘tánh không’. Ðây là chủ đề Bồ tát Long Thọ đã nói
rất chi tiết trong các tác phẩm Trung đạo Căn bản Luận
(Mulamadhyamakakarika). Trong Luận tạng (A tỳ đạt ma tạng) và
trong Nhân Quả Luận (Patthana) cũng vậy, chúng ta có thể thấy
việc đoán trước sự xuất hiện của Trung luận thuyết, qua việc đặt
tầm quan trọng là phải xét đến các mối liên hệ với nhau. Tất cả
những điều này là dấu chứng rõ ràng về nguồn gốc đầu tiên và
đích thực của Trung luận thuyết.
-
Nội dung của Trung luận thuyết không mới mẻ hay cấp tiến lắm.
Phương pháp của nó cũng không lạ và có thể tìm thấy trong thời
kỳ đầu của tín ngưỡng Phật giáo. Phương pháp đặc biệt của Trung
luận thuyết là phân tích: phân tích các hiện tượng và các mối
tương quan. Người ta cũng có thể nói: đặc tính của nó vừa là
phân tích vừa là phê bình có tính cách biện chứng. Tất cả hệ
phương pháp này, từ phân tích đến phê bình và sau cùng là biện
chứng, cũng được nói rõ trong các lề lối riêng mà đức Phật đã áp
dụng vào các bài giảng, bài kinh và trong phương cách của Vi
diệu pháp (Abidharma). Chúng ta thấy đó đây nhiều cách giải
thích khác nhau cùng các phương pháp dùng để trả lời các câu
hỏi. Ðiều này đủ chứng tỏ rằng các nguồn gốc và phương pháp của
Trung luận thuyết đã trở lại khá sâu trong lịch sử tư tưởng Phật
giáo.
-
Trang 158. Nói về tư tưởng căn bản của Long Thọ trong các tác
phẩm triết của ông thì điều quan trọng đầu tiên là cái đối tượng
mà ông phê bình. Ðó là cái ý niệm ‘thực thể độc lập’, hay ‘tự
tánh’. Giáo thuyết của ông được đặt tên là ‘giáo thuyết không tự
tánh’, nhấn mạnh đến việc bác bỏ ý niệm ‘tự tánh’.
-
Long Thọ phản bác ý niệm ‘tự tánh’ bằng cách xét đến thuyết
Tương đối (hay thuyết Duyên khởi) bằng phương pháp phê bình có
tính cách biện chứng. Ông bắt đầu với ý niệm ‘tự tánh’, kế đến
là ý niệm về tính tương đối tức là sự vắng mặt tự tánh, và chấm
dứt với ý niệm về ‘không tánh’ (shunyata). Ba bước này, từ bước
‘có tự tánh’ đến bước ‘không có tự tánh’, và cuối cùng đến bước
‘không tánh’, được phát triển qua 3 bước nghiên cứu: 1. nghiên
cứu lý nhân quả, 2. nghiên cứu các quan niệm và 3. nghiên cứu
tri thức. Qua việc nghiên cứu 3 bước này, Long Thọ và hệ thống
Trung luận thuyết giúp chúng ta chuyển được từ một lòng tin
‘ngây thơ’ vào ý niệm tự tánh, một tự tánh độc lập của các hiện
tượng (quả) chuyển qua sự hiểu biết tri thức về tánh không.
-
Ðầu tiên chúng ta hãy xét đến lối luận bình về nhân và quả của
thuyết Trung đạo. Triết lý Trung đạo nói về tánh không và tính
tương đối của các hiện tượng (quả) bằng cách xét đến thuyết
Duyên khởi. Nó cho ta thấy rằng, ngày nào các sự vật hiện hữu
còn tùy thuộc vào các nhân và duyên thì ngày đó chúng không có
tự tánh độc lập và vì vậy rỗng không. Một thí dụ cổ điển là thí
dụ về cái mầm, nó hiện hữu là nhờ vào hạt, đất, nước, không khí
và ánh sáng mặt trời. Vì lý do mầm phải tùy thuộc vào một số yếu
tố để được hiện hữu nên nó không có tự tánh. Và vì không có tự
tánh nên nó rỗng không. Ðây là điều giản dị nhất và trực tiếp
nhất về thuyết nhân quả của Trung luận thuyết. Nó dẫn chúng ta
thẳng đến ý niệm ‘tánh không’.
