|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Cây Giác-Ngộ
The Tree of
Enlightenment.
-
Chương 32
- (Trang
276 - 283.)
-
Phương pháp luận
-
Methodology.
-
~~~~~~~
-
Trong chương này tôi sẽ thảo luận các phương pháp qua đó Vi diệu
pháp tìm ra sự thật các cá tánh của chúng ta và sự liên hệ con
người với thế giới chung quanh mình.
-
Có
hai cách mô tả con người và sự liên hệ của con người với thế
giới chung quanh, đó là diễn dịch (từ chung sang riêng) và qui
nạp (từ riêng sang chung). Phương pháp suy diễn (hay lý trí) bắt
đầu với ý tưởng trừu tượng và áp dụng ý tưởng đó vào kinh nghiệm
riêng cho mình. Phương pháp qui nạp (hay thực nghiệm) bắt đầu
với các kinh nghiệm. Bằng cách quan sát, phân tích, giải thích
và hiểu biết các sự kiện này, chúng ta dựng lên một hình ảnh về
chúng ta và thế giới chung quanh mình. Nói ngắn gọn, phương pháp
lý trí bắt đầu với cái trừu tượng và cố gắng đưa vào cụ thể;
trong khi phương pháp thực nghiệm bắt đầu với cái cụ thể và dựng
lên dần dần một hình ảnh thực tế.
-
Hệ
thống Vi diệu pháp (Abhidharma) dùng phương pháp qui nạp, khá
gần với phương pháp của khoa học, chỉ khác là khoa học hướng ra
phía ngoài và Vi diệu pháp nhắm vào bên trong và vào cái tâm.
Ðây là lý do tại sao phương pháp mà Vi diệu pháp dùng, đôi khi
được gọi là ‘hồi tưởng’, ‘phản bổn’ hay ‘quán chiếu’
(introspection). Nếu muốn dùng thuật ngữ thì ta gọi là ‘thiền
định’.
-
Nói rằng phương pháp của Vi diệu pháp (Abhidharma) là thực
nghiệm, thực tế, là ý muốn nói về kinh nghiệm tâm linh. Ðôi khi
chúng ta nói rằng thiền định giống như kính hiển vi dùng để nhìn
cái tinh thần ở bên trong. Nó điều tra kỹ lưỡng các sự kiện về
kinh nghiệm. Phương pháp ‘hồi tưởng’ của Vi diệu pháp có được
các kết quả vì nhờ thiền quán, nó giúp các tiến trình tâm linh
hội tụ lại một điểm, từ đó chúng ta có thể thấy và hiểu đúng các
kết quả đó. Về mặt này, có sự song hành đáng chú ý giữa Vi diệu
pháp (Abhidharma) và khoa học. Trong khoa học, khi muốn tìm hiểu
một sự thay đổi đã xãy ra như thế nào thì chúng ta giảm hoặc
tăng tốc độ nó lên. Trong thiền định Vi diệu pháp, chúng ta cũng
giảm hoặc tăng tốc độ các tiến trình tâm linh hầu giúp ta có thể
thấy những gì thực sự đang xãy ra. Nếu chúng ta có khả năng thấy
được một đời người chỉ trong thời gian năm phút, nó sẽ cho chúng
ta một sự hiểu biết to lớn vào sự sống của vũ trụ. Tuy nhiên, vì
việc này thường khó có thể có được, nên chúng ta phải làm cho
chậm lại. Ðây là căn bản của thiền định Vi diệu pháp.
-
Trang 285. Ðọc trong các kinh sách của Vi diệu pháp (Abhidharma)
nói về các yếu tố tinh thần và những điều tương tự có thể là
nhạt nhẽo vì chỉ tuyền lý luận, nhưng thực sự chúng là những dữ
kiện được nghiên cứu từ kinh nghiệm được viết ra một cách rất
cẩn thận. Hoàn toàn không dựa vào thuần lý luận, kinh Vi diệu
pháp là kết quả của sự phân tích kinh nghiệm cẩn thận và hồi
tưởng chặt chẻ. Các kinh sách đó đã nói rằng, nếu bạn có nghi
ngờ chút nào về cách nghiên cứu của Vi diệu pháp thì tốt hơn hết
là bạn nên ngồi thiền để đạt được kinh nghiệm thực tế cho chính
bạn. Ðây là một sự thực, vì trong các lời dạy của Phật giáo,
việc hiểu biết trực tiếp hay gián tiếp là điều cần thiết.
