-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
- Chương 21
- (Trang 187 - 196.)
- Thực Hành Phật
Giáo Bắc Truyền (Ðại thừa)
- Mahayana
Buddhism in Practice.
- ~~~~~~~
- Trang 187.
Chúng ta đã tìm hiểu các nguồn gốc của truyền thống Bắc truyền
(Ðại thừa) và ba kinh điển tiêu biểu thuộc thời kỳ thành hình các
văn chương kinh điển quan trọng. Chúng ta cũng đã khảo cứu sự phát
triển tư tưởng luận bình của Bắc truyền, đã tìm hiểu học thuyết
chủ nghĩa lý không, đã tìm hiểu sự quan trọng chính yếu cái tâm
của Phật thừa, và nhờ vậy biết được các triết lý của phái Trung
đạo và Duy thức học như thế nào. Cuối cùng, chúng ta đã thảo luận
sự phát triển hợp nhất của triết lý Ðại thừa. Sau khi làm tất cả
chuyện này, điều quan trọng là phải dành thời gian thực hành tu
tập nó. Bắc truyền Ðại thừa không chỉ là nền triết học và tâm lý
học được phát triển siêu việt và sâu xa, mà nó còn là một chiếc xe
chuyên chở năng động cho sự hoàn thành Phật tánh. Mặc dầu việc
phát triển tôn giáo và triết học có thể là xương sống của nó, Phật
giáo Bắc truyền vẫn là một con đường rất hấp dẫn và tươi sáng cho
nhiều người thuộc các văn hóa khác nhau khắp Á châu và trong một
số vùng của Tây phương.
- Người ta nói
rằng Phật giáo Bắc truyền bắt đầu với sự đánh thức tư tưởng giác
ngộ (tâm bồ đề, bodichitta). Ngay việc đánh thức này cũng có một
số điều kiện tiên quyết cần phải được gieo trồng nếu ta muốn khởi
bước trên đường đi đến Phật quả. Xét được như thế thì ta sẽ thấy
rõ ràng là Bắc truyền Ðại thừa không phải là con đường khác với
hay đứng riêng với con đường Phật thừa. Thực ra nó là sự đề cao
con đường Phật thừa.
- Một trong những
điều tu tập đầu tiên là vun trồng đức tin hay tự tin: xin gọi
chung là lòng tin tưởng. Giống như một hạt giống, lòng tin tưởng
có trước tất cả các sự vật. Lòng tin tưởng giống như một gia tài
bởi vì khi cần người ta có thể đến với nó; nó cũng giống như đôi
tay và đôi chân bởi vì nó là một phương tiện để đạt được những gì
ta muốn. Vì thế vun trồng lòng tin tưởng là sự bắt đầu thực tập
theo con đường Bắc truyền Ðại thừa. Tại sao nói lòng tin tưởng.
Tôi chia lòng tin tưởng thành 3 cấp: 1. lòng tin thuần túy (tín):
biết giá trị rõ ràng phẩm chất của Ðức Phật, Pháp giới và Tăng
già; 2. lòng tin có nguyện vọng (nguyện): sau khi biết giá trị rõ
ràng phẩm chất của Tam Bảo, liền có nguyện vọng để hoàn thành các
đức tính thiện lành, và 3. lòng tin có sự tự tin: có tín - nguyện
- hạnh vững chắc, lòng tin của ta dần dần trở nên không bị lay
chuyễn. Qua 3 cấp độ của lòng tin tưởng trên, ta sẽ phát triển các
tiến bộ và kết quả đến độ không thể đảo ngược được.
- Trang 188. Ðức
tin đi kèm với việc tìm sự trú ẩn, nương tựa, qui y. Con đường đến
giác ngộ và Phật quả là con đường dài, trên đó các chướng ngại thì
nhiều và những thiếu sót của từng người thì vô số. Vì vậy, thật
cần thiết là phải có sự hỗ trợ và một ảnh hưởng chắc chắn, đều
đặn. Sự giúp đỡ này được cung cấp bởi việc thực tập tìm nơi nương
tựa, qui y. Muốn vậy, ta cần có sự hướng dẫn, một con đường đạo,
một cộng đồng, tất cả sẽ đóng góp vào tiến bộ của chúng ta trên
con đường đó.
