-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
- Chương 20
- (Trang 177 - 186.)
- Sự Phát Triển
của nền Triết Lý Ðại thừa
- The development
of Mahayana Philosophy.
- ~~~~~~~
- Trong chương
này tôi xin xét đến sự phát triển của triết lý Bắc truyền (Ðại
thừa) ở Ấn độ, sự liên hệ giữa triết lý Trung đạo và triết lý
(Pháp tướng) Duy Thức học (Tâm lý học Phật giáo) và cái cách mà
hai triết lý này ảnh hưởng đến các tông phái khác của Phật giáo.
Chúng ta đã thảo luận các triết lý Trung đạo và Duy thức trong
chương 18 và 19 cũng như vẽ sơ qua triết lý Bắc truyền (Ðại thừa).
Triết lý Trung đạo của Bồ tát Long thọ và triết lý Duy thức của
hai anh em Vô trước, Thế thân là 2 triết lý căn bản của truyền
thống Bắc truyền, hình thành nền móng chung lúc chúng phát triển
trong 4 thế kỷ đầu của Tây lịch.
- Trang 177. Thời
kỳ 800 năm phát triển sau đó, triết lý Bắc truyền (Ðại thừa) ở Ấn
độ, chưa nói đến sự tiếp tục phát triển trong các nước Á châu khác
mà Phật giáo đã đi qua như Trung hoa, Triều tiên, Nhật bản, Tây
tạng và Mông cổ. Ðể được một hình ảnh toàn thể về sự phát triển
này ở Ấn độ, tôi xin lần dỡ sự tương tác giữa trường phái Trung
đạo và Duy thức từ thế kỷ thứ IV Tây lịch cho đến thiên niên kỷ
đầu tiên.
- Hãy nhìn vào
những gì đã xãy ra cho trường phái Trung đạo. Những nguyên tắc đặt
ra bởi Long thọ được các môn đệ và những người tiếp nối ông nói rõ
thêm, bắt đầu với Thánh thiên (Aryadeva hay Ðề bà). Trong khi mối
quan tâm chính yếu của Long thọ là thiết lập tính chất có thật của
‘lý không’ để đối lại với các trường phái Phật giáo xuất hiện
trước đó thì mối quan tâm của Thánh thiên (Aryadeva) là chứng minh
rằng cái ‘lý không’ chỉ có giá trị ngang với các trường phái ngoại
đạo như Bà la môn và Vệ đà.
- Trang 178. Các
tác phẩm của Long thọ và Thánh thiên (Aryadeva) rơi vào thời kỳ
hình thành căn bản của triết lý Trung đạo. Thời kỳ sau Long thọ
xuất hiện hai trường phái phụ là phái Ðối pháp (Prasangika) và the
Svatantrika. Sự khác nhau giữa 2 trường phái này được dựa vào cách
chúng giới thiệu cái lý không của Bồ tát Long thọ.
- Khi thảo luận
về lý không ở chương 18, chúng ta đã nói về phương pháp lý luận
‘‘giảm dần đến khi vô lý’’ (reductio ad absurdum; xem lại trang
160), rằng các luận sư Trung đạo thường phản bác các nguyên tắc do
các người đối pháp đưa ra. Hình thức của lý luận này tiếng Phạn
gọi là prasanga (đối pháp), và từ này đã được trường phái
Prasangika đặt tên cho mình. Phương pháp ‘‘Lý luận đến khi vô lý’’
(Arguments ad absurdum) được đưa ra để khám phá các mâu thuẩn và
vô lý của những người đối pháp. Thí dụ, lý thuyết ‘‘tự sản sinh’’
(tức các thực thể khởi sinh từ những sự vật hiện hữu) được đề
xướng bởi trường phái triết lý Sankhya là phái đối lập với nhóm
Ðối Pháp (Prasangikas). ‘‘Tự sản sinh’’ có thể bị bác bỏ bởi lý
luận là nếu các thực thể khởi sinh từ chính nơi chúng, thế thì
chúng sẽ tiếp tục sản sinh không biết đến chừng nào mới dứt và
chúng ta sẽ có vô số loạt tái sản xuất các thực thể hiện hữu giống
nhau một cách vô hạn. Nói một cách khác, sẽ chẳng có gì mới dưới
mặt trời này. Lý luận ‘đối pháp’ (prasanga) là các thực thể không
khởi đầu từ chính chúng bởi vì chúng đã hiện hữu rồi, và cái khởi
đầu của cái gì đã hiện hữu đó hiển nhiên là vô lý. Hơn nữa, nếu
các thực thể hiện hữu thực sự có khởi đầu, thì tự chúng sẽ tiếp
tục tái sản sinh mãi mãi.