-
Trang 159. Ðối với Trung luận thuyết, tánh không cũng có nghĩa
là vô thỉ, vô tác. Trong văn chương Trí huệ Bát nhã cũng như
trong Tâm Kinh, ta thường thấy ý tưởng ‘vô thỉ vô chung’ xuất
hiện rất thường. Ở đây, ‘tánh không’ cũng có nghĩa là ‘không có
khởi thủy’ (vô thỉ), tức không sanh ra cái thực tướng của hiện
tượng. Long Thọ cắt nghĩa hậu quả ‘tánh không’ này qua phương
pháp biện chứng. Một lần nữa chúng ta thấy lối phân tích biện
chứng bốn mặt xuất hiện trong ‘Mười Bốn Ðiều Không Thể Nói Ra’
mà đức Phật đã dùng để phản bác.
-
Có
bốn điều có thể xảy ra cho việc phát sinh (nhân) ra các hiện
tượng (quả) tức liên hệ nhân và quả: 1. nhân và quả giống nhau
tức có nhân quả, 2. nhân và quả khác nhau tức không có nhân quả,
3. nhân và quả vừa giống vừa khác, và 4. các hiện tượng (quả)
khởi sanh mà không có (nguyên) nhân. Bốn điều căn bản này được
thấy trong phần đầu của quyển Trung đạo Căn bản Luận Chương
(Mulamadhyamakakarika). Nó cho biết rằng ‘Không có một thực thể
nào được tạo tác vào lúc nào, chỗ nào, do cách nào của ngã, hay
khác ngã, hay do cả hai, mà lại không có nguyên nhân’. Ðây là
bài luận bình căn bản của Trung luận về thuyết nhân quả.
-
Một điều đáng quan tâm là 4 chọn lựa căn bản này được phát sinh
do phân tích. Nếu không thì ta có thể tự hỏi sao lại chỉ tách
rời 4 điều thôi. Trung luận thuyết cô lập 4 điều này với phương
pháp sau đây: Nếu ‘quả’ có ‘nhân’ thì cái ‘nhân’ đó phải có
‘nhân trước’ hoặc không có nhân trước. Ở đây, chúng ta có hẳn 2
chọn lựa: ‘quả có nhân’ và ‘quả không nhân’. Cái lý thứ hai (quả
không nhân) là cái chọn lựa thứ tư. Bây giờ, nếu chúng ta chấp
nhận rằng quả thực sự khởi đầu có nhân, vậy thì cái quả và cái
nhân có thể giống nhau (có nhân quả) hoặc khác nhau (không có
nhân quả). Với phưong pháp này, chúng ta tách rời 2 cái đầu tiên
có nhân quả và không có nhân quả ra. Cái thứ ba, nhân và quả vừa
giống vừa khác, chẳng qua chỉ là sự hỗn hợp của cả hai. Với
phương pháp phân tích như vậy, ta đạt được sự chọn lựa là cuối
cùng từng cái một lần lượt bị bác bỏ.
-
Trang 160. Mỗi cách trong bốn cách giải thích về quan hệ nhân và
quả đều có một trường phái triết lý đại diện, cùng thời với
Trung luận thuyết. Cái lý cho rằng quan hệ nhân và quả giống
nhau (tức có nhân và quả) được đề xướng bởi hệ thống Sankhya,
một trong những hệ thống cổ điển của triết lý Ấn độ. Cái lý cho
rằng quan hệ nhân và quả khác nhau (tức không có nhân quả) do
các trường phái Phật giáo Nam truyền Tiểu thừa tức các nhóm
Sautrantikas (Kinh lượng bộ), nhóm Vaibhashikas (Tỳ bà sa) và
một số ít trường phái Ba la môn đưa ra. Cái lý cho rằng quả có
khi có nhân, có khi lại không có nhân được xác nhận bởi các
triết lý gia Jaina (Kỳ na giáo). Cái lý cuối cùng, lý cho rằng
tất cả quả là không có nguyên nhân, đã được các nhà chủ xướng
vật chất của Ấn độ cổ đại xác nhận.