- Vun trồng lòng
tin và tìm nơi nương tựa, qui y, theo sau bởi việc quán sát sự quí
giá khi được thành hình dạng người, có nghĩa là, những trường hợp
hiếm quí khi sanh ra làm người (nhân thân nan đắc) và cơ hội thực
hành giáo pháp (phật pháp nan văn). Bồ tát Long Thọ đã nói rằng,
người nào dùng chén bằng vàng để đựng đồ nôn mửa và nước dãi thì
rõ ràng là người điên; người nào dùng cái hình hài quí giá của
mình để hành động bất thiện cũng điên khùng giống như vậy. Nếu
chúng ta xét đến các nguyên nhân của việc được sanh ra làm người,
sự hiếm quí của nó, cái khó khăn có được cơ hội để có thể thực
hành giáo pháp, thì chắc chắn, sau khi bảo đảm được các điều kiện
đó, chúng ta phải gấp rút mà lo tu học kẻo không kịp. Ðể giúp ta
làm được như thế và để nắm lấy tất cả các lối tu học, vun bón cho
việc đạt được Phật quả, hãy quán sát sự hiếm quí của việc làm
người và các duyên sinh tạo điều kiện cho ta thực hành giáo pháp.
- Trang 189.
Thiền quán về sự chết và vô thường là một lối tự động viên để tu
học; nó cũng là chìa khóa cho sự hiểu biết sự thật sau cùng (chơn
đế). Vun trồng đức (tự) tin và trở về nương tựa hay qui y, bổ túc
cho nhau như thế nào, thì khi quán tưởng sự hiếm quí được làm
người và thiền định về sự chết về vô thường cũng bổ sung cho nhau
như thế ấy.
- Các đề tài quán
tưởng này được theo sau bởi sự khảo sát tận tường về ‘khổ đế’ của
chúng sanh trong 6 cõi, lần lượt được theo sau bởi sự quán tưởng
về luật nhân quả.
- Trang 189. Khởi
đầu tu tập có nghĩa là chuyển biến thái độ của mình để sẵn sàng
theo con đường Bắc truyền. Nó có hai mặt: 1. lòng nhiệt thành để
đạt được mục tiêu thăng hoa tức mục tiêu Phật quả; 2. tháo gở hay
từ bỏ tất cả sự ràng buộc, chấp thủ các sự vật cuộc đời này và
vòng luân hồi nói chung. Với điểm này, Bình Thiên (tức Thái tử
Sàntideva, người vùng Sri Nagara, Nam Ấn, con vua Surastra, sống
vào khoảng thế kỷ thứ 7) nói trong quyển Con đường Bồ tát
(Bodhicharyavatara): ‘Ta sẵn sàng đẩy lui sự vướng mắc thế gian
giống như một người tằng hắng rồi nhỗ nước dãi bỏ đi vậy’.
- Con đường Bắc
truyền Ðại thừa chỉ bắt đầu khi sự tháo gỡ khỏi thế gian được thực
hiện với sự vững tin. Nếu xem Bắc truyền Ðại thừa có tính cách
trần tục, vật chất hơn Nam truyền Tiểu thừa thì đây là điều sai
lầm. Khi sự từ bỏ được thực hiện, thế là ta bắt đầu vào con đường
ấy rồi. Ðây là sự đánh thức tư tưởng giác ngộ được tất cả vị thầy
Bắc truyền đồng ngợi khen. Rồi chúng ta sẽ thấy, sự đánh thức được
tư tưởng giác ngộ ( hay tâm bồ đề= bodichitta) cũng là sự chấm dứt
con đường Ðại thừa.
