PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
Nguyên tác: Peter Della Santina, Ph.D.
Việt dịch: Minh Thiện Trịnh Chỉnh
Melbourne 2002
---o0o---
Chương 23
(Trang 208 - 214.)
Các Nền tảng Triết Học và Tôn Giáo
Philosophical and Religious Foundations.
~~~~~~~
Tôi thiết nghĩ việc khảo cứu các nền tảng triết học và tôn giáo của Kim cương thừa để giúp ta hiểu thêm nó ăn khớp với Pháp Phật như thế nào là điều rất quan trọng. Nếu xét Kim cương thừa một cách chi tiết, ta thấy nó bao gồm một số các tư tưởng quan trọng Bắc truyền (Ðại thừa). Có ba tư tưởng triết học và tôn giáo Bắc truyền nổi bật, giữ vai trò chính yếu trong Kim cương thừa. Ðó là các tư tưởng 1.Tánh không, 2. Duy thức và 3. các phương tiện hữu ích hoặc thiện xảo.
Trong Chương 22, tôi đã nói đến việc tông phái ở Tây tạng xem chư Bồ tát Luận sư Long thọ (Nagarjuna) và Vô trước (Asanga) là những vị sáng lập Kim cương thừa. Ngoài các yếu tố Kim cương thừa có trong tiểu sử (cũng có trong Chương 22), nhị vị Long thọ và Vô trước cũng có thể được xem là cha đẻ sáng lập--đó là vì họ ủng hộ và giải thích các tư tưởng về tánh không và tính ưu việt của thức (Duy thức). Một số tác phẩm Kim cương thừa trong kinh điển Tây tạng được cho là của Long Thọ và Vô trước, mặc dầu các học giả ngày nay muốn tranh luận về vấn đề này. Dù cả hai ngài có viết các tác phẩm đó hay không, nhưng rõ ràng là, nếu những ý tưởng đó không được đề xướng, Kim cương thừa sẽ khó được hiểu rõ, nếu không muốn nói là chúng sẽ không xuất hiện.
Trước hết ta hãy xét đến lý tánh không, đây là nét đặc thù của Long Thọ. Trong Chương 22, tôi có dẫn chứng một trường hợp, trong đó Long Thọ được cho là đã biến tạp kim thành vàng. Ðiều này có thể được xem là một ẩn dụ cho công việc chính của Kim cương thừa: biến cải kinh nghiệm thông thường thành kinh nghiệm giác ngộ. Nếu muốn biến cải thành công thì tạp kim không thể nào có tính nhất định, thường hằng riêng của nó. Chẳng hạn, nếu một mẫu than quả thực có giá trị thực chất, không thay đổi được, thì nó không bao giờ có thể biến thành bất cứ cái gì khác. Tất cả chúng ta đều biết rằng một mảnh than có thể biến thành kim cương với một vài điều kiện tinh chế.
Trang 209. Cái ý tưởng gốc ‘‘(đặc) tánh không thay đổi, độc lập’’ là do chữ Svabhava (Bắc Phạn). Nó có nghĩa là ‘‘tự tánh, tự ngã hay tự hiện hữu (own-being, self-existence). ‘‘Không có tự tánh’’ là Nihsvabhava, chữ nầy đồng nghĩa với ‘không tánh’. Không tánh không phải là Không Có Gì Cả (Nothingness) mà đó là sự tràn khắp, ngay thẳng, chân thật, một tình trạng trong đó các hiện tượng xuất hiện tùy thuộc vào (nguyên) nhân và duyên (điều kiện).
Mặc dầu ý tưởng tánh không được cho là của Long thọ và trường phái Trung đạo, là một trong những giáo thuyết quan trọng của Bắc truyền (Ðại thừa), nhưng nó cũng hiện hữu trong Nam truyền (Tiểu thừa). Chẳng hạn, theo kinh điển Nam truyền, đức Phật xem tất cả các hiện tượng như ngọn lửa của cây đèn dầu: đèn cháy được cũng phải do dầu và tim đèn nữa. Tự ngọn lửa là không có. Cũng giống như vậy, tất cả các hiện tượng tùy thuộc vào nhân và duyên.
Trong Bắc truyền, ý tưởng này được nói rất rõ: tất cả các hiện tượng được so sánh với một ảo tưởng huyễn hoặc. Một con voi giả chẳng hạn, nó xuất hiện có thể giống như một gò mối, khúc gỗ...được nhà ảo thuật dùng vài thủ thuật v.v...để biến thành nó. Vì thế, các sự xuất hiện giả huyễn xãy ra tùy thuộc vào nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện. Giống như vậy, tất cả các hiện tượng hiện hữu là do nguyên nhân này, điều kiện nọ. Chính vì tánh ‘‘ăn theo’’ này, tức cái không tánh, ta mới thực hiện được sự biến cải.
