|     | 
  
           
  | 
              PHẬT HỌC CƠ BẢN 
             
                --o0o--
                   
                  
                  Cây Giác-NgộThe Tree of 
                  Enlightenment.
                   
                  
                  Chương 19
                   (Trang 
                  167 - 176.)
                   
                  
                  Pháp-tướng Duy-thức học (Tâm lý học Phật giáo)
                   
                  
                  The Philosophy of Mind Only
                   
                  
                  ~~~~~~~
                
                Trường phái Duy Tâm và trường phái Trung Ðạo là triết lý chính 
                yếu của giáo pháp Ðại thừa. Nói là Duy Tâm nhưng nó có nhiều tên 
                gọi, trong đó ba tên phổ biến nhất là Duy Tâm (Chittamatra, ý 
                chính là Tâm), Duy thức tông (Vijnanavada, ý chính là Thức) và 
                Du già tông (Yogachara, ý chính là sự hợp nhất thiền na và hành 
                động). Du già tông chuyên về thiền định và giới hạnh- yoga và 
                achara) (LND: Phật giáo Việt nam ta quen gọi lại là ‘Pháp tướng 
                Duy thức học’, là một từ đầy đủ cho một từ Tây phương khác thông 
                dụng hơn trong chúng ta. Ðó là từ ‘Tâm lý học’. Cũng vì có chữ 
                Tâm -Mind- trong bài này, nên tôi xin tạm gọi là ‘Tâm lý học 
                Phật giáo’ hay gọn hơn là Tâm lý học (T L H)’ kể từ đây về sau). 
                Trường phái trên xuất hiện như là một phái triết lý dộc lập, 
                được nhận dạng vào thế kỷ IV trước Tây lịch.
                
                Hai anh em Vô Trước và Thế Thân giữ vai trò chánh trong việc 
                thành lập và phổ biến triết lý của môn T L H này. Họ sanh ở miền 
                Tây Bắc Ấn độ, hiện nay thuộc Hồi quốc. Qua những bài viết và 
                với kỷ năng vừa là giáo thụ vừa là tranh luận gia, họ đã đại 
                chúng hóa triết lý trên trong một thời gian ngắn kỷ lục. Ngay từ 
                đầu họ là những nhà đa nguyên thực tế. Ngoài vô số tác phẩm 
                triết lý của môn này, Thế Thân đã nổi tiếng nhờ quyển kinh 
                Abhidharmakhosa (A tỳ đạt ma Câu xá) cho Nam truyền (Tiểu thừa), 
                một bộ triết học Vi diệu pháp (Abidharma) được viết từ quan điểm 
                của phái Nam truyền Vaibhashikas (Tỳ bà xa).
                
                Hai nhà đại học giả này đã cải tâm sang Ðại thừa và cùng nhau 
                viết một số lớn tác phẩm trong đó họ định nghĩa, phân loại và 
                giới thiệu triết học môn T L H này. Vô Trước nổi tiếng nhờ quyển 
                Các Giai Ðoạn của Con đường Bồ tát (Bodhisattvabhumi) tức Bồ tát 
                Thập Ðịa (The Ten Grounds of Bodhisattva), quyển Bảng Trích yếu 
                Vi diệu pháp (Abhidharmasamuchchaya), được viết từ quan điểm Bắc 
                truyền cùng nhiều bài luận bình về những tác phẩm lớn của Môn 
                này. Thế Thân nổi tiếng với các luận thuyết qua bộ ‘Duy Nhận 
                Thức’ (Cognition Only) và một luận thuyết cắt nghĩa ba đặc tính 
                của triết lý môn T L H này.
                
