PHẬT HỌC CƠ BẢN

Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
Nguyên tác: Peter Della Santina, Ph.D.
Việt dịch: Minh Thiện Trịnh Chỉnh
Melbourne 2002

---o0o---
Chương 27
(Trang 243 - 252.)
Chuẩn bị hành trì
The preliminary practices.
~~~~~~~
Từ Chương 22 đến Chương 26, tôi đã cố gắng phác họa cái vũ trụ theo kinh nghiệm Kim cương thừa. Ðó là lý do tại sao tôi bắt đầu khảo sát về thái độ văn hoá và trí thức trong thời kỳ mà Kim cương thừa xuất hiện đầu tiên, kế đó xét đến bối cảnh tôn giáo và triết học, phương pháp luận, huyền thoại và biểu tượng, tâm lý học, sinh lý học và vũ trụ học. Từ Chương 27 đến Chương 29, tôi sẽ xem xét các giai đoạn hành trì theo con đường Kim cương thừa. Nói chung, có 3 giai đoạn: 1. chuẩn bị, 2. hành nhập và 3. hành trì thực sự. Tôi phân chia giai đoạn chuẩn bị thành 2 phần: tổng quát và chuyên biệt.
Như đã nói trong Chương 22, Bắc truyền (Ðại thừa) và Kim cương thừa thực sự là 2 thành phần trong một tín ngưỡng độc nhất. Ðiểm bắt đầu và mục tiêu của chúng là giống nhau; chỉ khác nhau là phương pháp sử dụng để đạt được từ điểm bắt đầu đến điểm mục tiêu. Về giai đoạn chuẩn bị, nói chung cả hai có rất nhiều điểm tương đồng.
Chúng ta cần nói rõ hơn một chút cho phần chuẩn bị này để nhấn mạnh là, các giai đoạn hành trì Kim cương thừa không phải là các nghi thức hành trì mà không có sự sửa soạn chu đáo thích đáng. Thực vậy, các sự chuẩn bị tổng quát cho việc hành trì Kim cương thừa cũng là những nghi thức được đòi hỏi cho toàn bộ con đường Ðại thừa. Trong phần chuẩn bị tổng quát, chúng ta có 1. qui ngưỡng, 2. quán tưởng đau khổ, 3. luật nghiệp quả, 4. cái chết và sự vô thường, 5. thân người khó được, 6. vun trồng từ và bi, 7. khởi sinh tư tưởng giác ngộ, 8. vun trồng ‘định’ (nhất tâm) và ‘huệ’ (hiểu biết sâu sắc). Tất cả các điều trên được xem là những điều kiện tiên quyết tổng quát cho việc hành trì Kim cương thừa Mật giáo.
Trang 244. Trừ một vài ngoại lệ, còn thì nói chung các lối chuẩn bị của Kim cương thừa tương tự với lối của Bắc truyền (Ðại thừa). Một trong những ngoại lệ là cách thực tập việc qui ngưỡng. Trong Bắc truyền có ba nơi qui ngưỡng--một là đấng đã Giác Ngộ tức Phật, hai là giáo pháp của ngài và ba là Tăng đoàn không thể bỏ được của các vị Bồ tát, hoặc chư Bồ tát đã đắc giai đoạn thứ bảy của Bồ tát giới (khỏi trở lại thế gian); trong Kim cương thừa Mật giáo có thêm nơi qui ngưỡng thứ tư, đó là người thầy (preceptor, guru or lama). Trong một vài phái phụ của Kim cương thừa, có đến 6 nơi qui ngưỡng, cộng thêm 2 nữa là các vị thần hộ trì và Ðồ cát ni (Dakinis, quỷ cái uống máu người). Các vị thần hộ trì là những hình tượng đặc biệt của các vị Phật huyền bí. Bất cứ vị thần chính yếu nào của Mật giáo như Thần Hevajra (Không trí kim cương), Chakrasamvara v.v... nếu được thiền quán, đều là con đường trọn vẹn để đi đến giác ngộ. Ðồ cát ni (dakinis) là các thần nữ tượng trưng cho sự không vững chắc (vô ngã). Trong đền miếu Kim cương thừa Mật giáo, các thần nữ Ðồ cát ni được xem tương tự như Tăng đoàn, đó là những hình tướng đặc biệt của Tăng đoàn Kim cương thừa Mật giáo. Thực sự chúng ta có nhiều dẫn chứng về 6 nơi qui ngưỡng này trong một số tông phái với một số các sự kiện, nhưng phổ biến nhứt vẫn là Tứ bảo, đó là người thầy và Tam Bảo.