- Tâm bồ đề (tư
tưởng giác ngộ) được đánh thức qua sự vun trồng lòng đại từ và đại
bi. Ðó là lòng vị tha, muốn tất cả giống vật hữu tình được hạnh
phúc và không còn bị đau khổ. Từ và bi theo sau sự hiểu biết tính
bình đẳng của tất cả giống hữu tình. Ý thức về sự bình đẳng của
chúng sanh là sự sống đại đồng của Bắc truyền Ðại thừa và của Phật
giáo nói chung. Mỗi một sinh vật đều đồng nhau trong việc muốn
hạnh phúc và sợ đau khổ.
- Trang 190. Sự
hiểu biết về tính bình đẳng của tất cả các sinh vật không chỉ là
điều căn bản của đạo đức Phật giáo mà nó cũng là căn bản của đại
từ, đại bi và của bồ đề tâm (bodichitta). Ðó là cái quyết tâm đạt
được Phật quả vì lợi ích cho tất cả sinh vật. Chúng ta vun trồng
lòng đại từ và đại bi bằng cách quán tưởng đến sự bình đẳng của
tất cả giống hữu tình. Chúng ta mở rộng lòng từ bi này bằng cách
quán sát các sự liên hệ, nối chúng ta với tất cả mạng sống khác.
- Chúng ta nên
nhớ rằng, lúc này hay lúc khác tất cả các vật hữu hình là những bà
mẹ hiền đối với chúng ta. Nếu chúng ta nhớ đến tình thương của
hiền mẫu thì chúng ta cũng phải nhớ cái nợ với người. Sẽ không là
điều đúng khi bạn để người mẹ của bạn tiếp tục đau khổ. Cũng không
là điều đúng khi tất cả các giống hữu tình, lúc này hay lúc khác
là những người mẹ hiền, lại bị tiếp tục đau khổ trong luân hồi.
Chính với ý nghĩa này mà cái mong muốn cho tất cả được hạnh phúc
và không còn đau khổ là cái mong muốn đạt được Phật quả: mong muốn
cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc và hết đau khổ, ta không thể
nào làm gì được cho họ hơn là tự tu tập đắc quả.
- Không ai ngoài
một đức Phật hoàn toàn giác ngộ có thể bảo đảm được mục tiêu hạnh
phúc vĩnh cửu và không còn đau khổ cho tất cả chúng sinh. Dù chúng
ta cố gắng bao nhiêu, có lòng đại từ, đại bi bao nhiêu nhưng nếu
không hoàn thành được giác ngộ ba la mật, chúng ta sẽ không thể có
được hạnh phúc chơn thực. Sự nhận ra tính bình đẳng của tất cả
sinh vật; nhận ra món nợ với những bà mẹ hiền, lúc này hay lúc
khác, của chúng ta; lòng mong muốn tất cả được hạnh phúc và không
còn đau khổ; nhận ra việc chưa có khả năng ngay bây giờ để hoàn
thành mục tiêu--tất cả những điều này dẫn đến việc đánh thức tâm
bồ đề hay tư tưởng giác ngộ, đó là, sự quyết tâm đạt được Phật quả
vì tất cả chúng sanh.
- Trang 191.
Chính lúc tỉnh thức giác ngộ (tâm bồ đề) này mà nó chuyển biến một
người bất hạnh khốn khổ sống trong tù ngục thành một đệ tử của
Phật. Tâm bồ đề (bodichitta) này được chia thành 2 loại: 1. tư
tưởng giác ngộ qui ước hay giả lập và 2. ý thức giác ngộ vĩnh cửu.
Tư tưởng giác ngộ giả lập là sự quyết định hay quyết tâm đạt Phật
quả vì ích lợi chúng sinh. Với tư tưởng giác ngộ qui ước đó, chúng
ta vẫn nhận thức được các đối đãi chủ thể - đối tượng, luân hồi -
niết bàn, vô minh - giác ngộ. Vì lòng quyết tâm đắc quả được căn
cứ vào những ý niệm đối đãi nên nó được gọi là ‘qui ước, giả lập’.