- Một cách khác,
người ta có thể bác bỏ triết lý ‘‘tự sản sinh’’ của Sankhya bằng
phương tiện tam đoạn luận. Hình thức này được gọi là lý luận độc
lập (svatantra), và chính từ ngữ này mà trường phái Svatantrika
đặt tên cho nó. Người ta có thể chứng minh phương pháp lý luận này
bằng cách nói, ‘Các thực thể không khởi sinh từ chính chúng.’ Ðây
là cái gợi ý đầu tiên. Kế đó ta nói, ‘Ðúng là vậy, vì chúng hiện
hữu’. Ðây là điểm thứ hai của tam đoạn luận. Kế đó, ta có thể nói,
‘Chúng hiện hữu giống như cái bình hiện hữu’. Ðây là điểm thứ ba
và là điểm cuối cùng. Bằng phương tiện ba yếu tố của một tam đoạn
luận, ta chứng minh cái không thể có của tính khởi sinh từ cái
ngã--cái mục đích tương tự được chứng minh bởi phái ‘lý luận cho
đến khi vô lý’.
- Trang 179. Thế
là chúng ta có hai hình thức lý luận, lý luận giảm bớt và lý luận
tam đoạn luận theo luật của lý luận chính thức. Buddhapalita vằ
Chandrakirti nổi tiếng nhờ sự trình bày và bênh vực mạnh mẽ của
họ, đại diện phái ‘lý luận đến khi vô lý’, trong khi Bhavaviveka
nổi tiếng nhờ sự giải thích và bênh vực mạnh mẽ của ông, đại diện
phái lý luận độc lập, tức tam đoạn luận. Cả hai trường phái Ðối
pháp (Prasangika) và Ðộc lập (Svatantrika) đều được chú ý đáng kể
ở Ấn độ. Sức mạnh của trường phái Svatantrika phản ảnh mối quan
tâm việc tuân theo các tiêu chuẩn lý luận đã được chấp nhận. Một
điều thông thường là, với những trường phái triết lý Ấn độ đối
nghịch nhau trong khi tham gia vào các cuộc tranh luận công cộng,
khuynh hướng đòi hỏi là, những lời lập luận phải đáp ứng được các
tiêu chuẩn đã được chấp nhận và có giá trị pháp lý. Ðiều này dần
dần dẫn đến những đòi hỏi chính thức hơn nữa, đến độ ảnh hưởng đến
các lý luận triết lý của trường phái Trung đạo. Sự yêu thích
trường phái Lý luận Ðộc lập (Svatantrika) càng tăng. Khuynh hường
này cũng dẫn đến việc trường phái Lý luận Ðối pháp (Prasangika)
cải thiện và chính thức hóa thuyết ‘lý luận đến khi vô lý’. Trong
vòng thời gian vài trăm năm, ta đã có một lối trình bày hoàn hảo,
chính thức hơn về ‘lý không’.
- Ðiều xãy ra cho
trường phái Trung đạo cũng xãy ra cho trường phái Duy thức. Những
luận sư Duy thức đáng kể ở Ấn độ vào thế kỷ thứ V là các luận sư
Phật giáo Dinnaga và Dharmakirti, họ đã giữ một vai trò quan trọng
trong việc phát triển triết lý Duy thức. Họ không chấp nhận yếu tố
sắc trần của tâm thức--như sắc, thanh, v.v... hiện diện trong kinh
nghiệm. Họ là những luận sư bác bỏ các biểu hiện của thức. Trong
khi 2 anh em Vô trước và Thế thân xác quyết sự hiện hữu của trần
cảnh đối với tâm thức thì Dinnaga và Dharmakirti lại cho rằng cái
thực tướng của tâm thức là có, nhưng cái của sắc trần thì không.