Vai trò người thầy rất quan trọng trong Kim cương thừa Mật giáo. Cho tôi dẫn chứng 2 ý tưởng chứng minh vai trò và sự quan trọng của người thầy trong Kim cương thừa. Ðầu tiên, người thầy thi hành một chức năng tương tự như chức năng của kính phóng đại. Chúng ta biết rằng mặt trời rất nóng và có khả năng to tát; tuy vậy, nếu không có một dụng cụ như kính phóng đại, ta không thể khai thác sức nóng của nó để biến thành ngọn lửa. Cũng vậy, tuy đức Phật và những lời giáo huấn của ông rất mạnh và vững, nhưng nếu không có người thầy thì đức Phật và Pháp Phật không thể biến thành ngọn lửa trí tuệ cho đệ tử Phật. Người thầy giữ nhiệm vụ làm phương tiện tập trung và khai thác năng lực của Phật, Pháp và Tăng sao cho năng lực ấy được hiệu nghiệm và được sử dụng ngay cho các yêu cầu riêng của đệ tử.
Trang 245. Nhận thức được vai trò người thầy là điều quan trọng đầu tiên. Chúng ta sẽ hiểu việc này nhiều hơn nếu chúng ta nghe câu chuyện của Marpa, một trong những người Tây tạng nổi tiếng nhứt, đã vào Ấn độ để thu nhận giáo lý Kim cương thừa từ Naropa. Marpa bỏ ra 3 cuộc hành trình vào Ấn độ để học tập lâu dài với Naropa. Người ta nói rằng có một lần, khi có sự xuất hiện của một vị thần giám hộ, Marpa đã phạm lỗi lầm là cúi đầu trước vị thần thay vì trước người thầy Naropa của mình. Cái nghiệp quả của sự sai sót này là Marpa sau đó đã mất các người con trong các tai nạn và không có con cháu để ông có thể bí truyền các lời giáo huấn mà ông đã học được. Ðây là một trong số các câu chuyện chứng tỏ sự cần thiết của người thầy trong Kim cương thừa Mật giáo.
Trong Chương 29, tôi sẽ chứng minh 2 thành phần sau cùng trong giai đoạn chuẩn bị, đó là ‘định’ (nhất điểm tụ) và ‘huệ’ (hiểu biết sâu sắc) phải được vun trồng như thế nào trong việc hành trì thiền định Mật giáo. Riêng bây giờ, tôi xin lập lại là phần chuẩn bị tổng quát này là những điều kiện tiên quyết không thể không có cho việc hành trì nghiêm túc Kim cương thừa. Không có một tông phái nào trong Phật giáo Tây tạng khuyến khích việc bắt đầu hành trì Kim cương thừa mà không bỏ ra một số thời gian lớn lao để chuẩn bị. Tất cả các môn phái Kim cương thừa Tây tạng đều có phần khẩu truyền và phần văn viết cho việc tu tập trong giai đoạn chuẩn bị này. Mặc dù đôi khi đã xãy ra việc có hành giả thực hành Kim cương thừa mà không bỏ ra một số thời gian thích đáng để theo các điều căn bản đã chỉ dạy, họ làm như vậy thì họ phải chịu thiệt thòi. Tôi không có ý nói để dọa. Những gì tôi muốn nói là, nếu muốn tiếp tục lên đại học mà bạn bằng cách này hay cách khác, xoay sở không chịu trang bị cho giai đoạn huấn luyện tiền đại học, bạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong sự nghiệp sau này.