Còn ý thức giác ngộ vĩnh cửu, mà ta có thể gọi là ‘tâm Phật’, là
một tình trạng mà các đối đãi không còn ý nghĩa gì cả.
- Chúng ta hãy
bàn thêm chút nữa về tư tưởng giác ngộ giả lập và các phương tiện
chuyển biến nó thành tâm thức giác ngộ vĩnh cửu. Tư tưởng giác ngộ
giả lập hay qui ước tự chia ra thành 2 loại: 1. tư tưởng giác ngộ
ước nguyện, và 2. tư tưởng giác ngộ thực hiện. Cái trước là ước
nguyện hoàn thành giác ngộ, vì tất cả giống hữu tình, tương tự với
quyết định viễn du qua một miền khác. Cái sau là phần thực hiện
các phương tiện hoàn thành Phật quả, tương tự với việc thực hiện
hành trình cho chuyến viễn du đó.
- Tư tưởng giác
ngộ thực hiện kéo theo việc tu tập Lục Ðộ: Bố thí, Trì giới , Nhẫn
nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Chính việc tu tập Lục Ðộ
chuyển biến tư tưởng giác ngộ qui ước, giả lập (tiểu ngộ) thành
tâm Phật (đại ngộ).
- Trang 192. Ðiều
quan trọng là phải nhớ vai trò đặc biệt của Thiền định và Trí tuệ
trong việc tu tập Lục Ðộ. Các Ðại sư Bắc truyền từ Long Thọ ở Ấn
độ đến Huệ Năng ở Trung hoa đã nhấn mạnh rằng, Thiền định phải có
Trí tuệ và Trí tuệ là phải do Thiền định. Ðiều này có nghĩa là,
đối với các Phật tử, tâm đã định mà chưa thấy đúng là một sự chưa
hoàn tất rốt ráo. Chỉ khi nào định theo sau với huệ thì định ấy
mới thực sự cho ta tâm tự tại. Có thể nói tâm chưa định thì chưa
có trí tuệ bát nhã.
- Trí tuệ là ngôi
vương của Lục Ðộ. Chính Trí tuệ Bát Nhã Ba la mật (Trí tuệ Toàn
hảo), tức sự hiểu biết và chứng đắc ‘tánh không’ đã chuyển hoá sự
tu tập bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định thành trí
tuệ bát nhã. Chúng giúp ta vượt quá giới hạn hiểu biết thế gian.
Không có trí tuệ bát nhã, năm chi tu tập kia sẽ không là ‘bát
nhã’. Người ta đã nói rằng trí tuệ bát nhã giống như việc nung
bình đất sét: nếu không nung, cái ‘bình’ của năm chi bát nhã kia
sẽ dễ vỡ. Cũng cùng như vậy, nếu một Bồ tát không tu tập trí tuệ
bát nhã, vị ấy có thể dễ dàng bị mất tỉnh giác. Người ta cũng so
sánh cả năm chi bát nhã kia giống như người mù, không bao giờ tự
mình đến đích nếu không có sự giúp đỡ của người hướng dẫn thấy
đường đi. Cũng như vậy, nếu không có trí tuệ bát nhã, năm chi đã
tu tập kia không thể nào đạt đến mục tiêu Phật quả.
- Tại sao vai trò
trí tuệ bát nhã lại đặc biệt trong Lục Ðộ? Chính với ánh sáng của
trí tuệ bát nhã mà ta thấy được tánh không của chủ thể, đối tượng
và hành động của năm chi phần bát nhã kia. Ðây là ‘tam luân thanh
tịnh’ (ba vòng nhẹ sạch) được nói đến trong kinh điển Ðại thừa:
thanh tịnh (hay lý không) của chủ thể, đối tượng và hành động.