- Trang 180. Vào
khoảng thế kỷ thứ 8 Tây lịch, ở Ấn độ xuất hiện một học giả nổi
tiếng đã có một đóng góp rất quan trọng vào sự hoà nhập hợp nhất
giữa các khuynh hướng khác nhau trong triết lý Ðại thừa. Tên ông
là Shantarakshita. Ngoài tiếng tăm với các luận thuyết triết lý và
kinh văn, Shantarakshita là người đầu tiên giới thiệu tư tưởng
Phật giáo một cách có hệ thống cho Tây tạng. Ông hình thành cái mà
chúng ta gọi là triết lý tổng hợp. Nó kết hợp mạch lạc lý không
với triết lý Duy Thức.
- Chúng ta đã
thảo luận sự quan trọng của tâm trong tư tưởng của các trường phái
Trung đạo, cũng như sự tương cận, song hành giữa một bên là tục đế
- chơn đế và bên kia là tính giả huyễn (biến kế sở chấp) - tính
toàn hảo (viên thành thật). Chúng ta đã nói rõ tình trạng song
hành của tâm, liên hệ hỗ tương, và tính tùy thuộc trong các trường
phái Trung đạo và Duy Thức (xem Chương 19). Những gì chúng ta hiểu
được tư tưởng của Shantarakshita là sự hoà nhập có hệ thống các
giáo thuyết của các trường phái Trung đạo và Duy thức. Vì thế ‘lý
không’ được thừa nhận là phù hợp với sự thật rốt ráo (chơn đế) và
tính viên thành thật, trong khi tính chất sáng tạo của thức được
thừa nhận là phù hợp với sự thật quy ước (tục đế) và tính giã
huyển.
- Ngoài sự hoà
giải và sắp xếp có thứ lớp các giáo thuyết chính của hai trường
phái này, triết lý của Shantarakshita hợp nhất các yếu tố của một
lập luận hợp lý và xem xét một cách có hệ thống vai trò của tâm
trong việc giải quyết cái sinh và diệt của đau khổ. Ta có thể nói
triết lý tổng hợp này là đỉnh cao của sự phát triển triết lý Bắc
truyền (Ðại thừa) ở Ấn độ, ở chỗ Shantarakshita liên hợp các tri
kiến chánh của các vị thầy Ðại thừa nổi tiếng như Long thọ, Vô
trước, Thế thân và tạo ra được một hệ thống triết lý tổng hợp mạch
lạc và dễ hiểu.
- Trang181. Sự
tổng hợp các giáo thuyết của lý không và Duy Thức đã có một tác
động trực tiếp và quyết dịnh vào hai tông phái chánh phát triển từ
triết lý Bắc truyền: 1. Kim cương thừa (Vajrayana) có ảnh hưởng
lớn nhất ở Tây tạng và Mông cổ, và 2. Thiền Tông (Ch’an của Trung
hoa và Zen của Nhật bản). Mặc dầu lối thực hành giữa hai tông phái
này khác nhau đáng kể trong các nghi thức biểu lộ của họ, nhưng cả
hai đều dựa một cách chặt chẻ vào giáo thuyết của lý không và Duy
Thức trong vai trò hữu hiệu thực tế của họ.
- Trong Kim cương
thừa, chính triết lý tánh không cung ứng sự mở ngõ và sẵn sàng
thay đổi, tạo điều kiện chuyển hóa các hiện tượng uế trược sang
thuần chất. Nếu các thực thể có tính độc lập, không thay đổi và vì
vậy không sẵn sàng mỡ rộng tánh không, chúng sẽ không thể nào
chuyển biến kinh nghiệm uế trược đầy đau khổ thành kinh nghiệm
thuần chất trọn vẹn hạnh phúc. Trong khi tánh không tạo cơ hội cho
sự chuyển biến, thì tâm thức cung ứng các phương tiện hữu hiệu cho
việc hoàn thành sự chuyển biến đó. Chính tâm thức hình thành và
quyết định kinh nghiệm bản tánh của ta. Bằng cách kiểm soát, kỷ
luật và khai dụng cái tâm, chúng ta có thể thay đổi một kinh
nghiệm uế trược thành một kinh nghiệm thuần chất. Trong phần lý
thuyết và thực hành của Kim cương thừa, ‘tâm’ và ‘tánh không’
không thể thay thế được: không có tánh không thì tâm không thể
chuyển biến các sự vật được.Tâm là chìa khóa và là phương tiện cho
sự hoàn thành các chuyển biến đó.