                Những lời luận bình của Vô Thức về một số bản văn quan trọng của 
                trường phái trên, theo truyền thống Ðại thừa, được cho là của 
                Ðức Di Lặc. Mặc dầu các học giả hiện đại đã thử cố gắng nhận 
                dạng Bồ tát Di Lặc theo ý nghĩa lịch sử, nhưng giáo pháp Ðại 
                thừa thì không nghi ngờ gì rằng Di lặc là đức Phật vị lai, hiện 
                đang ngự tại cõi trời Ðâu suất (Tushita Heaven). Các tác phẩm 
                chính của trường phái trên được cho là của ông, bao gồm Trung 
                biên phân biệt luận (Distinction of the Middle from the 
                Extremes, Madhyantavibhaga) và Ðại thừa Trang nghiêm luận Kinh 
                (Ornament of the Mahayana, Mahayanasutralanka) (Xem thêm ‘Tâm lý 
                học Phật giáo’ của Thích Tâm Thiện, trang 84). Người ta tin rằng 
                chúng đã được chuyển từ Di Lặc qua Vô Trước, người đã viết ra và 
                luận bình. Chính trong ý nghĩa này mà một số lớn các bản văn căn 
                bản của triết lý trên được cho là của đức Phật Di Lặc vị lai.
                
                Giống như triết lý Trung đạo, triết lý của Tâm lý học Phật giáo 
                có nguồn gốc từ truyền thống cổ đại nhất của Phật giáo. Chẳng 
                hạn, theo như trong kinh điển Thượng tọa bộ Nam truyền, đức Phật 
                tuyên bố rằng ‘tâm’ là kẻ sáng tạo của tất cả các sự vật và ám 
                chỉ đến tính chất sáng suốt và thuần chất của lương tâm. Các bộ 
                kinh Ðại thừa bao gồm nhiều bài kinh giảng, như Kinh Lăng già 
                (Lankavatara Sutra), kinh này đề cập rất đầy đủ với những nguyên 
                tắc căn bản của triết lý trên. Vì thế, một truyền thống có bản 
                văn viết đầy đủ và có tầm vóc thực sự đã xuất hiện một cách độc 
                lập trước khi có triết lý trên.
                
                Ngoài những bản kinh xuất hiện trước đó thuộc kinh điển Nam 
                truyền và Bắc truyền, chúng ta cũng tìm thấy những bản kinh xuất 
                hiện trước triết lý Tâm lý học trong tiến trình phát triển tư 
                tưởng Phật giáo. Tất cả chúng ta biết rằng ngay từ đầu, cái 
                ‘tâm’ cực kỳ quan trọng trong Phật giáo. Chúng ta chỉ cần nhớ 
                lại sự xác quyết của đức Phật về vai trò sáng tạo của tâm để 
                nhận ra chỗ đứng chính yếu của nó trong tư tưởng Phật giáo, hoặc 
                để xem xét 37 Phẩm Trợ đạo (LND: tức Bodhipakkhiya dhamma--xin 
                xem Chương 40 quyển này và Phật học Từ điển-- gồm: Tứ niệm xứ 4, 
                Tứ chánh cần 4, Tứ như ý túc 4, Pháp ngũ căn 5, Pháp ngũ lực 5, 
                Thất giác chi 7, Bát chánh đạo 8) đã được đánh động như thế nào 
                khi chúng liên hệ với cái tâm.
                
                Trang 169. Cái quan trọng chánh yếu của ‘tâm’ tiếp tục dược đề 
                cập trong các trường phái Vaibhashika (Tỳ bà xa) và Sautrantika 
                (Kinh lượng bộ), hai trường phái thực tế và đa nguyên đã nở rộ 
                trước khi có sự xuất hiện các trường phái Trung đạo và Duy Tâm. 
                Trường phái Vaibhashika (Tỳ bà xa) lấy tên đó từ các bài phê 
                bình được đưa ra trong kỳ Kết tập lần thứ tư, thế kỷ Tây lịch 
                đầu tiên. Có lẽ đó là các trường phái chi li, thực tế và đa 
                nguyên nhất trong các trường phái Ấn độ, và cũng đa nguyên, thực 
                tế hơn Nam truyền Tiểu thừa ở Tích Lan. Trường phái Tỳ bà xa 
                (Vaibhashikas) đề xướng giáo thuyết hai đặc tính của các Pháp 
                Phật: đặc tính hiện tượng và đặc tính vĩnh cữu. Ðặc tính vĩnh 
                cữu nầy đôi khi được so sánh với học thuyết tư tưởng của Plato 
                trong triết lý Hy lạp.
                