-
Trung luận thuyết bác bỏ bốn lối giải thích trên bằng phương
pháp Trung luận đặc biệt được sự chú ý của nhiều trường phái cả
Ðông lẫn Tây. Ta gọi phương pháp này là ‘‘giảm dần đến khi vô
lý’’ (reductio ad absurdum; xem thêm trang 178). Ðây là loại
biện chứng trưng ra các mâu thuẩn và những vô lý kèm theo của
một luận cứ. Chúng ta thử chứng minh xem phương pháp biện luận
này hữu hiệu như thế nào. Ðầu tiên là luận cứ cho rằng nhân và
quả giống nhau. Trung luận thuyết nói rằng, nếu thật sự có nhân
nào quả nấy, thì sau khi mua hạt bông vải với giá tiền phải trả
cho vải, ta phải có thể may quần áo được với hạt bông vải. Ta
thấy ngay rằng cái lý ‘nhân và quả giống nhau’ dẫn đến sự vô lý.
Lại nữa, nếu nhân và quả giống nhau thì sẽ không có sự khác nhau
giữa cha và con, và cũng không có sự khác nhau giữa đồ ăn và
phân.
-
Trang 161. Luận cứ thứ hai, nhân và quả khác nhau: cái gì cũng
có thể khởi đầu từ bất cứ một vật gì, bởi vì tất cả các hiện
tượng (quả) đều khác ngang nhau. Nói như vậy thì cọng lúa có thể
nẩy mầm dễ dàng từ cục than giống như nẩy mầm từ hạt gạo, vì
không có liên hệ giống nhau giữa cọng lúa và hạt gạo, và vì cục
than lẫn hạt gạo đều khác ngang nhau với cọng lúa. Vì vậy luận
cứ cho rằng nhân và quả khác nhau tuyệt đối (hoàn toàn không có
nhân quả) là ý tưởng vô lý ngay từ bên trong.
-
Cái luận cứ thứ ba, nhân và quả vừa giống vừa khác, không chấp
nhận được vì có hai sai lầm. Sai lầm thứ nhất là, cả hai luận cứ
trên (nếu đúng) đều có thể áp dụng được cho luận cứ thứ ba. Lúc
nào nhân và quả giống nhau (nhân nào quả đó) thì ta áp dụng theo
lối giống nhau, lúc nào nhân và quả khác nhau thì ta áp dụng
theo lối khác nhau. Như vậy ta đâu cần một đề nghị thứ ba. Sai
lầm thứ hai là vì luật mâu thuẩn: không có hiện tượng nào vừa
hiện hữu lại vừa không hiện hữu cùng một lúc, cũng như một thực
thể không thể vừa đỏ vừa không đỏ.
-
Sau cùng, luận cứ cho rằng các hiện tượng (quả) khởi lên là
không có nhân. Lý này bị bác bỏ bởi sự quan sát các kinh nghiệm
hằng ngày. Chẳng hạn, nếu chúng ta đặt ấm nước lên lò lửa, nước
sẽ sôi, nhưng nếu đặt trên tảng đá, nước không sôi. Triết lý
Trung đạo kết luận rằng cả bốn chọn lựa trên là không thể có
được. Ðây là triết lý luận bình của Trung luận thuyết về quan hệ
nhân quả.