Long thọ nói rằng nếu thực sự có tự tánh (hay tự ngã, tự hiện hữu) thì sự biến cải bằng phương tiện của con đường giải thoát sẽ không thể nào xảy ra. Nói một cách khác, nếu thỏi than mà ta vừa nói có tánh không thay đổi được thì nó không thể nào trở thành hạt kim cương. Giống như vậy, nếu mỗi người trong chúng ta có một tự tánh riêng, một tự ngã thường hằng, một hiện hữu không thể thay đổi được thì dù tu tập Pháp Phật như thế nào chăng nữa, chúng ta cũng không thể nào trở nên càng lúc càng tiến bộ, trong sáng hơn hay giác ngộ được. Ðành rằng ta phải chịu ba món chướng là tham sân si, nhưng đó là tự tánh bình thường của các giống vật hữu tình. Nếu chịu thay thế si mê thành trí tuệ, tham cầu với không vướng mắc, sân nhuế thành từ và bi, chúng ta có thể thay đổi được các điều kiện trên. Bằng cách thay đổi chúng, ta có thể thay đổi tự tánh, tự ngã của mình để trở thành Tiên Phật. Vì thế Không tánh tuyệt đối cần thiết cho phép ta chuyển các điều kiện của luân hồi thành sự giải thoát đến niết bàn.
Trang 210. Bây giờ ta xét đến ý tưởng thứ hai, vai trò cái tâm trong kinh nghiệm. Ở đây, Vô trước và người em là Thế thân đưa ra hai điểm chính: a. đối tượng xuất hiện không có hình thức nhất định hay bền vững, và b. đối tượng xuất hiện ngay cả khi không có tác nhân kích thích bên ngoài.
Hai điểm chính nầy trong Ðại thừa và Kim cương thừa cũng không vắng mặt trong truyền thống Tiểu thừa. Ðiểm đầu tiên được nói rõ trong một số kinh sách Phật giáo. Chẳng hạn, sự kiện liên hệ đến vị Trưởng Lão Tissa nổi tiếng trong giới Tiểu thừa: khi được hỏi ông có thấy người phụ nữ nào mới đi qua trên đường không, Tissa trả lời rằng ông không biết đó là nữ giới hay nam giới mà chỉ thấy một đống xương đi qua. Ðiều này chứng tỏ rằng các đói tượng không có một hình thức cố định; những gì xuất hiện hấp dẫn của một phụ nữ đối với người đàn ông này thì có thể là một đống xương đối với người kia.
Truyền thống Ðại thừa nói rất rõ ràng về việc này bằng cách mượn đến kinh nghiệm của một số ‘tâm sở biến hành’. Chẳng hạn, khi uống quá nhiều rượu, ta cảm thấy ‘‘đất say đất cũng lăn quay’’, hoặc cảm thấy có năng lực to lớn. Giống như vậy với ảnh hưởng của các chất tạo ra ảo giác lâng lâng, con người nhận thức sự vật rất khác biệt. Trong quyển Hai Mươi Ðoạn về Duy thức, Thế Thân (Vasubandhu) tổ thứ 21 dòng Thiền Ấn, chứng minh điều này với việc đối chiếu kinh nghiệm của con người trong 6 cõi (xem lại chương 19). Trong đó, ông giải thích rõ ràng là các đối tượng xuất hiện dưới nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào các điều kiện chủ quan (tâm) của người nhận thức và đã kết luận rằng các đối vật xuất hiện dưới các hình thức và tướng trạng khác nhau tùy theo (tâm) các loài vật hữu tình khác nhau và tùy theo nghiệp duyên của họ.
Trang 211. Ðiểm thứ hai, các vật xuất hiện ngay cả khi không có một nhân tố kích thích bên ngoài, cũng được tìm thấy trong truyền thống Nam truyền Tiểu thừa. Trong đó, Buddhaghosa giải thích về 3 giai đoạn định (sơ định, nhị định và viên mãn), nhờ tu tập thiền quán mà sự vật đã trở thành đồng hóa vào giai đoạn gần nhứt. Ví dụ, nếu một thiền giả, đầu tiên dùng một đĩa màu xanh, kế đó nhờ đĩa đó trở thành đồng hóa và ông ta bây giờ chỉ quán tưởng vào mô hình tinh thần của nó mà thôi. Tức là vào giai đoạn thứ nhứt, vị ấy dùng một vật có thực làm đối tượng thiền định, đến giai đoạn thứ hai là quán tưởng, ông không còn cần ngoại vật đó nữa. Vật ấy bây giờ đối với ông không còn là một nhân tố kích thích cần thiết nữa. Chúng ta có thể hiểu được điều nầy qua các giấc chiêm bao, trong đó người nằm mơ thấy được các đối vật mà không cần vật kích thích bên ngoài.