Trang 246. Tôi muốn xin xét thêm một lần nữa trước khi nói về các sự chuẩn bị hành trì riêng biệt, nhất là trong Kim cương thừa. Tôi đã bỏ ra khá nhiều thì giờ, đưa ra đặc tính đồng nhất của Phật giáo Nam truyền (Tiểu thừa), Bắc truyền (Ðại thừa) và Kim cương thừa Mật giáo. Tôi cũng đã cho thấy rằng Mật giáo tượng trưng cho sự nới rộng tự nhiên các yếu tố được tìm thấy trong các tông phái Phật giáo khác. Vì thế, tôi xin các bạn quan tâm vào 2 bước chính trong các bước hành trì chuẩn bị đặc biệt này: việc trở về qui ngưỡng và việc đánh thức tư tưởng giác ngộ (hay sự chấp nhận hành hạnh Bồ tát). Tôi muốn xin gợi ý rằng điều này có thể giống như những lễ điểm đạo. Một lối hành trì khác có thể được xem tương tự với lễ điểm đạo là thời kỳ đầu của người mới tu (tức gia nhập vào Tăng đoàn).
Tất cả 3 bước hành trì này có thể được xem như là các bước khác nhau của lễ điểm đạo. Tãt cả đều liên hệ đến việc nhập vào một cộng đồng với một số lề lối đặc biệt trong việc hành trì: trong trường hợp qui ngưỡng thì buổi lễ này tượng trưng cho sự nhập vào cộng đồng Phật giáo; trong trường hợp của người mới tu, nó tượng trưng cho sự gia nhập vào cộng đồng tu sĩ; và trong trường hợp hành hạnh Bồ tát là sự nhập vào gia đình Phật tử. Ba lễ này là các lễ điểm đạo liên hệ đến việc phải chịu một vài ràng buộc: việc qui ngưỡng kèm theo sự cam kết cố gắng tuân theo các giới luật của một người lương; việc nhập Tăng đoàn kèm theo sự cam kết tuân theo các giới hạnh của một người mới tu; và việc hành hạnh Bồ tát đem lại sự cam kết của người Bồ tát. Cũng có một số hành trì kèm theo với sự qui ngưỡng, người mới tu và Bồ tát hạnh giống với các thành phần quan trọng trong lễ điểm đạo của Mật giáo.
Chúng ta hãy tiếp tục xét đến các sự hành trì Kim cương thừa Mật giáo với sự chuẩn bị đặc biệt của nó. Không phải là một điều đòi hỏi bắt buộc và cũng không phải là một mệnh lệnh mà người ta phải hoàn tất các sự chuẩn bị trước khi bắt đầu thực hành Kim cương thừa. Tuy nhiên, người ta phải hoàn tất chúng trước khi không còn hoạt động thế tục nữa để ẩn cư cầu nguyện và suy ngẫm vào một trong những nơi có thần thánh giám hộ. Vì phải thực hành Kim cương thừa nghiêm túc nên mới có sự đòi hỏi chuẩn bị đặc biệt như vậy.
Từ ngữ cho sự chuẩn bị này là NGON-DRO, có nghĩa là đi trước (going before). Các sự hành trì này ‘đi trước’ việc thực hành nghiêm túc. Có 4 lối thực hành chuẩn bị cho tất cả các tông phái Măt giáo: 1. qui ngưỡng, 2. thú tội, 3. người thầy Du già, và 4. cúng dường giới đàn. Mỗi giai đoạn phải được hành xử 100.000 lần. Ngoài 4 giai đoạn này, một vài tông phái đòi hỏi hành động nằm úp xuống tỏ sự qui phục. Một số tông phái khác đòi hỏi các nghi thức khác.
Qui ngưỡng: Như đã nói ở trên, trong Kim cương thừa, người ta qui ngưỡng nơi 4 ‘đối tượng’: Phật, Pháp, Tăng và người thầy. Qui ngưỡng có liên hệ đến việc hình dung đến các vật trú ẩn riêng hay chung: (a) ta có thể hình dung người thầy, đức Phật, kinh sách và Tăng đoàn một cách riêng biệt, hoặc (b) người ta có thể hình dung 4 đối tượng qui ngưỡng hợp nhất thành một nhân vật đơn độc là vị thần giám hộ. Có thể bạn đã thấy sự hình dung này được mô tả trong các cuộn sách cổ, trong đó các vật được vẽ ra trên cây, trên một ngai trang hoàng, trên một bông sen hay trên đĩa mặt trời hay mặt trăng (muốn biết thêm về một vài những biểu tượng này, xin xem Chương 25). Với sự hình dung của 4 vật qui ngưỡng, chúng ta đọc lên công thức đó 100.000 lần.