-
Trung luận thuyết cũng có bài luận bình về các quan niệm-- các
quan niệm về giống nhau và khác nhau, hiện hữu và không hiện hữu
(có và không), v.v...Tất cả những quan niệm này hỗ tương nhau và
duyên với nhau. Hãy lấy quan niệm ngắn - dài. Ngắn và dài là ý
tưởng có liên hệ với nhau. Chúng ta nói rằng A ngắn hơn B hoặc
là B ngắn hơn C, như vậy các quan niệm dài và ngắn chỉ tương đối
thôi. Nếu tôi để hai ngón tay kế bên nhau, ta có thể nói ngón
này dài hơn ngón kia. Nếu tôi lấy một ngón ra mà không có những
vật khác, ta không thể nói gì được là dài hay ngắn. Ðây là một
loại khác về sự tùy thuộc hay hỗ tương nhau. Sự tùy thuộc của
cái mầm vào hạt, đất, ánh sáng mặt trời, v.v...giống như sự tùy
thuộc nhau giữa các quan niệm: quan niệm này có liên hệ đến quan
niệm kia.
-
Trang 162. Cũng như cái đối đãi ‘ngắn - dài’, ‘giống - ‘ cũng
tùy thuộc hay hỗ tương nhau. Giống nhau chỉ có ý nghĩa khi nói
tới tính sai biệt, và sự sai biệt chỉ có lý khi có liên hệ đến
sự giống nhau. Hiện hữu và không hiện hữu (có và không) cũng
thế. Nếu không có cái ý có, thì làm gì có cái ý không; và nếu
không có cái ý không, làm gì có cái ý có. Ðây cũng là sự thật
của 3 đơn vị thời gian (tam thế): quá khứ, hiện tại và tương
lai. Dựa vào quá khứ, các ý tưởng về hiện tại và tương lai được
nhận biết; dựa vào quá khứ và tương lai, chúng ta nói đến hiện
tại; dựa vào hiện tại và quá khứ, chúng ta mới nói về tương lai.
Tam thế đó cũng như ngắn-dài, giống-khác, có-không, tất cả đều
tùy thuộc nhau, liên hệ nhau và trống không.
-
Cuối cùng, việc phân tích về tính liên hệ nhau cũng được áp dụng
vào tri thức, vào các phương tiện đạt được tri thức. Ðây là một
sự áp dụng quan trọng của phần phê bình của Trung luận thuyết,
bởi vì bình thường thì chúng ta hay chấp nhận cái thực tế các
hiện tượng trên căn bản nhận thức. Chẳng hạn, cái cốc mà nó có
trước mặt tôi đây, chắc chắn là có bởi vì tôi nhận ra được nó:
tôi có thể thấy và sờ nó. Chúng ta biết được các sự vật bằng
phương tiện tri thức. Thông thường, Ấn độ có 4 phương tiện để
đạt tri thức: 1. nhận thức, 2. suy luận, 3. bằng chứng, và 4. so
sánh.
-
Trang 163. Ðể cho giản dị, chúng ta hãy lấy trường hợp nhận
thức. Giả thử ta thấy biết (nhận thức) được một vật nào đó. Qua
cái thấy biết đó, chúng ta chấp nhận sự hiện hữu của cái tách.
Vậy thì, cái gì chứng minh cái hiện hữu cho cái thấy biết đó
(tức cái phương tiện của nó)? Ta có thể cho rằng, nhận thức đó
được chứng minh bởi chính nó, nên không cần bằng chứng; nhưng,
cho phép tôi hỏi lại, kể từ lúc nào thì vật đó được chấp nhận mà
không cần bằng chứng?
-
Một việc khác, ta có thể nói rằng sự nhận thức được thiết lập
hay chứng minh bởi những phương tiện của tri thức, nhưng trong
trường hợp đó chúng ta luôn có một sự ‘thoái lui vô hạn’, như
trong câu chuyện cổ của một triết lý gia sau đây. Khi được hỏi
trái đất đứng trên cái gì, ông đã trả lời rằng nó đứng trên một
con rùa vĩ đại, và khi được hỏi con rùa vĩ đại đứng trên cái gì,
ông nói nó đứng trên 4 con voi vĩ đại, v.v..Không có cái gì
chúng ta có thể tìm ra một nền móng vững chắc cho nhận thức nếu
nhận thức được chứng minh bởi những phương tiện khác của tri
thức.