Thế Thân lại thêm trường hợp của những người giám sát ở cõi địa ngục. Nếu những người này sanh trở lại các địa ngục đó do nghiệp riêng của họ thì họ cũng phải chịu các đau khổ ở đó. Nhưng, vì họ ở trong các địa ngục đó chỉ để làm công việc của họ, nên Thế Thân cho rằng họ chỉ là sản phẩm do tâm não của những loài ở địa ngục nghĩ tưởng tạo ra mà thôi. Nói cách khác, vì nghiệp không lành mạnh của mình mà các loài ở địa ngục phóng chiếu ra hình ảnh của những cai ngục tra tấn mình.
Trong tất cả trường hợp này--các kinh nghiệm về thiền đînh, chiêm bao và các loài ở địa ngục--các hình ảnh xuất hiện mà không cần đến nhân tố kích thích bên ngoài nào cả. Ðây là lý do tại sao người ta nói rằng, giống hệt như trường hợp một hoạ sĩ vẽ tranh ma quỹ rồi trở nên sợ hãi vì bức tranh đó, các loài chưa được khai sáng vẽ ra hình ảnh 6 cõi trời luân hồi và rồi bị khổ sở, kinh hãi vì chính hình ảnh đó. Qua năng lực của tâm não, chúng ta vẽ ra 6 cõi trời hiện hữu và rồi chạy vòng vòng theo chúng bất tận. Chúng ta có thể tạo ra 6 cõi trời này một cách chính xác vì sự không hiện hữu (hay không tự tánh, không tự ngã) của chúng.
Trang 212. Hai ý tưởng này--tánh không và vai trò cái tâm trong kinh nghiệm--đi cặp với nhau. Các đối vật không hiện hữu độc lập. Sự hiện hữu của chúng là tùy vào nhân và duyên, quan trọng nhất là các nhân duyên tinh thần như si ám, mắc mứu, sân nhuế, phẫn hận, tật đố, v.v...Vì những điều kiện này và vì hiện tượng tánh không, tâm thức hình thành và tạo ra kinh nghiệm dưới một hình thức đặc biệt, hình thức đau khổ của 6 cõi trời.
Cái tâm làm việc một cách tự động và không chủ ý, vì vậy tạo ra các kinh nghiệm đau khổ trong 6 cõi trời như thế nào, thì cái tâm cũng có thể được huấn luyện để làm việc một cách thong thả, thận trọng, có chủ ý để đem lại sự thay đổi cho các kinh nghiệm đó, đem lại kinh nghiệm khai sáng, giải thoát. Ðây là điều rõ ràng trong kinh nghiệm thiền định mà chúng ta đã xét trước đây. Thường thì cái tâm làm việc một cách tự động và không chủ ý đối với kinh nghiệm. Cái phản ứng của ta đối với một đối tượng, thí dụ sắc vóc của một phụ nữ, là do theo thói quen phản xạ, theo thói quen tham muốn không đúng và không chịu tìm hiểu. Với thiền định, ta huấn luyện cái tâm một cách dứt khoát để giúp thay đổi kinh nghiệm của mình. Qua kinh nghiệm thiền định, ta có thể thay đổi nhận thức của mình về đối tượng, giống như Trưởng Lão Tissa đã thay đổi cái thấy của ông: sắc vóc của một phụ nữ chỉ là một đống xương.
Thường chúng ta nhận thức các màu sắc khác nhau một cách tự động, không trực tiếp, không biện biệt. Nhờ thiền định, ta có thể theo ý muốn mình, hình dung, tạo ra và thay đổi tình trạng một mảng màu theo kinh nghiệm tinh thần riêng của mình. Tánh không và năng lực sáng tạo của tâm rõ ràng có mặt trong cơ cấu kỹ thuật thiền định Kim cương thừa (sẽ xét kỹ hơn trong Chương 29). Hợp chung nhau, chúng cho ta khả năng và phương pháp cần có để chuyển biến kinh nghiệm mình. Ta có thể thực hiện được vì không có cái gì có (đặc) tánh riêng của nó và cách chúng ta làm là dùng năng lực của tâm để tạo ra, quyết định đường lối mới khi nhận thức đối tượng.