                Kinh lượng bộ (Sautrantika) đặt tên như vậy do sự kiện muốn trở 
                lại các điều dạy nguyên thủy của đức Phật chứa đựng trong các 
                kinh điển. Ðây là trường phái phản bác tính chất xác thực của Vi 
                diệu pháp (Abidharma). Những người của Kinh lượng bộ có khuynh 
                hướng triết học bởi vì họ nhấn mạnh đến vai trò của khái niệm 
                hóa, hay phân biệt, hay biến kế sở chấp (vikalpa). Họ phản bác 
                một thực tế độc lập, khách quan của các yếu tố mà những người 
                của Vaibhashikas (Tỳ bà xa) đã chấp nhận, quy những pháp này 
                (xem lại đoạn trên nói về hai đặc tính của các pháp Phật) cho sự 
                vận hành của việc phân biệt hay tưởng tượng (Xem thêm ‘Duy thức 
                học’ của Giáo sư Ðại học Văn khoa Thích Quảng Liên, trang 144). 
                Ðiều này đã hướng gần hơn với quan điểm của Tâm lý học Phật 
                giáo, và sau đó họ phản bác cái thực hữu khách quan của tất cả 
                các pháp và xác quyết cái thực hữu độc nhất của (tâm) thức.
                
                Ngoài ra, những người của Kinh lượng bộ đã hình thành ‘thuyết 
                nhận thức’ rất đáng chú ý. Họ tin rằng chúng ta không bao giờ 
                thực sự biết ngoại vật một cách trực tiếp và rằng những gì ta 
                nhận thức (chẳng hạn, cái tách trước mặt tôi) là một biểu hiện 
                tinh thần của vật đó. Tiến trình của nhận thức là sự nhận ra các 
                biểu hiện tinh thần của ngoại vật. Những người của Kinh lượng bộ 
                cho rằng những biểu hiện tinh thần này là kết quả của ngoại vật. 
                Họ cho rằng kết quả mà chúng ta biết đến sự hiện hữu của các vật 
                bên ngoài là do quá trình suy luận mà ra. Những hình ảnh hay các 
                phản ảnh tinh thần của ngoại vật là bằng chứng hiện hữu của vật 
                đó, mặc dầu chúng ta không thể biết nó một cách trực tiếp.
                
                Trang 170. Lý thuyết này rất giống với ‘thuyết nhận thức’ 
                (theory of perception- perception được dịch là ‘tưởng’ trong 
                ‘sắc, thọ, tưởng, hành, thức’ của Phật giáo, LND) của John 
                Locke. Tôi cảm thấy ý kiến này quan trọng vì nếu được chấp nhận, 
                nó sẽ để lại một tình trạng không ổn định cho thế giới bên 
                ngoài, bởi vì chúng ta sẽ không bao giờ biết các sự vật của 
                chính nó mà chỉ là những nội dung do tâm thức ta biến hóa ra mà 
                thôi. Vì thế qua sự nhấn mạnh vai trò tưởng tượng (hay khái niệm 
                hóa), sự phát triển triết lý của phái Kinh lượng bộ đã cho thấy 
                trước cái triết lý tâm linh ‘đầy đủ lông cánh’ của Tâm lý học, 
                trường phái cho rằng những sự vật hiển hiện của thế gian trần 
                tục này không có gì khác hơn là (tâm) thức.
                Có 
                nhiều đoạn trong đó triết lý Tâm lý học phát triển giáo thuyết 
                của mình qua tính ưu việt của tâm thức. Những người theo nó tin 
                rằng các pháp tùy thuộc vào tâm để biểu thị đặc tính và sự hiện 
                hữu của chúng. Ðầu tiên, trường phái Tâm lý học cho rằng một vật 
                đơn độc có ý nghĩa khác nhau đối với mỗi sinh vật hữu tình khác 
                nhau. Lời lý luận này được đưa ra khi xét đến 6 cõi giới. Chẳng 
                hạn, một tách sữa hiện ra với chúng ta là sữa, nhưng nó sẽ hiện 
                ra như là mật hoa đối với thần thánh, là sắt nóng chảy đối với 
                các sinh vật ở địa ngục, là mủ hay máu đối với các ma đói. Một 
                vật đơn độc có ý nghĩa khác nhau đối với mỗi sinh vật khác nhau 
                trong luân hồi theo nghiệp dẫn của chúng. Nói một cách khác, một 
                vật xuất hiện có ý nghĩa khác nhau tùy theo tình trạng tâm thức 
                chủ quan bị tác động. Chúng ta có thể thấy rõ điều này mà không 
                cần dẫn chứng đến 6 cõi. Thí dụ, một phụ nữ có thể là một vật 
                hấp dẫn về phái tính đối với nam giới, nhưng là một đống thịt 
                đối với chó sói, là một bộ xương người đối với A la hán. Ðây là 
                lý luận đầu tiên mà trường phái Tâm lý học Phật giáo đã dùng 
                trong việc chứng minh cho mặt chủ quan của kinh nghiệm.
                
