-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
- Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
- Chương 23
- (Trang 208 - 214.)
- Các Nền tảng
Triết Học và Tôn Giáo
- Philosophical
and Religious Foundations.
- ~~~~~~~
- Tôi thiết nghĩ
việc khảo cứu các nền tảng triết học và tôn giáo của Kim cương
thừa để giúp ta hiểu thêm nó ăn khớp với Pháp Phật như thế nào là
điều rất quan trọng. Nếu xét Kim cương thừa một cách chi tiết, ta
thấy nó bao gồm một số các tư tưởng quan trọng Bắc truyền (Ðại
thừa). Có ba tư tưởng triết học và tôn giáo Bắc truyền nổi bật,
giữ vai trò chính yếu trong Kim cương thừa. Ðó là các tư tưởng
1.Tánh không, 2. Duy thức và 3. các phương tiện hữu ích hoặc thiện
xảo.
- Trong Chương
22, tôi đã nói đến việc tông phái ở Tây tạng xem chư Bồ tát Luận
sư Long thọ (Nagarjuna) và Vô trước (Asanga) là những vị sáng lập
Kim cương thừa. Ngoài các yếu tố Kim cương thừa có trong tiểu sử
(cũng có trong Chương 22), nhị vị Long thọ và Vô trước cũng có thể
được xem là cha đẻ sáng lập--đó là vì họ ủng hộ và giải thích các
tư tưởng về tánh không và tính ưu việt của thức (Duy thức). Một số
tác phẩm Kim cương thừa trong kinh điển Tây tạng được cho là của
Long Thọ và Vô trước, mặc dầu các học giả ngày nay muốn tranh luận
về vấn đề này. Dù cả hai ngài có viết các tác phẩm đó hay không,
nhưng rõ ràng là, nếu những ý tưởng đó không được đề xướng, Kim
cương thừa sẽ khó được hiểu rõ, nếu không muốn nói là chúng sẽ
không xuất hiện.
- Trước hết ta
hãy xét đến lý tánh không, đây là nét đặc thù của Long Thọ. Trong
Chương 22, tôi có dẫn chứng một trường hợp, trong đó Long Thọ được
cho là đã biến tạp kim thành vàng. Ðiều này có thể được xem là một
ẩn dụ cho công việc chính của Kim cương thừa: biến cải kinh nghiệm
thông thường thành kinh nghiệm giác ngộ. Nếu muốn biến cải thành
công thì tạp kim không thể nào có tính nhất định, thường hằng
riêng của nó. Chẳng hạn, nếu một mẫu than quả thực có giá trị thực
chất, không thay đổi được, thì nó không bao giờ có thể biến thành
bất cứ cái gì khác. Tất cả chúng ta đều biết rằng một mảnh than có
thể biến thành kim cương với một vài điều kiện tinh chế.
- Trang 209. Cái
ý tưởng gốc ‘‘(đặc) tánh không thay đổi, độc lập’’ là do chữ
Svabhava (Bắc Phạn). Nó có nghĩa là ‘‘tự tánh, tự ngã hay tự hiện
hữu (own-being, self-existence). ‘‘Không có tự tánh’’ là
Nihsvabhava, chữ nầy đồng nghĩa với ‘không tánh’. Không tánh không
phải là Không Có Gì Cả (Nothingness) mà đó là sự tràn khắp, ngay
thẳng, chân thật, một tình trạng trong đó các hiện tượng xuất hiện
tùy thuộc vào (nguyên) nhân và duyên (điều kiện).
- Mặc dầu ý tưởng
tánh không được cho là của Long thọ và trường phái Trung
đạo, là một trong những giáo thuyết quan trọng của Bắc truyền (Ðại
thừa), nhưng nó cũng hiện hữu trong Nam truyền (Tiểu thừa). Chẳng
hạn, theo kinh điển Nam truyền, đức Phật xem tất cả các hiện tượng
như ngọn lửa của cây đèn dầu: đèn cháy được cũng phải do dầu và
tim đèn nữa. Tự ngọn lửa là không có. Cũng giống như vậy, tất cả
các hiện tượng tùy thuộc vào nhân và duyên.
- Trong Bắc
truyền, ý tưởng này được nói rất rõ: tất cả các hiện tượng được so
sánh với một ảo tưởng huyễn hoặc. Một con voi giả chẳng hạn, nó
xuất hiện có thể giống như một gò mối, khúc gỗ...được nhà ảo thuật
dùng vài thủ thuật v.v...để biến thành nó. Vì thế, các sự xuất
hiện giả huyễn xãy ra tùy thuộc vào nhiều nguyên nhân và nhiều
điều kiện. Giống như vậy, tất cả các hiện tượng hiện hữu là do
nguyên nhân này, điều kiện nọ. Chính vì tánh ‘‘ăn theo’’ này, tức
cái không tánh, ta mới thực hiện được sự biến cải.
