|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Cây Giác-Ngộ
The Tree of
Enlightenment.
-
Chương 33
- (Trang
291 - 297.)
-
Phân tích (Tâm) Thức
-
Analysis of Consciousness.
-
~~~~~~~
-
Vì
tầm quan trọng của bài này, tôi xin dành 3 chương phân tích
(tâm) thức trong ngành triết học Vi diệu pháp (Abhidharma).
Riêng chương này, tôi xét đến vài hệ thống phân loại (tâm) thức
và đặc biệt xét đến thức thuộc dục giới.
-
Ðể
hiểu tại sao chúng ta bắt đầu việc phân tích kinh nghiệm Vi diệu
pháp với thức, tôi xin nhắc lại, mối quan tâm hàng đầu của triết
học Phật giáo nói chung và của Vi diệu pháp nói riêng là việc
chữa bệnh. Ðiểm bắt đầu của tư tưởng Phật giáo là sự có mặt của
đau khổ. Ðau khổ là vấn đề của (tâm) thức; có thức mới có đau
khổ. Thức lệ thuộc vào đau khổ bởi vì vô minh, hay sự không
biết, nó chia thức thành chủ thể - đối tượng, ta - người (tức là
các đối tượng và những người khác ở chung quanh ta).
-
Trong Phật giáo, vô minh được định nghĩa là quan niệm thường
hằng, độc lập của một cái tôi và của các đối tượng. Một khi
chúng ta có sự phân chia (tâm) thức này thành cái tôi và
cái-khác-tôi là chúng ta có đau khổ, bởi vì sự căng thẳng được
tạo ra giữa 2 cái đó. Ta cũng có tham ái khi cái-khác-tôi hổ trợ
cái tôi và giận buồn khi cái-khác-tôi không giúp cái tôi.
-
Sự
phân biệt giữa cái tôi (chủ thể) và cái-khác-tôi (đối tượng) là
căn bản của nguyên nhân đau khổ. Một sự phân biệt như vậy có thể
là do vô minh--lòng tin vào một cái ngã có thực, độc lập và tin
vào sự đối lập với cái-khác-tôi.Vì thế không ngạc nhiên là đầu
tiên Vi diệu pháp lại quay qua việc phân tích phạm vi chủ thể và
phạm vi đối tượng. Thực vậy, khi xét đến điều dạy về ngũ uẩn (5
sự hợp thành làm người), ta thấy rằng sắc (rupa) là yếu tố đối
tượng, trong khi danh (nama), thức và các uẩn tinh thần khác là
thọ, tưởng, hành, là yếu tố chủ thể.
-
Trang 292. Trước khi xét đến việc phân chia này ảnh hưởng như
thế nào với việc phân tích thức, ta phải hiểu rõ những gì nó
muốn nói. Trong Phật giáo, việc phân chia này không có nghĩa là
cặp nhị nguyên tinh thần - vật chất không giảm thiểu được. Phật
giáo không quan tâm đến tinh thần - vật chất là những sự kiện
siêu hình tuyệt đối mà xem chúng là những gì được kinh nghiệm.
Tinh thần - vật chất là những hình thức của kinh nghiệm chứ
không phải là bản thể. Ðây là lý do tại sao Phật giáo là một
triết học hiện tượng học hơn là một triết học bản thể học và tại
sao sự phân chia tinh thần - vật chất trong Phật giáo là một sự
phân chia có tính cách hiện tượng.
-
Có
hai hệ thống phận loại thức trong Vi diệu pháp: khách quan và
chủ quan. Phân loại khách quan nói đến các đối tượng của thức,
phân loại chủ quan nói đến bản thể của thức.
-
Phân loại khách quan chủ yếu xem cái hướng mà thức đi tới. Hệ
thống khách quan chia ra 4 loại thức: 1. thức dục giới: thuộc
phạm vi giác quan, hướng về thế giới hưởng thụ của giác quan
(kamavachara); 2. thức hướng về cõi sắc giới: thuộc phạm vi sắc
tướng (rupavachara); 3. thức hướng về cõi vô sắc giới
(arupavachara); và 4. thức hướng về niết bàn (lokuttara).
-
Ba
loại thức đầu là thức thế gian (lokiya) và liên quan đến cõi
giới của các sự vật có điều kiện hay tương duyên với nhau. Loại
thứ tư là thức siêu thế gian (alokiya chitta), nói đến hướng
siêu việt của thức (lokuttara) và là cái thức của Bốn Quả Thánh:
Tu đà hoàn (do âm Nam Phạn là Sotàpanna, Nhất lưu, The
stream-winner), Tư đà hàm (Sakadàgàmi, Trở lại làm người một
lần, Once-Returner), A na hàm (Anàgàmi, Không trở lại làm người,
Non-Returner) và A la hán (Arahant, Vô sanh, Vị giải thoát, The
Liberated or Worthy One) (xem thêm ở chương 35).