                Thứ hai, trường phái này đã dùng thí dụ về việc nằm mơ, lý luận 
                rằng trong giấc mơ, cái tâm tạo ra và hướng tới một cõi khác với 
                tất cả chủ định và mục đích. Còn mơ thì còn thấy có thực. Hết mơ 
                thì mới biết nó là giã. Ðọc ‘Duy Nhận Thức Thập Nhị Chương’ của 
                Thế Thân (Vasubandhu), chúng ta có thể thấy cách ông phản bác 
                lại ý kiến cho lý luận loại suy này là sai. Chẳng hạn, những 
                người đối lập đã nói rằng kinh nghiệm trong giấc mơ không có 
                tính cách phối hợp như kinh nghiệm lúc tỉnh thức. Thế Thân chống 
                lại rằng chúng ta thực sự kinh nghiệm những diễn biến cùng chung 
                với những nhân vật khác trong một giấc mơ nhất định. Những người 
                đối lập cũng nói rằng kinh nghiệm trong giấc mơ không hữu hiệu 
                và không có khả năng đem lại kết quả thực sự, tuy vậy Thế Thân 
                nói rõ, bằng cách dùng thí dụ của việc xuất tinh ban đêm, nó 
                không phải là như vậy. Nói tóm lại, xét kỹ kinh nghiệm trong 
                giấc mơ, chúng ta sẽ bị bắt buộc chấp nhận rằng, ngày nào còn 
                trong tình trạng mơ mộng, ngày đó không có bằng chứng hợp lý để 
                dựa vào đó ta có thể phân biệt nó với kinh nghiệm lúc thức tỉnh.
                
                Trang 171. Ðiều đáng chú ý là lối loại suy này đã nhận được sự 
                ủng hộ trong những năm vừa qua từ các bằng chứng thí nghiệm 
                trong việc làm mất cảm giác. Các sự thí nghiệm này đặt những 
                người tình nguyện trong tình trạng bị cắt đứt các kích thích cảm 
                giác, sau đó một số vấn đề được tạo ra, hoàn toàn không có ý 
                thức riêng của họ: đây là một thế giới ba chiều. Sau đó với lối 
                lý luận Duy thức (Tâm lý học Phật giáo), phát triển dựa theo 
                kinh nghiệm trong giấc mơ, đã có sự thuyết phục khá vững chắc.
                
                Thứ ba, trường phái trên bác bỏ sự hiện hữu độc lập của các pháp 
                bằng cách nói rõ là vật chất có thể được phân chia ra một cách 
                vô hạn. Vậy là Phật giáo có thêm một kết luận vững chắc do các 
                khám phá khoa học ngày nay đã xác nhận. Các luận sư Duy Thức đã 
                lý luận rằng ý niệm của một nguyên tử--tức một đơn vị vật chất 
                không còn chia ra được nữa--là không thể có được. Họ cho rằng để 
                sản xuất một khối vật chất lớn hơn, cần phải có sự hỗn hợp của 
                các nguyên tử.
                