- Trang 181.
Trong Thiền tông, tánh không là hình ảnh miêu tả của thực tướng
các sự vật. Chính nhờ nhận thức tánh không mà nó đem lại kết quả
siêu việt của nhị nguyên và đạt được giác ngộ. Làm sao mà tánh
không được nhận ra trong tông phái này? - Bằng cách nhìn vào cái
tâm, bằng cách thiền định vào chính cái bản thể chơn tâm. Trong
Kim cương thừa (Vajrajana), tánh không và tâm làm cùng một nhiệm
vụ với nhau và không thể thay thế được. Tánh không là cơ sở của sự
biến đổi, trong khi tâm hoàn thành sự biến đổi đó.
- Trang 182.
Không phải ngẩu nhiên Kim cương thừa lẫn Thiền tông tìm được sự
hứng khởi từ các ý tưởng căn bản của Bắc truyền (Ðại thừa) Ấn độ.
Theo truyền thống các ngài Long thọ và Vô trước được xem là những
người sáng lập Kim cương thừa; Long thọ cũng là một trong những
giáo trưởng đầu tiên của Thiền tông. Bồ đề đạt ma, người giới
thiệu Thiền tông vào Trung hoa, được cho biết là đã thích Kinh
Lăng già hơn tất cả những bản kinh khác. Do vậy, các trường phái
Trung đạo và Duy thức đã giữ một vai trò quan trọng trong việc
phát triển các tông phái chính, đặc biệt là việc tu tập giáo pháp
Bắc truyền (Ðại thừa) trên toàn cõi Châu Á..
- Chúng ta hãy bỏ
thêm một chút thời gian xem phương pháp khám phá và kiểm tra đã
phát triển ở Ấn độ cùng với tri kiến của trường phái Trung đạo và
Duy thức. Sự phân biệt kinh nghiệm căn bản thành ‘danh’ (hay chủ
thể, nama) và ‘sắc’ (hay đối tượng, rupa) được tìm thấy trong hệ
thống sắp đặt của ngũ uẩn và của Vi diệu pháp cũng hiện diện trong
bối cảnh Bắc truyền. Chúng ta có thể xem xét lối điều tra về thực
tế theo lối nhị phân, trước tiên là phần sắc (đối tượng) kế đến là
danh (chủ thể).
- Trong việc điều
tra này, hai phương pháp được chúng ta dùng là phân tích và tổng
hợp đối tượng (xem lại Chương 16). Ðầu tiên, chúng ta dùng phương
pháp phân tích, tức xét đến sự ‘chia chẻ cho đến tận cùng’ đối
tượng đó. Chúng ta đã thảo luận sự quan trọng của việc ‘chia chẻ
cho đến tận cùng’ trong khi hình thành triết lý Duy thức (xem lại
Chương 19). Ở đây, chúng ta cũng bắt đầu với sự điều tra và tiết
lộ về sự ‘chia chẻ vô cùng’ của vật chất.
- Trang 183.
Phương pháp phân tích đối tượng kèm theo phương pháp tổng hợp đã
cho thấy rằng đối tượng tùy thuộc vào chủ thể--có nghĩa là, tùy
thuộc vào thức. Với lối phân tích và tổng hợp này, ta mới bác bỏ
được ý niệm ‘một đối tượng độc lập’.
- Thế rồi chúng
ta đi lần đến sự điều tra phân tích và tổng hợp của chủ thể, tức
chính cái tâm. Phân tích tâm ở đây là phân tích tướng trạng của
nó. Cái mô hình cho việc làm này là ở trong Kinh Trí huệ Bát nhã.
Kinh nói, ‘Hãy quán cái tâm: Nó dài hay ngắn? Nó trắng hay xanh
hay cái gì khác?’ Một sự điều tra phân tích như vậy cho thấy rằng
cái tâm vốn không thể nhận dạng ra được.
- Trang183. Phân
tích chủ thể được theo sau bởi một phương pháp tổng hợp đã cho
thấy rằng cái chủ thể (tâm) quả có tùy thuộc vào đối tượng.