Thú tội: Ðể cho tiện, tôi gọi lần hành trì có tính cách chuẩn bị đặc biệt này là ‘thú tội’ bởi vì nó thường được dẫn chứng bởi từ ngữ này. Tuy nhiên, điều quan trọng phải nhớ ở đây là chúng ta không xem thú tội là một phương tiện của tha thứ. Chúng ta không dùng từ ngữ này với nghĩa được dùng trong Thiên chúa giáo: thú tội được theo sau bởi tha thứ từ một quyền lực bên ngoài. Trong Phật giáo nói chung, Kim cương thừa nói riêng, thú tội ám chỉ sự thừa nhận riêng của chúng ta cho các hành động bất thiện đã làm trong quá khứ và cái quyết tâm của ta không lập lại chúng. Ðặc biệt quan trọng trong việc thú tội các hành động bất thiện này là Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát (Vajrasattva), một hình thức đặc biệt của một vị Phật tương tự với Phật của Năm Gia đình. Bồ tát Phổ Hiền là hình thức đức Phật thể hiện sự giác ngộ cho mục đích đặc biệt của sự thú tội và thanh tịnh các hành động bất thiện.
Trang 248. Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát (Vajrasattva) cũng xuất hiện trong lăng đền Ðại thừa. Việc thú tội về các hành động bất thiện là một trong những sự chuẩn bị được thi hành bởi tất cả những người đi trên con đường Bồ tát. Phổ Hiền Bồ tát có màu trắng. Ông có một mặt và 2 cánh tay, giữ một hạt kim cương và một cái chuông, tượng trưng cho các phương tiện thiện xảo và trí huệ. Trong sự thực hành thú tội, chúng ta quán tưởng Bồ tát Phổ Hiền (Vajrasattva) và tụng thần chú 100 vần của Bồ tát Phổ Hiền 100.000 lần.
Người ta nói rằng 4 quyền năng đó là kết quả bắt nguồn từ việc thú tội và thanh tịnh các hành động bất thiện. Quyền năng thứ nhất là ‘quyền năng của sự thờ cúng’, tức nói đến quyền năng của Bồ tát Phổ Hiền là tượng trưng cho sự thanh tịnh. Quyền năng đặc biệt này cũng là kết quả bắt nguồn từ sự hình dung đến hình ảnh Phổ Hiền Bồ tát. Ðây là quyền năng tượng trưng, giống như loại quyền năng thế gian như quốc kỳ một nước chẳng hạn. Quốc kỳ có một quyền lực biểu tượng; cũng vậy, trong bối cảnh thiêng liêng của thiền định, hình ảnh Bồ tát Phổ Hiền có một quyền năng biểu tượng nào đó.
Cái thứ hai của 4 quyền năng là ‘quyền năng siêu việt’, của sự ‘vượt ra ngoài sự hiểu biết tầm thường’. Ðiều này muốn nói đến sự chân thành từ bỏ các hành động bất thiện. Nói một cách khác, qua con đường thiền định, các hành động bất thiện buổi đầu được cải thiện và lần lên cái học chơn lý rốt ráo.
Trang 249. Sức mạnh thứ ba có kết quả từ việc thực hành này là ‘sức mạnh của một loại thuốc giải độc các thói quen’ hay là quyền năng sửa sai bền bỉ, liên tục, nó dẫn đến sự quyết tâm thành thực không lập lại những hành động bất thiện mà người ta đã làm trong quá khứ. Ðây là cái quyền năng tự chế không làm những hành động bất thiện một lần nữa trong tương lai.
Cái quyền năng thứ tư là ‘quyền năng phục hồi’. Ðiều này dẫn đến sự kiện là, một khi đã đạt đến bậc nào đó thì các hành động bất thiện đã được điều kiện hóa và chúng thực sự không thâm nhập nỗi vào cái lõi chơn tánh riêng của người đó, đó là cái tâm Phật, hay đặc tính của tánh không hay chơn không. Những hành động bất thiện là, trong thực tế, không dự tính trước. Chúng giống như chất dơ làm bẩn miếng vải trắng, hay đám mây đen làm tối bầu trời xanh. Nhờ thiền định dựa vào Kim cương thừa, kết quả ta có là quyền năng phục hồi, đó là sự nhận ra ‘bản thể thanh tịnh’ của mình.