                Nguyên tử không thể chia ra được và thuần nhất, và vì thế được 
                cho là không có bộ phận rời. Người ta nghĩ rằng các vật (như cái 
                tách hay cái bàn) là những tổng hợp nguyên tử rồi thành những 
                vật lớn hơn. Các vật trở thành khối qua sự thu góp vô số các 
                nguyên tử trong một chuỗi nối tiếp. Nếu nguyên tử không còn chia 
                ra được nữa và không có bộ phận rời thì chúng sẽ không thể nào 
                ráp lại nhau được. Tuy nhiên, nếu các nguyên tử bắt buộc phải 
                hợp lại nhau để thành lập các khối vật chất to hơn thì mỗi 
                nguyên tử phải có ít nhất sáu phần phân biệt được: trên, dưới, 
                đông, tây, nam và bắc.
                
                Trang 172. Với lối lý luận này, Thế Thân và các luận sư Duy Thức 
                khác đã thiết lập thuyết nguyên tử có-thể-chia-ra-được một cách 
                vô hạn. Kết luận này đã được các vật lý gia hiện đại chứng nhận, 
                và thế là một lần nữa khái niệm phân tích cổ đại đã được xác 
                nhận bởi các khám phá khoa học thực nghiệm thời nay. Nguyên tử 
                và các thành phần của nó đã được cho thấy là có thể giảm dần 
                thành những phần nhỏ hơn, và cuối cùng đến thời điểm nào đó sẽ 
                đạt được bằng chứng đáng giá sau cùng.
                
                Bằng những lý luận bác bỏ sự hiện hữu của vật chất, các luận sư 
                Duy thức đã thiết lập tính tương tác giữa chủ thể và đối tượng, 
                tức cái dạng của các sự vật của thức với chính cái thức đó. Họ 
                cho ta thấy cái bất nhị giữa chủ thể và đối tượng của thức--giữa 
                thức và các nội dung của nó.
                
                Bây giờ tôi muốn nói đến một ý tưởng trong Kinh Lăng già mà Thế 
                Thân đã để hết lòng vào một trong những tác phẩm nổi tiếng của 
                ông: Thuyết Tam Tính. Ðây là một giáo lý rất quan trọng đối với 
                triết lý Duy thức (Tâm lý học Phật giáo), giáo lý ba đặc tính 
                (hay ba trình độ) của thực tướng: 1. tính ảo tưởng (tính qui cho 
                ai/cái gì, biến kế sở chấp tính, parikalpita), 2. tính tùy duyên 
                hay liên hệ (duyên khởi tính, y tha khởi tính, paratantra), và 
                3. tính viên mãn hay hoàn tất (viên thành thật tính, 
                parinishpanna).
                Ba 
                đặc tính này giống như 1. sự tin tưởng sai lầm, cho rằng có nước 
                trên sa mạc; 2. chính sự có nước trên sa mạc, tùy duyên vào bầu 
                không khí; và 3. tánh không, xét theo sự liên hệ nhau, tùy thuộc 
                vào nhân và duyên. Tin tưởng nước có trong sa mạc là hoàn toàn 
                sai và tương đương với biến kế sở chấp tính (ảo ảnh, qui lỗi). 
                Sự xuất hiện của nước liên hệ với nhân và duyên tương đương với 
                duyên khởi tính (tùy duyên). Tánh không của cái ảo tưởng có nước 
                trên sa mạc, tương đương với viên thành thật tính (viên mãn).
                