Shantideva, (tác giả quyển Bồ tát Hạnh, Thích Trí Siêu dịch) một
trong những vị thầy nổi tiếng của trường phái Trung đạo đã nói
rằng, nếu không có đối tượng, thức không được hiểu một cách dễ
dàng và đầy đủ. Thức phải có một đối tượng để vận hành, để hiện
hữu. Sự độc lập của thức đối với đối tượng là không thể có được.
Các lối giải thích về sự thật của lời tuyên bố này đã có từ trước.
Chẳng hạn, Luận tạng Vi diệu pháp đã nói rằng thức nổi lên tùy
thuộc vào đối tượng.
- Các cuộc điều
tra phân tích và tổng hợp về đối tượng và chủ thể dẫn đến một sự
thật không cắt nghĩa bằng lời lẽ hay văn tự được: một thực tướng ở
trên và ở ngoài của ‘có’ và ‘không’, của ‘chơn không’ nhưng ‘diệu
hữu’. Trong truyền thống Bắc truyền, đây là cái nhận thức sau
cùng: Thực tướng không thể nào được diễn tả với những từ ‘có’ và
‘không’. Nó tỏa sáng, trống không và thanh tịnh. Thực tướng là ở
bờ bên kia của cái có, bởi vì tất cả cái có là tương đối và tùy
thuộc nhau. Thực tướng cũng là ở bờ bên kia của cái không; dù rằng
rỗng không và thoáng qua, nhưng thực tướng quả thực có xuất hiện
và được chứng biết. Thực tướng chẳng phải không có.
- Trang 184. Chắc
bạn nhớ cách dùng chữ ‘thanh tịnh’ (thanh là nhẹ, tịnh là sạch)
đồng nghĩa với Không. Ở đây ta có thêm chữ ‘‘tỏa sáng’’. Ðừng sợ
lẫn lộn. Ðây chỉ là sự lập lại trong Bát Nhã Tâm Kinh ‘‘Sắc tức
thị Không, Không tức thị Sắc’’. Thực tướng không chỉ là Không mà
còn là Sắc, còn là tỏa sáng, tỏa sáng với tiềm năng có thể biến
hiện được. Tiềm năng biến hiện này biểu thị hoặc với tâm phiền
não, uế trược, luân hồi, hoặc với tâm thanh tịnh, thuần nhất của
các chư Phật và Bồ tát. Chính với tiềm năng tỏa sáng này mà chúng
ta có hiện thân của các chư Phật Tiên Thánh và Bồ tát như Phật A
di đà, Phật Bất động, Bồ tát Quán thế âm, Bồ tát Văn thù Sư lợi,
v.v...Các vị là hiện thân của thực tướng tỏa sáng, thanh tịnh, cái
thực tướng đồng thời với Không và Sắc. Không và Sắc là các thực
tướng do sự điều tra của Bắc truyền (Ðại thừa) về đối tượng và chủ
thể.
- Tôi xin kết
luận bằng cách mô tả một lối quán sát thực tiễn, giúp cho sự hiểu
biết tiến bộ không ngừng và sau đó nhận chân được cái thực tướng
mà văn tự không chuyển đạt được (bất lập văn tự). Kỷ thuật thiền
định quán sát thực tiễn này bao gồm 4 giai đoạn.
- Giai đoạn đầu liên hệ đến sự quán
sát bản thể của kinh nghiệm dựa vào tâm thức. Ở giai đoạn này,
chúng ta được yêu cầu xem tất cả kinh nghiệm giống như giấc mộng.
Ta sẽ hiểu rõ thêm nếu dùng các thí dụ sau đây để chứng minh bản
thể của kinh nghiệm dựa vào tâm thức: kinh nghiệm của chiêm bao,
một điều gây ấn tượng mạnh nhất; kinh nghiệm của bệnh hoạn, khi ta
tưởng loại ốc màu trắng là màu vàng (vì mắt ta bị bệnh màu vàng)
và kinh nghiệm của tâm thức bị biến đổi do kết quả các chất ma túy
gây ra ảo giác.