Vị minh sư Du già (Yoga). Sự chuẩn bị thứ ba được gọi là vị minh sư. Minh sư (guru) hay lạt ma (lama) là một vị thầy toàn bích có thể ban các lễ thụ giáo và các sự chứng đắc tâm linh đặc biệt. Thường những người không quen thuộc với truyền thống Tây tạng nghĩ đến bất cứ vị sư Tây tạng nào cũng là một lạt ma, nhưng thật ra nó chỉ dành cho các vị thầy có đủ tiêu chuẩn, trong khi các vị sư bình thường được nói đến chỉ là tỳ kheo (gelong, bhikshu). Chữ Du già (Yoga) nghĩa là ‘nối liền’ hoặc ‘nhận ra’.
Mục đích của vị minh sư là để thiết lập mối dây liên kết giữa môn đồ với người thầy. Một lần nữa, chúng ta có thể thấy cái quan trọng của người thầy trong Kim cương thừa. Sự thực hành này có thể diễn ra dưới nhiều hình thức có chút ít khác nhau. Tuy nhiên, nói chung nó có liên quan đến việc đọc tụng 100.000 lần một công thức diễn tả lòng thành kín của môn đồ đối với và hướng về đạo hạnh của người thầy.
Tôi muốn xin nói rộng ra những gì tôi đã nói trước đây về sự quan trọng của vị minh sư trong Kim cương thừa là tại sao nó phải như thế. Kim cương thừa, trước hết và chủ yếu là tông phái khẩu truyền, bí truyền từ thầy qua trò. Sự bí truyền từ thầy qua trò đặc biệt rất quan trọng. Sự bí truyền này dẫn đến việc thành hình các dòng thiền. Dĩ nhiên dòng thiền quan trọng không chỉ trong Kim cương thừa mà còn trong Phật thừa, đặc biệt khi nó đến từ lễ thụ chức tu sĩ. Nếu bạn xem lại lịch sữ về lối sống của các tu sĩ ở Tích lan hay Thái lan, bạn hẵn sẽ chú ý sự quan trọng đó. Vì sự gián đoạn của dòng thụ chức tu sĩ, các viên đặc sứ phải được gởi từ một quốc gia Nam truyền (Tiểu thừa) đến một quốc gia khác trong một số trường hợp chỉ là để tiếp tục lại cái dòng đó.
Trang 250. Dòng thiền giống như một dòng điện. Khi dòng thiền bị đứt đoạn, lễ thụ chức của các tân tông đồ không thể diễn ra được. Ðiều này cũng đã xãy ra trong lịch sữ tu sĩ của Tây tạng khi, Phật giáo bị ngược đãi dưới triều vua Lan-dar-ma, dòng thiền của lễ thụ chức tu sĩ đã phải được tái thiết lập với sự giúp đỡ của các tu sĩ Trung hoa. Vì thế, dòng thiền cực kỳ quan trọng. Nó quan trọng vì đó là sợi dây nối kết không đứt đoạn giữa thầy và trò mà giáo lý Kim cương thừa Mật giáo được truyền thừa từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Nói về dòng thiền là nói đến từng mắt xích của dòng đó, tức từng thành viên một. Kết quả là, người trò được người thầy điểm đạo, bảo đảm được tánh danh giữa thầy với trò cùng vị thần giám hộ. Sau đó, người trò tạo dựng được khối liên kết và phát triển cái nhân tánh riêng của mình với người thầy và rồi với vị thần giám hộ.
Sự thành lập dòng thiền, được thể hiện qua nhân vật người thầy, vượt thời gian và không gian. Nó nối liền hố ngăn cách chia rẽ chúng ta, một bên là ngay hiện tại bây giờ và ở đây, với một bên là thời gian và không gian và thực thể của đức Phật. Ðây là lý do tại sao, trong lễ điểm đạo Kim cương thừa Mật giáo và thực hành thiền định, người thầy được nhận dạng là vị thánh giám hộ, và sau đó là hành giả được nhận dạng với vị thánh qua người thầy. Sự thực hành hợp nhất với người thầy là điều quan trọng cho sự thiết lập nền móng liên hệ đặc biệt giữa hành giả và người thầy.