Trang 213. Như đã được nói đến trong Chương 22, Kim cương thừa là một với Ðại thừa về điểm bắt đầu và điểm mục tiêu của nó. Cái tư tưởng căn bản trong truyền thống Ðại thừa là tâm bồ đề (bodichitta), tâm kiên quyết hoàn thành giác ngộ cho tất cả chúng sinh, và kết quả của quyết tâm này là sự đạt được Phật quả, với tầm vóc bình thường và siêu việt. Cái hiện tượng bình thường là sự biểu lộ của lòng đại bi của Phật, điều này tự biểu hiện trong các phương tiện thiện xảo, tư tưởng nổi bật thứ ba trong Ðại thừa và rất quan trọng trong Kim cương thừa.
Phương tiện thiện xảo là khả năng hiểu rõ tất cả giống vật hữu tình từng trình độ một. Trong nhiều kinh Ðại thừa, điều này được giải rõ với sự giúp đỡ của các ví dụ, như câu chuyện ngụ ngôn về ba loại xe (xe dê cho hàng Thanh văn, xe hươu cho bậc Duyên giác và xe trâu cho vị Phật); về nước mưa và ánh sáng mặt trời, mặt trăng trong Kinh Liên hoa (xem lại Chương 15). Cái hình ảnh bình thường có tính cách hiện tượng của đức Phật xuất hiện dưới mắt các giống vật hữu tình là tùy theo nhu cầu và khả năng của họ. Nó tự biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong một số hình thức, như hình thức của người thiếu nữ đẹp mà Phật đã cho xuất hiện vì Kshema (Xem Chương 22). Trong nhiều Kinh, Luận của Bắc truyền Ðại thừa, tự đức Phật biểu hiện dưới hình thức người thường hoặc thánh thiên để giúp chúng sinh tiến bộ trên con đường giải thoát.
Chính cũng với cách này mà đức Phật đã tự biểu hiện dưới các hình thức đặc biệt như các vị thần trong các đền thờ, lăng tẩm Ðại thừa tùy theo sự cần thiết và xu hướng của các giống hữu tình. Chẳng hạn, trong 5 trường hợp chư Phật trên cõi trời, đức Phật tự biểu hiện dưới 5 hình thức đặc biệt tương ứng với các thiên hướng nghiệp quả đặc biệt của các giống hữu tình. Ông là Phật Ðại nhật (Tỳ Lô Già na, Vairochana) cho các giống hữu tình mà nổi khổ chính của họ là vô minh; ông là Phật Bất động (Phật A xúc, Akshobhya) dành cho những người có nổi khổ chính yếu là sân nhuế (hờn giận đến mức mất sáng suốt) và Phật A di đà (Amitabha) cho những người mà nổi khổ chính của họ là hay mắc mứu. Tự Ðức Phật xuất hiện dưới các hình thức khác nhau để trợ lực một cách tốt đẹp nhứt cho các giống hữu tình khác nhau vì nghiệp căn đặc biệt của họ.
Trang 214. Có các biểu hiện đặc biệt của đức Phật tương ứng với các giống hữu tình. Có loại tương duyên giữa sự xuất hiện của Phật (dưới hình thức Phật trên trời hoặc Thánh thần trong các đền thờ Kim cương thừa) với sự phát triển của các giống hữu tình qua trung gian tu tập thiền định. Ðể chứng minh điều này, tôi xin trở lại câu chuyện của Bồ tát Vô trước và Phật Di lặc tương lai. Vô trước đã thiền quán trong 12 năm trời trước khi ông có khả năng nhận thấy được Ngài. Phật Di lặc đã luôn luôn bên cạnh ông, nhưng Vô trước phải cố gắng tăng trưởng cái nhìn của ông sao cho có thể tự mình chứng thấy Phật Di lặc một cách trực tiếp. Cũng như thế, đức Phật luôn ở bên ta, nhưng muốn nhận ra các vị đó một cách trực tiếp, chúng ta phải cố gắng tăng trưởng tâm thức qua thiền định, qua sự thanh lọc cẩn thận tâm thân mình. Sự việc tẩy lọc thân tâm có thể ví như việc mở máy truyền hình để nhận hình. Hình rõ ràng là luôn luôn có đó, nhưng nếu không vặn đúng băng tần, đúng luồng sóng thì hình ảnh không thể được thấy rõ.
Nếu chúng ta nhớ 3 nguyên tắc này: 1. nguyên tắc của tánh không, 2nguyên tắc năng lực của cái tâm để quyết định bản thể của kinh nghiệm mình và 3. nguyên tắc các phương tiện thiện xão, chúng ta sẽ có thể hiểu thế nào là con đường mà Kim cuơng thừa có thể được chứng nghiệm. Chúng ta cũng sẽ có thể hiểu sự đa dạng của các hình thức và những hình ảnh mà Kim cương thừa dùng để thúc đẩy tiến trình thay đổi biến hoá.
--o0o--