- Long thọ nói
rằng nếu thực sự có tự tánh (hay tự ngã, tự hiện hữu) thì sự biến
cải bằng phương tiện của con đường giải thoát sẽ không thể nào xảy
ra. Nói một cách khác, nếu thỏi than mà ta vừa nói có tánh không
thay đổi được thì nó không thể nào trở thành hạt kim cương. Giống
như vậy, nếu mỗi người trong chúng ta có một tự tánh riêng, một tự
ngã thường hằng, một hiện hữu không thể thay đổi được thì dù tu
tập Pháp Phật như thế nào chăng nữa, chúng ta cũng không thể nào
trở nên càng lúc càng tiến bộ, trong sáng hơn hay giác ngộ được.
Ðành rằng ta phải chịu ba món chướng là tham sân si, nhưng đó là
tự tánh bình thường của các giống vật hữu tình. Nếu chịu thay thế
si mê thành trí tuệ, tham cầu với không vướng mắc, sân nhuế thành
từ và bi, chúng ta có thể thay đổi được các điều kiện trên. Bằng
cách thay đổi chúng, ta có thể thay đổi tự tánh, tự ngã của mình
để trở thành Tiên Phật. Vì thế Không tánh tuyệt đối cần
thiết cho phép ta chuyển các điều kiện của luân hồi thành sự giải
thoát đến niết bàn.
- Trang 210. Bây
giờ ta xét đến ý tưởng thứ hai, vai trò cái tâm trong kinh nghiệm.
Ở đây, Vô trước và người em là Thế thân đưa ra hai điểm chính: a.
đối tượng xuất hiện không có hình thức nhất định hay bền vững, và
b. đối tượng xuất hiện ngay cả khi không có tác nhân kích thích
bên ngoài.
- Hai điểm chính
nầy trong Ðại thừa và Kim cương thừa cũng không vắng mặt trong
truyền thống Tiểu thừa. Ðiểm đầu tiên được nói rõ trong một số
kinh sách Phật giáo. Chẳng hạn, sự kiện liên hệ đến vị Trưởng Lão
Tissa nổi tiếng trong giới Tiểu thừa: khi được hỏi ông có thấy
người phụ nữ nào mới đi qua trên đường không, Tissa trả lời rằng
ông không biết đó là nữ giới hay nam giới mà chỉ thấy một đống
xương đi qua. Ðiều này chứng tỏ rằng các đói tượng không có một
hình thức cố định; những gì xuất hiện hấp dẫn của một phụ nữ đối
với người đàn ông này thì có thể là một đống xương đối với người
kia.
- Truyền thống
Ðại thừa nói rất rõ ràng về việc này bằng cách mượn đến kinh
nghiệm của một số ‘tâm sở biến hành’. Chẳng hạn, khi uống quá
nhiều rượu, ta cảm thấy ‘‘đất say đất cũng lăn quay’’, hoặc cảm
thấy có năng lực to lớn. Giống như vậy với ảnh hưởng của các chất
tạo ra ảo giác lâng lâng, con người nhận thức sự vật rất khác
biệt. Trong quyển Hai Mươi Ðoạn về Duy thức, Thế Thân (Vasubandhu)
tổ thứ 21 dòng Thiền Ấn, chứng minh điều này với việc đối chiếu
kinh nghiệm của con người trong 6 cõi (xem lại chương 19). Trong
đó, ông giải thích rõ ràng là các đối tượng xuất hiện dưới nhiều
cách khác nhau tùy thuộc vào các điều kiện chủ quan (tâm) của
người nhận thức và đã kết luận rằng các đối vật xuất hiện dưới các
hình thức và tướng trạng khác nhau tùy theo (tâm) các loài vật hữu
tình khác nhau và tùy theo nghiệp duyên của họ.
- Trang 211. Ðiểm
thứ hai, các vật xuất hiện ngay cả khi không có một nhân tố kích
thích bên ngoài, cũng được tìm thấy trong truyền thống Nam truyền
Tiểu thừa. Trong đó, Buddhaghosa giải thích về 3 giai đoạn định
(sơ định, nhị định và viên mãn), nhờ tu tập thiền quán mà sự vật
đã trở thành đồng hóa vào giai đoạn gần nhứt. Ví dụ, nếu một thiền
giả, đầu tiên dùng một đĩa màu xanh, kế đó nhờ đĩa đó trở thành
đồng hóa và ông ta bây giờ chỉ quán tưởng vào mô hình tinh thần
của nó mà thôi. Tức là vào giai đoạn thứ nhứt, vị ấy dùng một vật
có thực làm đối tượng thiền định, đến giai đoạn thứ hai là quán
tưởng, ông không còn cần ngoại vật đó nữa. Vật ấy bây giờ đối với
ông không còn là một nhân tố kích thích cần thiết nữa. Chúng ta có
thể hiểu được điều nầy qua các giấc chiêm bao, trong đó người nằm
mơ thấy được các đối vật mà không cần vật kích thích bên ngoài.
