PHẬT HỌC CƠ BẢN

Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
Nguyên tác: Peter Della Santina, Ph.D.
Việt dịch: Minh Thiện Trịnh Chỉnh
Melbourne 2002

---o0o---
Chương 30
(Trang 271 - 275.)
Vi diệu pháp nhập môn
An Introduction to the Abhidharma.
~~~~~~~
Trong 12 chương, từ chương 30 suốt đến chương 41, tôi sẽ thảo luận các khía cạnh triết học và tâm lý học của Phật giáo được trình bày trong 7 quyển kinh sách của Luận Tạng Vi diệu pháp (Abhidharma Pitaka) thuộc kinh điển Pali Nam truyền (Tiểu thừa).
Tôi sẽ không xét chi tiết về các Pháp (factor, dharma), được tìm thấy trong nhiều quyển sách có giá trị về Vi Diệu pháp. Thay vào đó, mục tiêu của tôi ở đây là: 1. phác họa, mô tả các phương pháp chính cùng các đặc điểm của Vi diệu pháp, 2. liên hệ Vi diệu pháp với những gì chúng ta đã biết qua các lời dạy của Phật, và 3. gắn liền triết học Vi diệu pháp với tình trạng cư sĩ của chúng ta.
Trong suốt lịch sử Phật giáo, Vi diệu pháp (Abhidharma) rất được quý trọng. Trong kinh điển Pali Nam truyền, Vi diệu pháp được nói đến bằngsự tán dương và tôn kính đặc biệt. Vi diệu pháp là lãnh vực đặc biệt của các vị sư trưởng lão; ngay những người mới tu cũng được yêu cầu không được ngắt lời các Trưởng Lão khi họ đang tham gia thảo luận Vi diệu pháp. Chúng ta cũng thấy là Vi diệu pháp chỉ được giới thiệu cho những người học hỏi một cách thành thực để hiểu mục tiêu của việc hành trì Phật giáo, và rằng tri kiến về Vi diệu pháp chỉ được đề nghị cho các vị thầy dạy Pháp Phật.
Sự tôn quí Vi diệu pháp (Abhidharma) không những được thấy trong Nam truyền (Tiểu thừa) mà còn thấy trong các môn phái chánh thức khác của Phật giáo. Chẳng hạn, Ngài Cưu ma la thập (Kumarajiva), vị đại dịch giả Trung Á nổi tiếng nhờ dịch các tác phẩm Trung luận thuyết ra tiếng Trung hoa, đã tin tưởng mạnh mẽ rằng ông phải giới thiệu Vi diệu pháp cho người Trung hoa nếu ông muốn dạy họ triết học Phật giáo. Trong truyền thống Tây tạng, Vi diệu pháp cũng là một phần quan trọng của việc huấn luyện tu sĩ.
Trang 272. Tại sao Vi diệu pháp được xem trọng như vậy? Lý do chính là, tri kiến về Vi diệu pháp (Abhidharma), với sự hiểu biết giáo lý cơ bản tổng quát của nó, là điều cần thiết tuyệt đối để hoàn thành trí huệ, và sau đó cần thiết cho việc hoàn thành tự do, giải thoát. Dù thiền định rốt ráo hay sống một cuộc sống đạo hạnh, nếu không đủ hiểu biết thực tướng của sự vật, người ấy không thể nào hoàn thành tự do, giải thoát.
Một kiến thức về Vi diệu pháp là điều cần thiết để áp dụng sự hiểu biết thành ‘vô thường, vô ngã và không thật’ những điều mà ta đọc được trong Kinh Tạng (Sutra Pitaka) với từng kinh nghiệm trong cuộc sống hằng ngày. Tất cả mọi người có thể biết qua 3 điều trên qua việc đọc Kinh Tạng, nhưng việc áp dụng kiến thức đó thành sự thực trong đời sống hằng ngày của mình thử hỏi được bao nhiêu? Hệ thống giáo lý Vi diệu pháp cung cấp phương pháp, cơ chế để làm chuyện đó. Vì vậy, nghiên cứu Vi diệu pháp cực kỳ ích lợi cho việc hành trì của chúng ta.
Chúng ta hãy xét đến nguồn gốc và tính chất xác thực của Vi diệu pháp (Abhidharma). Nam truyền (Tiểu thừa) cho rằng đức Phật là điểm bắt đầu của triết học Vi diệu pháp và chính ông là người thầy đầu tiên của Vi diệu pháp vì vào đêm giác ngộ của ông, ông đã nhìn thấu bản chất của Vi diệu pháp. Theo lời kể lại, đức Phật đã bỏ ra đến tuần thứ tư sau lần giác ngộ để thiền định về Vi diệu pháp. Ðây là tuần lễ được đặt tên là ‘Nhà Cao Quí’. Sau đó trong hạnh nghiệp của ngài, người ta nói rằng đức Phật đã đi thăm cõi trời thứ 33, nơi mẹ ông ở đó, và dạy Vi diệu pháp cho mẹ và các thánh. Người ta nói rằng khi trở về trái đất, ông truyền những điều cốt lõi của những gì mà ông đã dạy cho ngài Xá lợi phất (Sariputta). Ðây không phải là ngẫu nhiên, vì Xá lợi phất là vị môn đồ giỏi nhất, nổi tiếng trí huệ.
Vì thế người ta cho rằng chính đức Phật là người mà chúng ta nợ qua nguồn cảm hứng giáo lý Vi diệu pháp. Nguồn cảm hứng giáo lý này được truyền cho những người có thiên tài về triết như Xá lợi phất, và nhờ sự cố gắng của các thiên tài này mà sự phác thảo chính thức cùng các nội dung của triết học Vi diệu pháp được thiết lập.