                Trang 173. Cần chú ý đặc biệt đến tính thứ hai của ba tính chất, 
                tính chất tùy duyên. Chính tính này là trọng yếu của triết lý 
                Duy thức, vì nó liên quan đến sự giải thoát và giải phóng con 
                người. Tính tùy duyên này giống với cái tâm, và đặc biệt với 
                tạng thức, mà chúng ta đã thảo luận trong việc học tập Kinh Lăng 
                già (xem Chương 17). Cái ý nghĩa của tính chất tùy duyên này là, 
                một mặt ta tạo ra cái ngục tù ảo ảnh luân hồi và mặt khác, tiềm 
                năng cho sự giải thoát đến niết bàn.
                
                Tôi đã nói rằng tạng thức đã được đặt tên bởi người Tây tạng 
                ‘cái thức căn bản cho tất cả’, và rằng với ý nghĩa này, đây là 
                cái rễ căn của luân hồi và niết bàn. Ở đây ta cũng có thể thấy, 
                một mặt, tính tùy duyên, nếu nó được phân biệt theo sự vật bên 
                ngoài, sẽ có kết quả là cái tâm hướng ngoại, tức là luân hồi. 
                Nếu tâm phân biệt ngoại vật chia đôi tính tùy duyên thành chủ 
                thể và đối tượng thì ta sẽ có sự xuất hiện tính biến kế sở chấp, 
                có nghĩa là, đành phải chịu những ý tưởng giả huyễn (ý tưởng có 
                nước trong sa mạc, hay chính cái ngã v. v...) tức là ta bị luân 
                hồi.
                
                Mặt khác, nếu tính tùy duyên này giống với tạng thức (A lại da 
                thức), không bị vọng tưởng (biến kế sở chấp); và nếu chủ thể và 
                đối tượng nhận ra được tánh không, tạng thức sẽ tạo ra tính viên 
                thành thật: kết quả là tự do, giải thoát. Vì thế tính tùy duyên 
                là trung tâm của Tam tính. Nếu bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt, nó 
                trở thành ảo tưởng, luân hồi; nếu không bị tác dụng của nhị 
                nguyên, nó biến thành niết bàn.
                
                Trang 174. Có điều thú vị là tính tùy duyên cũng là nguồn hoạt 
                động đầy tính hiện tượng phi thường của các Chư Thánh đã giác 
                ngộ. Nói một cách khác, tính tùy duyên, hay tạng thức, khơi 
                nguồn cho tất cả dạng thức, các dạng thuộc phạm vi trần thế và 
                dạng thuộc phạm vi thần thánh: Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát 
                (Manjushri) và Quan thế âm Bồ tát (Avalokiteshvara), những vị 
                giúp cho các giống vật hữu tình được giác ngộ.
                
                Bạn hẵn còn nhớ rằng, trong thí dụ ảo tưởng có nước trong sa 
                mạc, cái ý niệm hiện hữu của nước thuộc về biến kế sở chấp tính 
                (ảo tưởng hay qui lỗi); sự xuất hiện của nó là một hiện tượng 
                tác động lên tính tùy duyên. Chúng ta có thể giải thích điều này 
                về phương diện kinh nghiệm--cái kinh nghiệm khác nhau của chủ 
                thể và đối tượng. Ý niệm có một sự vật bên ngoài, độc lập với 
                thức, hay tâm, thuộc về cõi của biến kế sở chấp tính (ảo tưởng 
                hay qui lỗi), trong khi đó sự xuất hiện các hiện tượng không có 
                các ý niệm sai lầm thuộc về tính tùy duyên.
                Vì 
                thế tính tùy duyên thực chất là thuần nhất và có thể vận hành 
                một cách vị tha cho việc giải phóng những cái khác. Với ý nghĩa 
                này, ba đặc tính trong hệ thống Duy thức tương ứng vớ ba kích 
                thước của Phật quả: biến kế sở chấp tính (ảo tưởng) tương ứng 
                với tầm vóc thế gian, duyên khởi tính (tùy duyên) với tầm vóc 
                thần thánh, và viên thành thật tính (viên mãn) với tầm vóc tiên 
                nghiệm. Vì thế khi chư Phật xuất hiện qua hình thức các nhân vật 
                lịch sử thì đây là sự xuất hiện của tính tùy duyên: dưới dạng 
                nhị nguyên chủ thể và đối tượng. Khi Chư Phật không xuất hiện 
                dưới hình thức chủ thể và đối tượng (hình thức lý tưởng của chư 
                Bồ Tát như Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi và Quán Thế Âm) thì đây là sự 
                xuất hiện của kích thước thần thánh, của tính tùy duyên, không 
                bị ảnh hưởng của nhị nguyên chủ thể và đối tượng.
                