Chẳng hạn, trong bố thí ba la mật (bát nhã), chính chủ thể của trí
tuệ bát nhã giúp ta hiểu thấu lý không của người cho, lý không của
người nhận và lý không của món quà.
- Trang 193. Cũng
như thế, trong trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định bát
nhã, chính nhờ sự hiểu biết trí tuệ bát nhã mà ta thấu rõ được lý
không của chủ thể, đối tượng và hành động. Trong mỗi chi tu tập
cũng vậy, chính sự hiểu biết trí tuệ bát nhã giúp ta hoàn thành bố
thí bát nhã, trì giới bát nhã v..v...Chính trong bối cảnh này mà
chúng ta biết được giá trị độc đáo của trí tuệ bát nhã ba la mật.
- Chúng ta đã đạt
được cái quả tâm thức giác ngộ vĩnh cửu, tức tâm ngộ nhập của một
vị Phật, với sự hiểu biết rốt ráo của tánh không. Ðến đây ta có
thể thắc mắc là liệu với cái tâm Phật đó có còn chỗ nào để cho
‘bi’ không, với ánh sáng ngộ nhập tánh không của chủ thể của bi,
đối tượng của bi và hành động của bi. Câu trả lời là, ngay điểm
này, tâm Phật đương nhiên có lòng thương xót tự phát với sự đau
khổ của chúng sinh.
- Chúng ta hãy
xem thí dụ sau đây chứng minh sự tương hợp của trí và bi trong
giai đoạn giác ngộ này. Giả thử bạn nằm mơ thấy đang bị kẹt trong
một nhà đang bị cháy: bạn bị hiểm nguy, thống khổ. Giựt mình thức
dậy bạn mới nhận ra rằng cái nguy khổ trong giấc mơ là không có
thật. Giả thử đêm hôm sau, người cùng phòng hay vị hôn phối của
bạn giẫy đập trên giường, la hoảng ‘nhà cháy, nhà cháy’ hoặc mớ
thảng thốt gì đó. Thế thì bạn hiểu ngay là cái sợ sệt của người đó
là vô căn cứ, là sợ ‘tiều’, sợ ‘quảng’ và bạn cũng biết ngay là
người ấy đang đau khổ thực sự dù trong giấc mơ. Biết cái đau khổ
đó là không thực nhưng trí của bạn tự động kèm theo lòng bi ngay
chỉ vì mong muốn cứu khổ người kia.
- Trang 194. Việc
nằm mơ (nhập chung thần xác mình với thế giới ảo tưởng) và việc la
hoảng (tự động liên kết mình với đau khổ không thật), cho ta thấy
được nguyên tắc ‘Bốn Bát nhã thứ hai của Bậc Giác ngộ’ đó là: các
phương tiện kỷ xảo, giải pháp, năng lực và giác biết: 1. các
phương tiện thiện xảo bát nhã, giúp chư Phật, Bồ tát áp dụng vô số
mưu chước kế hoạch hầu giúp chúng sinh giải thoát; 2. giải pháp
bát nhã, giúp Chư Vị ấy hình thành các hoạt động áp dụng đặc biệt;
3. năng lực bát nhã, giúp Bậc Giác ngộ làm việc một cách tự phát
và hiệu quả cho tha nhân được lợi lạc; và 4. kiến thức bát nhã,
cung cấp tất cả kiến thức về nhân duyên và thái độ của chúng sinh
cần thiết để giúp cho sự giải thoát của họ.
- Bốn bát nhã thứ
hai có thể được đặt tên là bát nhã vị tha. Ðó là sự hoàn mãn tự
động và tự phát của Bậc Giác ngộ. Tất cả các hoạt động do tâm thức
giác ngộ được diễn đạt qua các phương tiện, giải pháp, năng lực và
kiến thức là phản ảnh tự phát của giác ngộ. Người ta nói rằng,
giống như cái chuông gió tự phát đúng và chính xác các âm thanh
lớn nhỏ tùy theo luồng gió mạnh nhẹ thổi vào nó; các bậc giác ngộ
phản ứng tự phát đúng và chính xác tùy theo các giai đoạn tiến bộ
nghiệp quả của chúng sanh với việc Chư Vị hoạt động tự động, không
cần cố gắng, nhằm vào việc giải thoát tất cả.
