|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Cây Giác-Ngộ
The Tree of
Enlightenment.
-
Chương 35
- (Trang
306 - 312)
-
Siêu thức
-
Supramundane consciousness.
-
~~~~~~~
-
Dựa vào tập sách Luận Tạng đầu tiên ‘Phân loại các Pháp’
(Dhammasangani), trong chương kết thúc này, tôi xin phân tích
các loại thức thuộc về ‘siêu thức’ (alokiya chitta). Ðây là cách
phân loại cuối cùng của 4 cách phân loại các thức (xin xem từ
đầu Chương 32).
-
Có
hai cách phân biệt các loại thức siêu thế gian với các loại thức
thế gian (dục giới, sắc giới và vô sắc giới). Hướng phân biệt
đầu tiên là dựa vào sự quyết định và phương hướng. Thức thế gian
thì đã bị định nghiệp, không định hướng, thuộc vào nghiệp lực và
cơ duyên, trong khi siêu thức có tính cách đang được quyết định,
có thể hướng về một mục tiêu và không tùy thuộc vào các lực bên
ngoài nó. Siêu thức là đang được định hướng, chính yếu là ở trí
huệ chứ không phải ở định nghiệp.
-
Cách phân biệt thứ hai: trong khi đối tượng của các loại thức
thế gian là những hiện tượng đã bị tác động, thì các đối tượng
của các loại thức siêu thế gian là những hiện tượng không bị ảnh
hưởng gì cả, đó là niết bàn. Ðức Phật nói đến niết bàn là một
tình trạng vô sanh và vô tác. Một tình trạng như vậy là điều cần
thiết để thoát ra khỏi thế giới đau khổ và bị tác động. Với ý
nghĩa này, đối tượng của siêu thức là vô tác và không còn bị ảnh
hưởng nữa.
-
Một cách tổng quát, chúng ta có thể chia ra các loại thức siêu
thế gian thành 4 loại chủ động và 4 loại thụ động. Thường thì
các loại thức hoặc chủ động hoặc thụ động. Loại thụ động có thể
gây ra kết quả (reactive, resultant) hoặc bất động hay thực dụng
(inactive, functional). Trong siêu thức không có các loại thức
bất động bởi vì ở đây các loại thức là ‘đang được quyết định’
chứ không phải là ‘đã bị định sẵn’.
-
Trang 307. Tám loại căn bản siêu thức này, 4 chủ động và 4 thụ
động, tương đương với Tứ Thánh Quả: Tu đà hoàn (Sotapanna), Tư
đà hàm (Sakadagami), A na hàm (Anagami), và A la hán (Arhat, Vô
sanh). Ở đây tôi phải phân biệt rõ thêm giữa thức thế gian và
thức siêu thế gian. Trong thức thế gian, các loại chủ động, gây
kết quả có thể bị gián đoạn qua một thời gian tương đối dài: nó
phải đợi đến một thời gian khá lâu sau đó trong hiện tại và có
thể cả kiếp sau mới có thể gây ra quả. Chẳng hạn, trong trường
hợp của thức sắc giới và vô sắc giới, phải đợi đến một đời sau
đó, thức kết quả mới xảy ra. Còn trong các loại thức siêu thế
gian, thức kết quả (hay thành tựu) theo ngay sau thức chủ động
(hay con đường đạo) ngay sau đó.
-
Tám loại thức siêu thế gian có thể trở thành 40 bằng cách kết
hợp từng cái một trong 8 cái với từng cái một trong Ngũ Ðịnh sắc
giới. Bốn loại siêu thức chủ động (tức các thức tu cho quả Tu đà
hoàn, v.v...) kết hợp cùng với thức thuộc định đầu tiên..., nhờ
thế có 20 loại siêu thức chủ động cùng với quả Tứ thánh và 5
định sắc giới. Cũng vậy, 4 loại siêu thức gây kết quả (thức quả
của Tu đà hoàn...) kết hợp với thức thuộc về định đầu tiên...,
nhờ thế có 20 loại siêu thức gây kết quả và tất cả là 40.
-
Trang 308. Ðiều này xảy ra như sau: dựa vào định đầu tiên của
sắc giới, con đường đạo và thành quả thức của các vị Tu đà hoàn
xuất hiện. Cũng vậy, căn cứ vào các định thứ hai, thứ ba, thứ tư
và thứ năm, con dường đạo và thành quả thức của các vị Tu đà
hàm, A na hàm và A la hán xuất hiện. Vì vậy thức thuộc về thức
siêu thế gian được phát triển dựa vào các định khác nhau.