Trang 251. Lễ giới đàn (Mandala offering). Lần thực hành chuẩn bị thứ tư là lễ giới đàn. Nói chung, giới đàn là một vòng biểu tượng, thiêng liêng, bí thuật. Trong bối cảnh nghi thức lễ vật, vòng giới đàn biểu thị hình thức tượng trưng toàn thể vũ trụ thế gian tầm thường này, như đã được vẽ ra trong vũ trụ học Phật giáo. Theo truyền thống, vũ trụ được nói đến là Núi Sumeru là trung tâm, 4 lục địa chính và một số lục địa phụ chung quanh Núi Sumeru v.v.... Giới đàn là biểu hiện tượng trưng cho vũ trụ học truyền thống này.
Trong phần thực hành lễ vật giới đàn, hành giả cúng dâng cho 4 đối tượng qui ngưỡng (Phật, Pháp, Tăng và người thầy) tất cả công đức của mình, có được là do các hành động thiện lành dưới hình thức biểu tượng của vũ trụ. Người đó hiến tất cả hành động thiện lành của mình cho 4 đối tượng này, đó là tất cả các phẩm hạnh toàn bích, nhằm hướng tới sự giác ngộ của tất cả giống hữu tình. Lễ vật này được thực hiện 100.000 lần. Cùng với sự đọc tụng, hành giả trình bày một nghi thức dùng một dĩa kim loại đựng đá, cây, gạo, lúa mì, cát. Qua phương tiện này, người đó tạo ra các đặc điểm vũ trụ đầy biểu tượng nổi bật của môn vũ trụ học truyền thống.
Việc thực hành lễ vật giới đàn là hữu hiệu vì đây là hình thức trung thực nhất của nghiệp quả. Có 5 điều kiện chuyển đổi làm tăng cường nghiệp lực: 3 chủ quan và 2 khách quan. Ba điều kiện chủ quan là: 1. sự kiên trì bền bĩ hay sự lặp đi lặp lại của một hành động, 2. quyết tâm, 3. không tiếc nuối. Các điều kiện khách quan là 4. phẩm chất và 5. sự mang ơn người mà hành động được hướng tới (xem Chương 8).
Trong việc dâng lễ giới đàn, chúng ta có tất cả điều kiện tốt đẹp làm tăng thêm nghiệp lực thiện lành. Chúng ta có sự kiên trì do sự dâng lễ được 100.000 lần. Chúng ta có sự quyết tâm của hành giả dâng tặng tất cả công đức của ông dưới hình thức tượng trưng cho những người được giác ngộ. Chúng ta cũng có sự không tiếc nuối. Nếu dâng cúng vật chất, ta có thể có vài cảm giác tiếc nuối. Chẳng hạn, nếu tôi cúng dường một khoản tài chính nào đó cho một tu viện, có thể sau đó tôi nghĩ rằng đã cho quá nhiều. Nhưng với sự hiến dâng theo lễ giới đàn này, không có lý do gì cho loại cảm giác này nổi lên, vì thế nghiệp thiện được sinh ra mà không bị cản trở. Cuối cùng, còn ai là người xứng đáng được cúng dường hơn là chư vị đã giác ngộ. những người xứng đáng nhất và đã làm lợi lạc cho chúng ta, vì chính họ là những người giúp đắc quả giác ngộ? Vì thế, sự thực hành lễ giới đàn tạo ra được công đức cần thiết để giúp tiến bộ nhanh hơn trên con đường Kim cương thừa Mật giáo.
Trang 252. Nói tóm lại, 4 giai đoạn thực hành chuẩn bị chuyên biệt có một phần đóng góp đặc biệt trong việc sửa soạn cho việc thực hành Kim cương thừa. Việc đọc tụng các công thức qui y tạo ra một nơi nương tựa vững chắc bảo vệ con người khỏi sự chán nản và xao lãng. Việc hành trì của người thầy thiết lập sự liên hệ giữa hành giả với người thầy, sự liên hệ cho sự tiến bộ trên đường tu tập Kim cương thừa. Cuối cùng, sự hành trì cúng dâng theo giới đàn tạo ra tiềm năng tích cực, năng lượng lành mạnh mà con người cần có trong việc tạo ra những bước tiến bộ lâu dài và hữu hiệu.
--o0o--