                Trang 175. Tôi xin kết luận bằng cách nhấn mạnh đến sự tương ứng 
                rất gần gũi giữa hai triết lý Duy thức và Trung đạo. Bạn hẵn nhớ 
                là ta đã có các khái niệm luân hồi và niết bàn trong triết lý 
                Trung đạo, được xem như là ý niệm của toàn thể tư tưởng Phật 
                giáo. Ta lại có hai khái niệm sư phạm--sự thật quy ước (tục đế) 
                và sự thật rốt ráo (chơn đế), tương ứng với luân hồi và niết 
                bàn. Trong triết lý Trung đạo, cái gì là trung gian giữa tục đế 
                và chơn đế, giữa luân hồi và niết bàn? Làm sao mà sau đó chúng 
                ta có được một bản sắc vô phân biệt của luân hồi và niết bàn 
                trong trường phái Trung đạo? Xem xét triết lý Trung đạo, chúng 
                ta thấy rằng thuyết Duyên khởi là nguyên tắc phối hợp tục đế và 
                chơn đế, luân hồi và niết bàn. Trong Căn Bản Trung Quán Luận 
                (Mulamadhyamakakarika), Long Thọ nói rằng nếu chúng ta lấy 
                thuyết Duyên khởi làm sự liên hệ nhân quả thì chúng ta có luân 
                hồi, nhưng nếu lấy nó làm lý không, chúng ta có niết bàn. Cái 
                nối liền giữa nhân và quả, giữa nghiệp lực và hậu quả là sự 
                tưởng tượng hay khái niệm hóa. Long Thọ nói rõ rằng tưởng tượng 
                là trách nhiệm cho sự nối liền nhân và quả. Nói chung, đây là 
                khái niệm mà chúng ta tìm ra được trong trường phái Trung đạo.
                
                Khi xét đến triết lý Duy thức, chúng ta thấy rằng nó chạy song 
                song với cái của Trung đạo. Sự thật quy ước trong triết lý Trung 
                đạo tương ứng với tính biến kế (ảo tưởng) của triết lý Duy thức, 
                cả hai hệ thống tương ứng với nhân và quả, với luân hồi. Sự thật 
                tuyệt đối trong triết lý Trung đạo tương ứng với tính viên thành 
                thật trong triết lý Duy thức, cả hai hệ thống tương tự với lý 
                không, bất nhị, vô thỉ và niết bàn. Những gì trong trường phái 
                Trung đạo là duyên khởi--cái nối liền giữa luân hồi và niết 
                bàn--cũng là tính tùy duyên trong trường phái Duy thức.
                
                Trang 176. Tâm là cái quan trọng bậc nhất cho cả Duyên khởi 
                (Trung Ðạo) và tính tùy duyên (Duy thức). Tâm thiết yếu cho cả 
                hai. Trong hai hệ thống, một mặt chúng ta có cái thực tế quy ước 
                (biến kế sở chấp, tính giả lập, tục đế), luân hồi, ảo tưởng, và 
                mặt kia cái thực tế tuyệt đối (chơn đế), niết bàn và tuyệt đối. 
                Giữa hai hệ thống là nguyên tắc của tính tương đối, nguyên tắc 
                của tính tùy duyên, mà nó là điều kiện chính yếu của tâm. Trong 
                Chương 20, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm sự song hành giữa triết lý 
                Trung đạo và triết lý Duy thức. Kế đó chúng ta sẽ áp dụng cái 
                nhìn tổng hợp cho hai triết lý này để thực hành con đường Bắc 
                truyền (Ðại thừa). |  |