- Phật quả là
giai đoạn kết thúc việc tu tập sáu bát nhã căn bản thứ nhứt. Kết
quả tu tập Lục độ hoàn thành phước đức và trí huệ. Bố thí, trì
giới và nhẫn nhục bát nhã tích lũy phước; thiền định, trí huệ bát
nhã tích lũy huệ. Tinh tấn bát nhã cần thiết cho cả hai trường hợp
trên. Phật quả có hai mặt: 1. sắc thân (rupakaya, form dimension),
2. pháp thân (dharmakaya, truth or transcendental dimension).
- Trang 195. Sự
tích lũy của phước qua việc tu tập bố thí, trì giới, nhẫn nhục bát
nhã được biểu lộ trong sắc thân. Sự tích lũy của huệ qua việc tu
tập thiền định và trí huệ được biểu lộ trong pháp thân. Vì thế,
khi tu tập Lục độ, ta có thể thấy được các nguyên nhân hay hạt
giống của việc thành một vị Phật. Với lối tu tập này, ta cũng có
thể thấy các hạt giống của sắc thân và pháp thân của các chư Phật.
Còn việc tu tập bốn bát nhã phụ thứ hai, chúng ta có thể thấy các
hạt giống của các hoạt động của chư Bồ tát hướng về sự giải thoát
các giống vật hữu tình.
- Việc chia Phật
quả thành hai mặt sắc thân và hoá thân cũng đồng dạng với việc
phân loại Phật quả thành ba mặt: trần thế, thần thánh và siêu
nhiên. Sắc thân được chia ra (i) thành phần trần thế, và (ii)
thành phần thần thánh, nhưng pháp thân không chia được gì cả vì nó
không thể nhận thấy được, không thể diễn tả được. Pháp thân ở trên
danh và sắc. Còn sắc thân thì có vô số danh và sắc. Chúng ta có
thể gọi bộ phận trần thế là hiện kiếp của Phật quả bởi vì nó có
thể tiếp xúc được đối với tất cả chúng ta vào mọi lúc, bất kể mức
độ phát triển tâm linh của ta đến đâu. Ngược lại, cái kích thước
thần thánh hay tán thán chỉ được biểu lộ qua đối với các bậc đạo
cao đức trọng.
- Ba kích thước
Phật quả này liên hợp nhau để giúp giải thoát các giống vật hữu
tình tùy theo căn cơ của chúng. Kích thước trần thế được biểu hiện
đặc biệt với sự xuất hiện của Phật Thích Ca Mâu Ni theo lịch sử
ngày nay, với sự xuất hiện của các Chư Vị đã giác ngộ (những người
bạn tâm linh) và những vật vô tri vô giác. Kích thước thần thánh
được biểu hiện với sự xuất hiện của các chư Phật thần thánh từ cõi
trời xuống như Phật A Di Ðà và Phật Bất Ðộng (Phật A Súc), các vị
Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ tát Văn Thù Sư Lợi.
- Trang 196. Tính
chất ba chiều này của Phật quả phản ảnh sự hợp nhất về luân hồi và
niết bàn, giác ngộ và vô minh, cái nhìn thanh tịnh và cái nhìn cấu
uế về vũ trụ. Nó cũng phản ảnh cái tự do viên mãn của một vị Phật.
Nó phản ảnh cái tự do ra khỏi vòng sanh và tử, tự do thực hành các
ảnh hưởng của mình với vô số cách không nhận ra được cho sự giải
thoát các giống hữu tình. Ðây là cái vĩ đại của ý niệm Phật quả
Bắc truyền Ðại thừa và là cái vĩ đại của mục tiêu con đường Bắc
truyền Ðại thừa.
-
--o0o--
|
|