- Trang185. Giai
đoạn hai, quán sát tất cả kinh nghiệm dưới hình thức một buổi
trình diễn ảo thuật. Giống như kinh nghiệm trong chiêm bao, thí dụ
này có từ cổ xưa và đáng kính trong văn chương Phật giáo, cả hai
đều có trong các bài kinh Trí huệ Bát nhả và trong các bài viết
của các tông phái Trung đạo và Duy thức. Ðây là thí dụ có tính ảo
tưởng ma thuật được dùng làm mô hình cho kinh nghiệm. Khi bộ máy
sản xuất ảo thuật hiện diện, cái ảo tưởng ma thuật đó xuất hiện,
nhưng khi cái máy vắng mặt, ảo tưởng ma thuật không xuất hiện.
Cũng như vậy, các thực thể chỉ xuất hiện khi gặp đúng nhân và
duyên của chúng, ngược lại chúng không xuất hiện khi không gặp
đúng nhân và duyên.
- Chúng ta có thể cảm thấy là thí dụ
về ảo thuật này không còn có lý trong thời này nữa. Ðiều này sẽ
không đúng nếu chúng ta hiểu ảo thuật với một ý nghĩa rộng rãi
hơn. Một vài bạn có thể biết đến máy chiếu ánh sáng cực mạnh (tia
laser,la-de), cho hình ảnh 3 chiều của một vật. Hình ảnh này không
thực sự tồn tại; nếu chúng ta vói tay lấy vật đó, một trái táo
chẳng hạn, thì nó không có thật. Khi máy chiếu ra vật đó, ta thấy
ảnh ảo 3 chiều của vật xuất hiện; khi vật không được chiếu, ảnh ảo
cũng không. Giống như ảo thuật và máy chiếu, kinh nghiệm xuất hiện
có liên quan với sự đúng duyên (và nhân) của nó. Các kinh nghiệm
không xuất hiện khi không đúng nhân và không đúng duyên.
- Giai đoạn ba,
chúng ta được nhắc nhỡ hãy xem tất cả kinh nghiệm là tương quan,
tương tác nhau. Ðiều này rất gần với việc xem xét tất cả kinh
nghiệm như một trò ảo thuật. Tất cả kinh nghiệm xuất hiện tương
quan với nhân và duyên. Các mầm có liên hệ với hạt giống, đất, ánh
sáng mặt trời và không khí. Ngọn lửa trong một ngọn đèn dầu có
liên hệ với bấc và dầu. Cũng vậy, tất cả các hiện tượng xuất hiện
có liên hệ với nhân và duyên, và tất cả kinh nghiệm là tương tác
nhau.
- Trang 186. Giai
đoạn thứ tư trong tiến trình nhận thức tiến bộ về bản thể rốt ráo
của sự vật là: xem kinh nghiệm là một việc không thể diễn tả ra
được. Tính tương duyên của kinh nghiệm có nghĩa là kinh nghiệm
không thể giải bày là có hiện hữu hay không hiện hữu, là giống hay
khác v.v.... Có thể nói rằng thực thể và nhân duyên của chúng
không giống mà cũng không khác. Chẳng hạn, không thể mô tả rốt ráo
mầm và hạt khác nhau hay giống nhau được. Kinh nghiệm nói chung
không thể được diễn tả tận cùng, giống như bị thọt lét hoặc cái
cảm tưởng làm tình. Cũng như vậy, tất cả các thực thể hiện hữu tùy
thuộc vào nhân và duyên, không thể nói ra được là hiện hữu hay
không hiện hữu. Vì thế giai đoạn sau cùng liên hệ đến sự quán sát
tất cả các sự vật là ‘không diễn tả ra được’ và ‘không nói ra bằng
lời được’.
- Trang 186. Với
tiến trình bốn giai đoạn (1. xem như một giấc mơ, 2. xem như trò
ảo thuật, 3. tương quan tương duyên và 4. bất khả tư nghì) để quán
sát tất cả kinh nghiệm khi dựa vào thức, ta có thể đi đến một vài
kết luận về quan điểm thực tế của Bắc truyền (Ðại thừa): một thực
tướng rỗng không nhưng tỏa sáng, ở ngoài sắc và không, giống và
khác, và trên tất cả những đối đãi của vọng tưởng.
-
--o0o--
|
|