-
Trang 293. Ðối tượng của giác quan thuộc cõi dục. Nó là vật chất
và hữu hạn; đối tượng của cõi sắc thì không thuộc vật chất nhưng
vẫn hữu hạn; đối tượng của cõi vô sắc thì không thuộc vật chất
và không hữu hạn. Tất cả ba loại thức này đều hướng tới các đối
tượng thuộc thế gian. Có sự hợp nhất và thuần nhất trong một đối
tượng của mỗi thức. Ðối tượng của thức thuộc phạm vi lạc thú
giác quan thì sinh sôi nẩy nở và phân biệt nhất, còn những loại
thức thuộc về sắc và vô sắc thì ít tăng nhanh hơn. Loại thức thứ
tư thì hướng về loại đối tượng siêu việt.
-
Bây giờ chúng ta hãy xét đến thức được phân loại theo chủ quan.
Các thức này chính là bản thể của chính cái thức chủ quan và
cũng được chia thành 4 loại: thức thiện (kusala), thức bất thiện
(akusala), thức dị thục (vipaka), và thức không gây quả báo hay
chỉ vận hành thôi (kiriya).
-
Các loại thức thiện và bất thiện là những loại thức năng động và
có tiềm năng gây nghiệp quả. Các loại thức dị thục và thức vận
hành thì không năng động, không gây nghiệp quả. Loại thức dị
thục không cần đem lại kết quả vì chính nó là kết quả, trong khi
loại vận hành không gây quả báo vì tự nó cạn kiệt trong chính
hành động của nó.
-
Vì
thế chúng ta có thể xếp các loại hành động thiện và bất thiện là
loại thức năng động tạo nghiệp quả, và 2 loại còn lại là loại
thức thụ động, không có tiềm năng gây nghiệp quả.
-
Trang 294. Ta thử xét thêm ý nghĩa và sau đó là định nghĩa các
loại thức thiện và thức bất thiện. ‘Thiện’ có nghĩa là ‘những gì
hướng về sự chữa lành bệnh’ hay ‘những gì hướng đến các kết quả
như ý’. Ở đây một lần nữa ta lại được nhắc nhở về mối quan tâm
chữa bệnh của triết học Phật giáo. ‘Bất thiện’ có nghĩa là
‘những gì hướng về các kết quả không như ý’ hay ‘những gì hướng
về đau khổ mãi mãi’. ‘Thiện, Bất thiện’ cũng liên hệ đến các
thức ‘khéo, không khéo’, ‘thông minh, không thông minh’.
-
Ðể
cho tiện, đôi khi ta cũng nói thiện-bất thiện là tốt-xấu, đạo
đức-không đạo đức. Thiện có thể xem như là ba nguyên nhân gốc
của ‘không tham, không sân, không si’ và bất thiện là ‘tham,
sân, si’. Tham, sân, si là những hình thức của vô minh gốc. Nó
là quan niệm sai lầm của một cái ngã đối lập với cái vô ngã. Vô
minh có thể ví như rễ cây mà tham sân si là cành lá của nó.
-
Thức bất thiện gây nghiệp quả bất thiện vì bị ảnh hưởng bởi một
trong ba nguyên nhân bất thiện. Thức thiện gây nghiệp quả thiện
vì được ảnh hưởng bởi một trong ba nguyên nhân thiện. Các loại
thức thiện và bất thiện thì năng động, gây ra nghiệp quả và
chúng được theo sau bởi loại thức thứ 3 gây kết quả do kết quả
chín mùi của các hành động thiện và bất thiện đó. Loại thứ 4
không năng động hay chỉ vận hành thôi thì nói đến những hành
động không gây ra thêm nghiệp quả, đó là các hành động của những
bậc đã giác ngộ--như chư Phật và A la hán--và những việc làm có
tính cách bàng quan và trung tính.
-
Trang 295. Ngoài hai hệ thống tổng quát để phân loại thức--khách
quan, tức phân loại thức theo đối tượng, phương hướng, và chủ
quan, tức phân loại thức theo bản thể của nó-- chúng ta có một
hệ thống thứ ba mà thức được phân biệt theo cảm thọ, kiến thức
và hành uẩn.
-
Nói về phân loại theo cảm thọ, mỗi thức dự phần vào một trong
những cảm tính sau: tán thành, không tán thành và bàng quan. Tư
tưởng tán thành có hai mặt: vật chất và tinh thần; loại không
tán thành cũng có hai mặt vật chất và tinh thần. Riêng thức bàng
quan, chủ yếu thuộc về mặt tinh thần, không có mặt vật chất.
-
Nói về phân loại theo kiến thức, ta có ba phần: phần thức kèm
theo kiến giải về bản thể của đối tượng, phần thức không kèm
theo kiến giải về bản thể của đối tượng và phần thức kèm theo
kiến giải sai lầm về bản thể của đối tượng.
-
Cuối cùng, nói về phân loại theo hành uẩn, ta có hai mặt: loại
một là những lúc mà thức có chủ ý và loại hai là những lúc mà
thức bị động.