-
Với cái nhìn Vi diệu pháp, chắc chắn hiệu quả sẽ nhiều hơn nếu
hình ảnh ta đạt được là cái hình ảnh trực tiếp do chính chúng ta
hoàn thành qua thiền quán. Nhưng dù cho đó là hình ảnh gián tiếp
qua việc nghiên cứu, nó vẫn có ích cho chúng ta, bởi vì khi
chúng ta tọa thiền hẵn chúng ta đã hiểu biết chút ít về tâm linh
với hình ảnh tổng quát mà ta cố gắng chú tâm vào. Trong ý nghĩa
này việc nghiên cứu Vi diệu pháp vẫn hữu ích trong việc đem lại
kết quả hiểu biết gián tiếp về chính chúng ta và thế giới chung
quanh theo cái nhìn Vi diệu pháp.
-
Trang 286. Có hai cách nghiên cứu Vi diệu pháp: 1. phân tích và
2. tổng hợp (hay liên kết). Căn bản cho 2 phương pháp này nằm
trong các kinh sách đầu và cuối của Luận Tạng (Abhidharma
Pitaka), quyển Phân Loại Pháp (Dhammasangani, Classification of
Factors) và quyển Luận Nhân Quả (Patthana, Book of Causal
Relations). Ðây là 2 quyển quan trọng nhất của Vi diệu pháp.
Chính qua phương pháp phân tích và tổng hợp mà Vi diệu pháp đã
cho ta một sự hiểu biết căn bản về vô ngã và tánh không.
-
Trước hết ta hãy xét phương pháp phân tích, rồi đến phương pháp
tổng hợp và sau cùng kết hợp cả hai mới hiểu hết sự lợi ích toàn
bộ phương pháp điều tra của Vi diệu pháp. Trong Kinh ‘Các Câu
hỏi của vua Mi lan đà’ (Milinda Panha), người ta nói rằng Phật
đã hoàn thành một công việc rất khó khăn: Ðức Na Tiên (Nagasena)
trả lời với vua Mi lan đà rằng: ‘‘Nếu một người đi tàu ra biển,
lấy một nhúm nước biển và phải nói với bạn nước nào là nước sông
Hằng, nước nào là nước sông Yamuna, nước nào là nước ở các sông
khác, điều này chắc chắn sẽ rất khó làm. Cũng như vậy, Phật đã
lấy một kinh nghiệm sắc tướng, phân tích kinh nghiệm tâm thức
đơn lẻ ấy thành từng phần khác nhau: sắc, thọ, tưởng, hành,
thức.
-
Phân tích là sự mổ xẻ tỉ mỉ một toàn thể, tưởng như có vẻ đồng
nhất, thành từng phần cấu tạo nó. Sự phân tích này không chỉ áp
dụng cho cái ngã, như chúng ta thấy trong khi phân tích kinh
nghiệm riêng tư, mà còn cho các ngoại vật: giống như ta đập vỡ
ra các hiện tượng phía ngoài thành các bộ phận cấu tạo ra chúng.
Chẳng hạn, chúng ta phá cái bàn ra thành chân bàn, mặt bàn,
v.v...và đi xa hơn nữa, thành những phân tử và nguyên tử của các
thành tố khác nhau để hợp lại thành cái bàn.
-
Mục đích của sự phân tích tỉ mỉ một toàn thể là để xới lên sự
dính mắc vào các hiện tượng nội vi và ngoại lai. Một khi chúng
ta nhận ra được rằng cái ngã trông có vẻ nhất thể, thực sự chỉ
là một tập hợp của các thành phần, sự dính mắc của chúng ta vào
ý niệm cái ngã đó sẽ trở nên yếu đi; tương tự như vậy, một khi
chúng ta nhận ra rằng các hiện tượng bên ngoài chỉ là những tập
hợp của từng thành phần riêng rẻ nhỏ hơn, thế là sự dính dáng
với chúng sẽ yếu dần. Ta được cái gì từ tiến trình phân tích
trên? Về phương diện nội tại, đây là những dịp cho tâm thức ta
làm việc; về phương diện ngoại lai, chúng ta chỉ còn với các
nguyên tử. Nếu kết hợp được 2 cách này với nhau, chúng ta còn
lại các pháp của kinh nghiệm.