Trang 273. Chúng ta hãy tiếp tục xét đến cái nghĩa của chữ abhidharma. Nếu đọc kỹ Kinh Tạng, ta sẽ thấy từ này rất thường, với nghĩa tổng quát ‘quán tưởng Pháp’, ‘chỉ dẫn Pháp’, hay ‘thảo luận Pháp’. Ở một nghĩa đặc biệt hơn, abhidharma là ‘Pháp đặc biệt’, ‘Pháp cao hơn’ , ‘Pháp bổ túc’ . Dĩ nhiên, ở đây chúng ta dùng Pháp với nghĩa học thuyết hay giáo lý, chứ không phải nghĩa ‘pháp hiện tượng’ hay ‘pháp kinh nghiệm’ (trong trường hợp này nó không được viết hoa).
Một nghĩa kỹ thuật khác là từ abhidharma được dùng trong Kinh Tạng, và trong bối cảnh này dharma không còn có nghĩa ‘học thuyết’ nữa, mà có nghĩa là ‘hiện tượng’. Cách dùng kỹ thuật này được liên kết với một nhiệm vụ khác để cho dễ phân biệt. Theo cách dùng kỹ thuật này thì từ abhidharma có 5 nghĩa: 1. để định nghĩa các pháp; 2. để xác minh sự liên hệ giữa các pháp; 3. để phân tích các pháp; 4. để phân loại các pháp, và 5. để sắp xếp các pháp theo số thứ tự.
Kinh điển Phật giáo được chia thành 3 tạng: Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng (Sutra Pitaka, Vinaya Pitaka, Abhidharma Pitaka). Kinh Tạng được đặt tên thông thường là tạng của các kinh, Luật Tạng chứa đựng các luật lệ dành cho cộng đồng tu sĩ, và Luận Tạng thường được nói đến là các kinh sách triết học và tâm lý học Phật giáo. Ở đây tôi muốn xét đến sự liên hệ giữa Luận tạng và Kinh tạng. Có rất nhiều tài liệu Luận tạng trong Kinh tạng. Xin nhớ lại định nghĩa kỹ thuật của abhidharma mà ta vừa mới nói trên đây. Xin nhớ rằng, chúng ta tìm thấy trong Kinh tạng một số kinh có đặc tính Luận tạng: Tăng chi bộ Kinh (Anguttara Nikaya) đưa ra một số các điều dạy được sắp xếp theo số thứ tự; trong Kinh Sangiti và Kinh Dasuttara ngài Xá lợi Phật trình bày chi tiết về các điều dạy được sắp xếp theo số thứ tự; và Kinh Bất sinh (Anupada Sutta), trong đó cũng ngài Xá lợi Phật phân tích kinh nghiệm thiền định theo lối nói Luận tạng.
Trang 274. Làm sao ta phân biệt được Vi diệu pháp với các kinh khác? Ðể làm được việc này, ta cần xét đến nghĩa thứ hai của từ abhidharma, đó là, cách dùng nó với nghĩa ‘học thuyết cao hơn’. Trong kinh, đức Phật thường nói theo 2 quan điểm. Ðầu tiên, ông nói về bên ngoài tức các thực thể, sự vật, phẩm chất của chúng, sở hữu của thực thể, thế giới v.v...thí dụ, ông nói ‘Chính ta sẽ đi Uruvela’. Kế đến, đức Phật công bố với loại ngôn ngữ xác quyết là không có cái ‘tôi’và rằng tất cả sự vật không có cái ngã, vô tướng, vô tánh.
Rõ ràng 2 quan điểm nầy một bên là quy ước ( tục đế, vohara) và một bên là tuyệt đối (chơn đế, paramattha). Chúng ta có ngôn ngữ hằng ngày như ‘anh’ và ‘tôi’, và chúng ta cũng có ngôn ngữ triết học không thừa nhận cá tính, sự vật, v.v... Ðây là sự khác nhau giữa nội dung Kinh tạng và nội dung Luận tạng trong các lời giáo huấn của đức Phật. Nói chung, các Kinh dùng quan điểm quy ước, trong khi Vi diệu pháp (Luận) dùng quan điểm tuyệt đối. Tuy thế, có những đoạn trong các Kinh mô tả sự vô thường, vô ngã, không thật, yếu tố, âm uẩn..., và đó là quan điểm tuyệt đối. Trong bối cảnh này, có việc chia các kinh sách thành nghĩa hiển pháp, rõ ràng, đầy đủ, trực tiếp với nghĩa mật pháp, hiểu ngầm, gián tiếp.
Tại sao đức Phật lại chọn 2 quan điểm quy ước tục đế và tuyệt đối chơn đế này? Muốn tìm câu trả lời, chúng ta cần nhìn vào sở trường của ông là người thầy cùng cái kỹ năng chọn phương pháp dạy. Nếu đức Phật nói với tất cả những người nghe ông toàn những danh từ vô thường, vô ngã, không thật, yếu tố, âm uẩn... thì tôi không nghĩ cộng đồng Phật giáo lại có thể được lớn mạnh mau như vậy trong thế kỷ thứ VI trước Tây lịch. Ðồng thời, đức Phật biết rằng quan điểm chơn đế tuyệt đối cần thiết, không thể thiếu cho một sự hiểu biết sâu sắc về Phật Pháp, nên các lời dạy của ông quả thực chứa đựng ngôn ngữ đặc biệt để diễn tả quan điểm rốt ráo đó.
--o0o--