- Thế Thân lại
thêm trường hợp của những người giám sát ở cõi địa ngục. Nếu những
người này sanh trở lại các địa ngục đó do nghiệp riêng của họ thì
họ cũng phải chịu các đau khổ ở đó. Nhưng, vì họ ở trong các địa
ngục đó chỉ để làm công việc của họ, nên Thế Thân cho rằng họ chỉ
là sản phẩm do tâm não của những loài ở địa ngục nghĩ tưởng tạo ra
mà thôi. Nói cách khác, vì nghiệp không lành mạnh của mình mà các
loài ở địa ngục phóng chiếu ra hình ảnh của những cai ngục tra tấn
mình.
- Trong tất cả
trường hợp này--các kinh nghiệm về thiền đînh, chiêm bao và các
loài ở địa ngục--các hình ảnh xuất hiện mà không cần đến nhân tố
kích thích bên ngoài nào cả. Ðây là lý do tại sao người ta nói
rằng, giống hệt như trường hợp một hoạ sĩ vẽ tranh ma quỹ rồi trở
nên sợ hãi vì bức tranh đó, các loài chưa được khai sáng vẽ ra
hình ảnh 6 cõi trời luân hồi và rồi bị khổ sở, kinh hãi vì chính
hình ảnh đó. Qua năng lực của tâm não, chúng ta vẽ ra 6 cõi trời
hiện hữu và rồi chạy vòng vòng theo chúng bất tận. Chúng ta có thể
tạo ra 6 cõi trời này một cách chính xác vì sự không hiện hữu (hay
không tự tánh, không tự ngã) của chúng.
- Trang 212. Hai
ý tưởng này--tánh không và vai trò cái tâm trong kinh nghiệm--đi
cặp với nhau. Các đối vật không hiện hữu độc lập. Sự hiện hữu của
chúng là tùy vào nhân và duyên, quan trọng nhất là các nhân duyên
tinh thần như si ám, mắc mứu, sân nhuế, phẫn hận, tật đố, v.v...Vì
những điều kiện này và vì hiện tượng tánh không, tâm thức hình
thành và tạo ra kinh nghiệm dưới một hình thức đặc biệt, hình thức
đau khổ của 6 cõi trời.
- Cái tâm làm
việc một cách tự động và không chủ ý, vì vậy tạo ra các kinh
nghiệm đau khổ trong 6 cõi trời như thế nào, thì cái tâm cũng có
thể được huấn luyện để làm việc một cách thong thả, thận trọng, có
chủ ý để đem lại sự thay đổi cho các kinh nghiệm đó, đem lại kinh
nghiệm khai sáng, giải thoát. Ðây là điều rõ ràng trong kinh
nghiệm thiền định mà chúng ta đã xét trước đây. Thường thì cái tâm
làm việc một cách tự động và không chủ ý đối với kinh nghiệm. Cái
phản ứng của ta đối với một đối tượng, thí dụ sắc vóc của một phụ
nữ, là do theo thói quen phản xạ, theo thói quen tham muốn không
đúng và không chịu tìm hiểu. Với thiền định, ta huấn luyện cái tâm
một cách dứt khoát để giúp thay đổi kinh nghiệm của mình. Qua kinh
nghiệm thiền định, ta có thể thay đổi nhận thức của mình về đối
tượng, giống như Trưởng Lão Tissa đã thay đổi cái thấy của ông:
sắc vóc của một phụ nữ chỉ là một đống xương.
- Thường chúng ta
nhận thức các màu sắc khác nhau một cách tự động, không trực tiếp,
không biện biệt. Nhờ thiền định, ta có thể theo ý muốn mình, hình
dung, tạo ra và thay đổi tình trạng một mảng màu theo kinh nghiệm
tinh thần riêng của mình. Tánh không và năng lực sáng tạo của tâm
rõ ràng có mặt trong cơ cấu kỹ thuật thiền định Kim cương thừa (sẽ
xét kỹ hơn trong Chương 29). Hợp chung nhau, chúng cho ta khả năng
và phương pháp cần có để chuyển biến kinh nghiệm mình. Ta có thể
thực hiện được vì không có cái gì có (đặc) tánh riêng của nó và
cách chúng ta làm là dùng năng lực của tâm để tạo ra, quyết định
đường lối mới khi nhận thức đối tượng.