-
Bây giờ chúng ta hãy xét các thức thuộc phạm vi giác quan
(kamavachara). Có 54 loại thức thuộc nhóm này, lần lượt được
chia ra 3 nhóm:
-
Nhóm 1 bao gồm 12 yếu tố năng động gây nghiệp quả và có khả năng
gây nghiệp quả không lành mạnh. Mười hai yếu tố này bị ảnh hưởng
bởi 1 trong 3 điều kiện bất thiện là tham, sân, si.
-
Trang 296. Nhóm 2 gồm 18 thức phản ứng thụ động. Chúng có thể
được chia ra thành loại thức dị thục và loại không quả báo. 15
trong số 18 thức này là có gây kết quả (dị thục), ám chỉ sự tán
thành hay không tán thành, kết quả của những yếu tố thiện và bất
thiện kinh nghiệm qua ngũ quan và giác quan tâm linh thứ sáu
(tức ý thức). Ba thức còn lại không gây quả báo, không gây hậu
quả từ các thức năng động thiện hay bất thiện mà chỉ vận hành
thực dụng thôi.
-
Loại thứ ba bao gồm 24 thức thiện có tính cách năng động theo
nghiệp quả, có khả năng gây nghiệp quả và bị ảnh hưởng bởi tính
‘không tham, không sân và không si’.
-
Vì
thế, trong nhóm thức thuộc phạm vi giác quan, chúng ta có 54
loại thức có thể phân tích theo chủ động và thụ động, thiện và
bất thiện, gây kết quả (dị thục), không gây quả báo (thực dụng)
và theo cảm thọ, kiến thức hay hành uẩn.
-
Trước khi kết luận tôi muốn bỏ thêm chút thời giờ nói về tính
chất đa nghĩa của các từ trong Vi diệu pháp nói riêng và trong
Phật giáo nói chung. Các thành phần của thức được kê ra trong Vi
diệu pháp, các từ ngữ được dùng để mô tả chúng đều có giá trị, ý
nghĩa và nhiệm vụ riêng. Không hiểu được việc này sẽ dẫn đến sự
mơ hồ, mập mờ về sự phân loại của Vi diệu pháp.
-
Vào những năm đầu tiên của Vi diệu pháp, đã có những nhà phê
bình không hiểu được rằng các thành phần của thức được phân loại
theo ý nghĩa thực dụng, không gây quả báo chứ không có tính cách
bản thể. Nó có nghĩa là, nếu quan sát các thành phần của thức
được nói đến trong Vi diệu pháp, bạn sẽ tìm thấy cùng một thành
phần xãy ra dù được phân loại khác nhau. Cái kết luận đầu tiên
là có sự lập lại nhiều lần trong tài liệu Vi diệu pháp, nhưng
đây không phải là ý chính. Việc có cùng một thành phần trong
nhiều loại khác nhau là do sự vận hành khác nhau trong từng loại
đó.
-
Trang 297. Một số người phản bác tập ‘‘Phân Loại các Pháp’’
(Dhammasangani) về việc lập đi lập lại các thức. Câu trả lời cho
sự phản bác đó là: một vị vua thu thuế dân không căn cứ vào cá
nhân mà vào lợi tức của họ. (Ðiều này đúng cho trường hợp thế
giới ngày nay, khi dân chúng trả thuế tính trên căn bản là một
sở hữu chủ bất động sản hay là công nhân đi làm lảnh lương hoặc
là người kiếm được tiền từ các cổ phần.) Cũng vậy, các thức
trong Vi diệu pháp hiện diện trong các loại khác nhau là tùy
trường hợp. Vai trò của nó mới là quan trọng chứ không phải là
bản thể của nó.
-
Ðây cũng là điều đúng cho các từ ngữ. Ta cần hiểu các từ ngữ
trong phạm vi bối cảnh--tức cách chúng được dùng--chứ không phải
do các định nghĩa cứng nhắc, có tính cách bản thể. Lấy thí dụ
chữ đau khổ (dukkha) và hạnh phúc (sukha). Trong khi phân tích
các thức, chúng có nghĩa là đau khổ về vật chất và hạnh phúc về
vật chất. Tuy thế, khi chúng ta nói về dukkha trong bối cảnh của
tập đế, nó không chỉ bao gồm 4 đau khổ về vật chất mà có cả 4
đau khổ về tinh thần. Cũng vậy, sankhara có nghĩa là ‘hành’ cho
một bối cảnh nào đó mà còn có nghĩa là cho ‘tất cả những vật ức
chế chung quanh nó’ nữa.
-
Vì
thế khi nghiên cứu Vi diệu pháp, ta cần hiểu các từ ngữ trong
bối cảnh. Nếu luôn nhớ được điều này, chúng ta sẽ chấp nhận được
tinh thần hiện tượng học của triết lý Phật giáo và sẽ thấy nó dễ
dàng hơn khi tiếp cận với những gì đã được nói. Nếu không, chúng
ta sẽ bị trói buộc vào các định nghĩa cứng nhắc, không hữu hiệu
của các từ ngữ cũng như vào các ý tưởng cứng nhắc, không giúp
ích gì cho các thành phần trong kinh nghiệm.
--o0o--
|
|