-
Trang 287. Các pháp của kinh nghiệm dù thuộc về vật chất hay
tinh thần tự chúng không đem lại cho chúng ta sự hiểu biết sau
cùng của thực tướng, bởi vì chúng ta chỉ còn lại những ‘khoảnh’
tâm thức và các nguyên tử vật chất--tức các pháp của kinh
nghiệm. Những pháp này không còn có thể giảm bớt được nữa cho dù
chúng ta còn ở trong tiến trình mổ xẻ tỉ mỉ lâu mau hay nhiều
ít. Mặc dầu chúng ta đạt được những phần nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa,
chúng ta chỉ còn lại với một hình ảnh thực tướng được làm vở ra
thành những mảnh vụn nhỏ do kết quả của việc phân tích tỉ mỉ.
Ðiều này tự nó không phải là một hình ảnh thực tướng hoàn toàn
và chính xác.
-
Ðể
đạt được hình ảnh thực tướng sau cùng, chúng ta cần cặp đôi
phương pháp phân tích với phương pháp tổng hợp hay liên hệ. Ðó
là lý do tại sao một đại học giả Phật tử mà cũng là một vị
thánh, tức Bồ tát Long Thọ, có lần đã bày tỏ sự tôn kính đức
Phật như là ‘vị thầy của lý đuyên khởi’. Mục đích của lý duyên
khởi là thanh tịnh hóa sự vọng động của tư tưởng. Ðây là chỉ dấu
cho sự quan trọng của phương pháp tổng hợp, tương tác nhau trong
việc muốn hiểu tính chất thực sự của các sự vật. Ðấy cũng là lý
do tại sao các học giả đã chú tâm vào quyển ‘Liên hệ Nhân Quả’.
Nó cung cấp cái phân nửa còn lại của phương pháp điều tra Vi
diệu pháp.
-
Qua phân tích, chúng ta biết được ‘tính không cơ sở’ (hay không
thật) của cá tính và hiện tượng (bởi vì chúng ta hiểu được rằng
chúng là do các thành phần hợp lại với nhau). Vì thế, qua tiến
trình điều tra liên hệ tổng hợp, chúng ta đạt được cái không của
cá tính và cái không của hiện tượng (bởi vì chúng ta thấy rằng
các thành phần cấu tạo đều phải ăn chịu và tương duyên với
nhau). Chúng ta hiểu được ‘tính không cơ sở’ và tánh không bằng
cách nhắm vào việc dạy và học lý duyên khởi.
-
Trang 288. Nếu xét một sự vật, chúng ta có thể thấy là một cá
tính hay một ngoại vật là do các thành phần cấu tạo chúng tùy
thuộc vào nhau cho sự hiện hữu của chúng. Chẳng hạn, một hiện
tượng đơn độc, như cái bàn, trông có vẻ là một nhưng thật ra gồm
nhiều thành phần cấu tạo (chân bàn, mặt bàn, v.v...) chung hợp
với nhau cho sự hiện hữu của ‘cái bàn’. Giống như vậy, cái bàn
tùy thuộc vào các ‘nhân’ có trước (cây, sắt, người thợ làm cái
bàn...) và các ‘duyên’ theo sau (như cái sàn mà cái bàn nằm ở
đó).
-
Chúng ta cũng có thể khảo sát tỉ mỉ cái ý tưởng tương hợp trong
ba yếu tố: thời gian, không gian và nghiệp. Chẳng hạn, cái bàn
tùy thuộc vào thời gian ở chỗ trước khi có cái bàn, một số các
diễn biến đã xãy ra--việc cắt gỗ, hành động ráp cái bàn,
v.v...Chuỗi diễn biến này dẫn đến việc xuất hiện cái bàn. Cũng
giống như vậy, cái bàn có ý nghĩa về phương diện không gian ở
chỗ là nó nằm ở trên sàn, v.v...Cái yếu tố thứ ba của tính tương
duyên nằm ra ngoài thời gian và không gian. Nó được giải thích
bằng nghiệp. Nghiệp có kết quả dựa vào thời gian và không gian,
tuy thế nó không hiện thẳng vào thời gian và không gian. Qua
nghiệp, một hành động được làm ở một thời điểm trong thời gian
và không gian có thể có kết quả của nó ở đây và bây giờ. Sự ăn
chịu với nhau vì thế không chỉ thuộc về thời gian và không gian
mà nó còn có một ý nghĩa nghiệp quả nữa.