- Trang 213. Như
đã được nói đến trong Chương 22, Kim cương thừa là một với Ðại
thừa về điểm bắt đầu và điểm mục tiêu của nó. Cái tư tưởng căn bản
trong truyền thống Ðại thừa là tâm bồ đề (bodichitta), tâm kiên
quyết hoàn thành giác ngộ cho tất cả chúng sinh, và kết quả của
quyết tâm này là sự đạt được Phật quả, với tầm vóc bình thường và
siêu việt. Cái hiện tượng bình thường là sự biểu lộ của lòng đại
bi của Phật, điều này tự biểu hiện trong các phương tiện thiện
xảo, tư tưởng nổi bật thứ ba trong Ðại thừa và rất quan trọng
trong Kim cương thừa.
- Phương tiện
thiện xảo là khả năng hiểu rõ tất cả giống vật hữu tình từng trình
độ một. Trong nhiều kinh Ðại thừa, điều này được giải rõ với sự
giúp đỡ của các ví dụ, như câu chuyện ngụ ngôn về ba loại xe (xe
dê cho hàng Thanh văn, xe hươu cho bậc Duyên giác và xe trâu cho
vị Phật); về nước mưa và ánh sáng mặt trời, mặt trăng trong Kinh
Liên hoa (xem lại Chương 15). Cái hình ảnh bình thường có tính
cách hiện tượng của đức Phật xuất hiện dưới mắt các giống vật hữu
tình là tùy theo nhu cầu và khả năng của họ. Nó tự biểu hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau trong một số hình thức, như hình thức
của người thiếu nữ đẹp mà Phật đã cho xuất hiện vì Kshema (Xem
Chương 22). Trong nhiều Kinh, Luận của Bắc truyền Ðại thừa, tự đức
Phật biểu hiện dưới hình thức người thường hoặc thánh thiên để
giúp chúng sinh tiến bộ trên con đường giải thoát.
- Chính cũng với
cách này mà đức Phật đã tự biểu hiện dưới các hình thức đặc biệt
như các vị thần trong các đền thờ, lăng tẩm Ðại thừa tùy theo sự
cần thiết và xu hướng của các giống hữu tình. Chẳng hạn, trong 5
trường hợp chư Phật trên cõi trời, đức Phật tự biểu hiện dưới 5
hình thức đặc biệt tương ứng với các thiên hướng nghiệp quả đặc
biệt của các giống hữu tình. Ông là Phật Ðại nhật (Tỳ Lô Già na,
Vairochana) cho các giống hữu tình mà nổi khổ chính của họ là vô
minh; ông là Phật Bất động (Phật A xúc, Akshobhya) dành cho những
người có nổi khổ chính yếu là sân nhuế (hờn giận đến mức mất sáng
suốt) và Phật A di đà (Amitabha) cho những người mà nổi khổ chính
của họ là hay mắc mứu. Tự Ðức Phật xuất hiện dưới các hình thức
khác nhau để trợ lực một cách tốt đẹp nhứt cho các giống hữu tình
khác nhau vì nghiệp căn đặc biệt của họ.
- Trang 214. Có
các biểu hiện đặc biệt của đức Phật tương ứng với các giống hữu
tình. Có loại tương duyên giữa sự xuất hiện của Phật (dưới hình
thức Phật trên trời hoặc Thánh thần trong các đền thờ Kim cương
thừa) với sự phát triển của các giống hữu tình qua trung gian tu
tập thiền định. Ðể chứng minh điều này, tôi xin trở lại câu chuyện
của Bồ tát Vô trước và Phật Di lặc tương lai. Vô trước đã thiền
quán trong 12 năm trời trước khi ông có khả năng nhận thấy được
Ngài. Phật Di lặc đã luôn luôn bên cạnh ông, nhưng Vô trước phải
cố gắng tăng trưởng cái nhìn của ông sao cho có thể tự mình chứng
thấy Phật Di lặc một cách trực tiếp. Cũng như thế, đức Phật luôn ở
bên ta, nhưng muốn nhận ra các vị đó một cách trực tiếp, chúng ta
phải cố gắng tăng trưởng tâm thức qua thiền định, qua sự thanh lọc
cẩn thận tâm thân mình. Sự việc tẩy lọc thân tâm có thể ví như
việc mở máy truyền hình để nhận hình. Hình rõ ràng là luôn luôn có
đó, nhưng nếu không vặn đúng băng tần, đúng luồng sóng thì hình
ảnh không thể được thấy rõ.
- Nếu chúng ta
nhớ 3 nguyên tắc này: 1. nguyên tắc của tánh không, 2nguyên tắc
năng lực của cái tâm để quyết định bản thể của kinh nghiệm mình và
3. nguyên tắc các phương tiện thiện xão, chúng ta sẽ có thể hiểu
thế nào là con đường mà Kim cuơng thừa có thể được chứng nghiệm.
Chúng ta cũng sẽ có thể hiểu sự đa dạng của các hình thức và những
hình ảnh mà Kim cương thừa dùng để thúc đẩy tiến trình thay đổi
biến hoá.
--o0o--
|
|