-
Trang 163. Cuối cùng, nếu việc nhận thức được là do chính sự vật
của nó, vậy thì nhận thức và sự vật sở dĩ có là để bổ túc và phụ
thuộc nhau. Quả thực là đúng như vậy: cái chủ thể và đối tượng
của nhận thức tùy thuộc lẫn nhau. Chúng duyên với nhau một cách
hỗ tương. Cho nên, một mình nhận thức không chứng minh được sự
hiện hữu của vật, và một mình sự vật cũng không chứng minh được
sự hiện hữu của nhận thức: chúng phụ thuộc với nhau. Vì thế sự
thấy biết tùy thuộc lẫn nhau, giống như nhân - quả và các quan
niệm liên hệ hỗ tương khác. Nó thiếu tự tánh và có tánh không.
Long Thọ đã có một bản văn thảo luận về điểm này rất đáng chú ý,
nó được gọi là ‘Sự Không Phản Bác Nữa’ (The Turning Away of
Objections, Vigrahavyavartani).
-
Bây giờ chúng ta xét đến vài áp dụng thực tế hơn, có giá trị
‘chữa bệnh’. Trung luận thuyết dùng phương pháp phê bình và biện
chứng để phản bác các ý niệm về nhân - quả, về các quan niệm
liên hệ hỗ tương, và về chủ thể - đối tượng của tri thức. Những
ý niệm này là những sản phẩm tưởng tượng, hay tư tưởng phân biệt
(hay biến kế sở chấp, vikalpa). Trung Luận thuyết nghĩ đến việc
đánh tan các biến kế sở chấp này: chúng là nguyên nhân của đau
khổ. Chính vì hậu quả của việc phân biệt nhân - quả , giống -
khác, hiện hữu - không hiện hữu (có - không), v.v...mà chúng ta
bị giam hãm trong luân hồi. Biến kế sở chấp (tư tưởng phân biệt)
có hạt giống của nó trong tâm thức, là nguyên nhân căn bản của
đau khổ.
-
Trang 164. Long Thọ nói rằng, giống như một họa sĩ sau khi vẽ
tranh một con quỹ đáng sợ, liền bị sợ hãi bởi hình ảnh đó. Người
không biết (vô minh) cũng vậy, qua vọng tưởng phân biệt mới nảy
sinh ra cái vòng 6 cõi hiện hữu, rồi hậu quả là chịu khổ. Vì
thế, cái tâm thức, bị làm khổ bởi sự không biết (vô minh), qua
sự vận hành của biến kế sở chấp, sản sinh ra thế giới chúng ta
đang ở (thế giới luân hồi này), nơi mà các khái niệm được cho là
có ý nghĩa (kỳ thật là giả) như nhân - quả, sinh - diệt v.v....
Ðây là nguồn gốc của đau khổ. Và nếu luân hồi là sản phẩm của
biến kế sở chấp--cũng như nếu nhân-quả, giống-khác, có-không,
thực sự tùy thuộc nhau, rỗng không--thì luân hồi và niết bàn
cũng không thực sự khác nhau ở ngoài tâm trí (khác nhau khách
quan).
-
Giáo thuyết nổi tiếng của Ðại thừa và Trung luận về sự không
phân biệt luân hồi và niết bàn là những điều dạy về sự khác nhau
chủ quan giữa luân hồi và niết bàn, sự khác nhau chỉ vì do cái
tâm riêng của mỗi người. Nó không phải là sự khác nhau có thực,
ở ngoài tâm trí. Luân hồi và niết bàn là như nhau, nhưng vì được
thấy từ 2 quan điểm khác nhau nên mới có khác nhau: quan điểm
của vô minh (nhân - quả, giống- khác, hiện hữu - không hiện
hữu), hiện thực ra là luân hồi; và quan điểm của vô ngã, duyên
sinh và tánh không, hiện thực ra là niết bàn.