-
Chúng ta hãy lấy hai thí dụ để thiết lập một cách chắc chắn hơn
những gì chúng ta muốn nói bằng phương pháp phân tích và tổng
hợp. Hãy lấy chiếc xe ngựa chiến đấu thời cổ, đó là một hiện
tượng, một thực thể có thể nhận ra được. Chúng ta áp dụng phương
pháp phân tích vào chiếc xe bằng cách vỡ toan ra thành các thành
phần cấu tạo nhỏ: bánh xe, trục, thân, càng, v.v...Sự áp dụng
phương pháp tổng hợp nhìn vào cùng một chiếc xe về phương diện
các món đồ thừa vụn vặt, hành động của những người làm xe xây
dựng nó v.v.. Một cách khác, chúng ta có thể lấy những thí dụ cổ
điển về ngọn lửa của một cây đèn, nó tùy thuộc vào dầu đốt và
tiêm mồi. Còn về trường hợp một cái mầm thì tùy thuộc vào hạt
giống, đất, ánh sáng,v.v...
-
Trang 289. Các phương pháp phân tích và tổng hợp cho ta một hình
ảnh tuyệt đối về các sự vật đúng như thực tướng của chúng. Ðó là
nhờ Vi diệu pháp phân tích và điều tra cẩn thận tỉ mỉ. Chúng ta
dùng phương pháp phân tích để làm vỡ ra thành từng phần cấu tạo
của một vật mà ta tưởng là đã hoàn chỉnh, không phân ra được.
Chúng ta tiếp tục dùng phương pháp tổng hợp để chứng tỏ các
thành phần cấu tạo không hiện hữu độc lập và tách rời nhau mà là
tùy thuộc vào những yếu tố khác để hiện hữu.
-
Có
nhiều chỗ trong giáo lý nhà Phật mà các phương pháp điều tra đã
được dùng một cách đơn lẻ và kế đó tổng hợp lại. Chẳng hạn,
chúng ta áp dụng chánh niệm đầu tiên đối với các hiện tượng nội
tại, kế đến là các hiện tượng ngoại lai, và cuối cùng cả hai.
Bằng cách phân tích và liên hệ với nhau, chúng ta khắc phục được
nhiều vấn đề. Chúng ta không những khắc phục được cái ý tưởng về
cái ngã, vật chất và cá tính mà chúng ta còn khắc phục được các
vấn đề đó xãy ra, nếu chúng ta tin vào sự hiện hữu độc lập của
các yếu tố tách rời và những ý tưởng như hiện hữu - phi hiện
hữu, giống nhau - khác nhau.
-
Các phương pháp phân tích và tổng hợp thực sự phản ảnh trong quá
trình biến đổi của bộ óc. Các nhà chuyên khoa về thần kinh học
đã khám phá rằng bộ óc được chia ra thành 2 bán cầu, phân nửa
vận hành theo lối phân tích và phân nửa kia là tổng hợp. Nếu hai
nhiệm vụ này không hòa hợp, không cân bằng thì cá tính và các
xáo trộn sẻ xãy ra. Người nào quá phân tích sẽ có khuynh hướng
bỏ qua khía cạnh trực giác, năng động, dễ thay đổi của cuộc đời;
còn người nào quá tổng hợp sẽ có khuynh hướng thiếu sự chính
xác, rõ ràng và chú tâm. Vì thế ngay trong các cuộc sống riêng
tư, chúng ta cần kết hợp 2 lối suy nghĩ phân tích và tổng hợp.
-
Các khía cạnh tâm lý và não bộ của hai phương pháp này cũng hiện
diện trong việc phát triển triết học và khoa học Tây phương.
Phương pháp phân tích trong triết học đã để lại cho ta các hệ
thống thực tế, đa nguyên và cực nhỏ như triết lý của Bertrand
Russell. Cũng như vậy, với phát triển mới nhất của khoa học, như
thuyết lượng tử nói về thực tại, một quan điểm tổng hợp hơn đã
chiếm phần ưu thế. Khi chúng ta xét đến lịch sử triết học và
khoa học của Tây phương, chúng ta có thể thấy rằng một trong hai
phương pháp điều nghiên này đã thắng thế hoặc lúc này hay lúc
khác.
-
Có
thể chúng ta đang đến một thời điểm có thể kết hợp cả hai phương
pháp ngay trong khoa học và triết học Tây phương. Có thể chúng
ta đã đạt được một quan điểm thực tại không quá khác với cái của
Vi diệu pháp qua tiến trình quán tưởng nội tâm--một quan điểm
thực tại có cả hai phần phân tích (ở chỗ là nó không chấp nhận
cái toàn thể thuần nhất) và tổng hợp (ở chỗ là nó không chấp
nhận ý tưởng tách rời của các phân tử nhỏ). Chúng ta sẽ có một
quan điểm thực tại uyển chuyển và ‘để ngỏ’, trong đó các kinh
nghiệm đau khổ có thể chuyển biến năng động thành kinh nghiệm
không còn đau khổ nữa.
--o0o--
|
|