-
Vì
thế luân hồi và niết bàn không tùy thuộc vào một vật gì ‘ở ngoài
đó’: Chúng có là do quan điểm. Chính trong bối cảnh này mà việc
mô tả niết bàn nhấn mạnh sự kiện là nó ở ngoài hiện hữu và không
hiện hữu, ở ngoài thỉ và chung, ở ngoài tất cả các ý niệm và các
biểu lộ. Thật vậy, nếu niết bàn không bị điều kiện hoá, nó phải
vượt qua những khái niệm tương đối này. Hai quan điểm 1. vọng
tưởng cùng vô minh, và 2. vô ngã, tương đối và chơn không--được
phản ảnh trong giáo thuyết của sự thật quy ước (tục đế) và sự
thực rốt ráo (chơn đế). Tục đế có giá trị cho thế giới ta bà,
trong đó vô minh là nổi bật, trong đó chúng ta điều hành bằng
cách chấp nhận--và cho nó là điều dĩ nhiên--các ý tưởng của nhân
và quả, giống và khác, hiện hữu và không hiện hữu v.v.... Chơn
đế có giá trị được thấy dưới ánh sáng của vô ngã, tương đối, và
chơn không. Tục đế và chơn đế, cũng như luân hồi và niết bàn,
không mâu thuẫn mà bổ túc cho nhau. Chúng có ý nói đến 2 quan
điểm: quan điểm thông thường, chịu khổ bởi vô minh, và quan điểm
giác ngộ.
-
Long Thọ nói rằng, nếu không dựa vào sự thật quy ước (tục đế),
thì không thể biết được sự thật rốt ráo (chơn đế), và nếu không
đạt được chơn đế thì không hoàn tất được niết bàn. Như vậy,
chúng ta có thể hiểu sự liên hệ và cần thiết của hai sự thật
này. Chúng ta phải dựa vào tục đế để truyền đạt và vận hành
trong thế giới, tuy thế nếu không hiểu biết chơn đế thì cũng
không đạt được niết bàn. Vì thế chúng ta có thể thấy một vài
phần tử chống đối của chủ nghĩa hư vô đã buộc tội không có cơ sở
khi chống lại Trung luận thuyết. Chơn không không có nghĩa là
không có gì. Trung luận thuyết không dạy cái không hiện hữu
tuyệt đối của nhân và quả, hay nghiệp quả (những hành động thiện
và bất thiện cùng những hậu quả của nó). Tất cả những cái này
chỉ hiện hữu theo quy ước. Chúng hiện hữu khi nào chúng còn vọng
tưởng và vô minh. Nếu không dựa vào ý niệm nhân và quả, hay giáo
lý nghiệp quả thì không biết được cái rốt ráo. Tuy thế nếu không
vượt qua nhân quả, nghiệp quả, khái niệm, các biểu hiện thì niết
bàn không được hoàn tất.
-
Trang 166. Long Thọ xác quyết rằng nhân duyên, chơn không và
Trung đạo là giống nhau. Nói theo vô minh thì nhân duyên giải
thích, trợ sức và chính là bản chất của luân hồi. Nhưng nhân
duyên cũng là không, bởi vì mọi vật tồn tại tùy thuộc vào một số
vật khác không thực sự tồn tại: nó không thực hữu và không tồn
tại bởi chính nó. Vì thế, nó là chơn không. Tất cả những gì do
duyên khởi cũng là chơn không. Và cái duyên khởi nào tránh được
các đối đãi giống - khác, hiện hữu - không hiện hữu, vĩnh cữu -
hư vô... cũng là cái Trung đạo do đức Phật dạy. Vì thế hệ thống
được Bồ tát Long Thọ thành lập và được duy trì bởi các môn đệ
thừa kế là triết lý Trung đạo, hay Trung luận thuyết.
--o0o--
|
|