-
Chúng ta hãy tiếp tục định nghĩa thêm 4 giai đoạn giác ngộ Sơ
quả Tu đà hoàn, Nhất Lai Tu đà hàm, Bất Lai A na hàm và Vô sanh
A la hán. Sự tiến bộ của một bậc thánh qua bốn giai đoạn giác
ngộ được đánh dấu bởi khả năng khắc phục một số kiết sử (kiết là
trói buộc, sử là sai khiến; fetters) của người ấy. Có tất cả 10
kiết sử (samyojana.P) ‘trói buộc sai khiến’ ta vào thế giới này.
Ta cần phải đoạn diệt để có thể hoàn thành giải thoát.
-
Ðắc Sơ quả đánh dấu việc trừ được 3 trói buộc sai khiến (kiết
sử). Cái trói buộc sai khiến ta đầu tiên là sự tin vào một cái
ta hiện hữu độc lập, thường hằng (sakkaya ditthi) tức là, lấy
sắc và tâm (thọ tưởng hành thức) của cái ta làm cái ngã. Vì thế
không phải là ngẫu nhiên khi nói rằng các loại thức thế gian bị
ảnh hưởng bởi 5 uẩn, trong khi các loại siêu thức lại không bị.
Khắc phục được kiết sử thứ nhứt đánh dấu con đường đi của một
người từ tình trạng người trần tục lên quả vị thánh.
-
Kiết sử thứ hai được khắc phục bởi Vị Tu Ðà Hoàn là nghi hoặc
(vichikichchha). Chủ yếu là nghi hoặc Phật, Pháp, Tăng, nghi cả
về giới luật và thuyết duyên khởi.
-
Kiết sử thứ ba là tin về luật lệ và nghi thức
(silabbataparamasa,P., Giới thủ kiến). Kiết sử này thường bị
hiểu lầm, đặc biệt nói đến các sự hành trì của những người ngoại
đạo; họ tin rằng chỉ cần gắn bó vào các qui tắc của giới luật và
các nghi thức khổ hạnh cũng đủ dẫn họ đến giải thoát.
-
Trang 309. Khi ba điều trói buộc sai khiến này được khắc phục,
ta bước vào dòng thánh (nhập lưu) và sẽ hoàn thành giải thoát
không quá bảy kiếp người. Con người sẽ không bị tái sinh vào các
hoàn cảnh khổ sở, bất hạnh (tức các cõi địa ngục, ngạ quỹ, súc
sanh), và được bảo đảm lòng tin tuyệt đối vào Phật, Pháp và
Tăng.
-
Sau khi hoàn thành giai đoạn giác ngộ đầu tiên, bậc này tiếp tục
làm yếu đi 2 kiết sử nữa, đó là tình dục và không thân thiện,
nhờ vậy đạt được quả vị Nhất Lưu Tu đà hàm. Các kiết sử này rất
mạnh, vì vậy nên ngay cả giai đoạn nầy, chúng chỉ được làm yếu
đi, chứ không dứt bỏ được. Nhục dục và tính không thân thiện có
thể vẫn thỉnh thoảng nổi lên, mặc dầu không khởi lên dưới hình
thức thô tục mà ta thường thấy nơi những người trần tục.
-
Khi hai kiết sử này được diệt trừ, ta đạt được giai đoạn Bất Lưu
A na hàm. Ở giai đoạn ba này người ta không còn tái sinh trong
vòng sinh tử luân hồi mà chỉ ở các nơi sinh sống dành cho các vị
Bất Lưu và A la hán.
-
Khi năm ràng buộc sai khiến còn lại được diệt trừ, người ta hoàn
thành được đỉnh cao của các loại thức siêu thế gian, cái quả của
siêu thức cho A la hán. Năm kiết sử đó là sự vướng mắc vào cõi
sắc (rupa raga), vướng mắc vào cõi vô sắc (arupa raga), lừa dối
(mana), kích động (uddahachcha), và vô minh (avijja).
-
Bốn giai đoạn này có thể được chia ra thành 2 nhóm: nhóm 1 gồm 3
giai đoạn đầu là của người đang được huấn luyện, và nhóm 2 tức
giai đoạn cuối là của người không còn cần được huấn luyện. Vì lý
do này, ta có thể ví quả vị A la hán là một tiến trình của sự
tốt nghiệp, giống như trong chương trình của các môn học trên
đại học. Vào mỗi giai đoạn người ta khắc phục một vài hàng rào
vô minh và vì thế tốt nghiệp lên một giai đoạn cao hơn trong
tiến trình huấn luyện.
-
Vào thời điểm này, có một sự tiến bộ về phẩm: từ một hoàn cảnh
không định hướng và đã bị định nghiệp tăng lên một hoàn cảnh có
định hướng và đang được quyết định. Làm sao mà người ta tạo được
niết bàn từ một vật của thức, nhờ chuyển hóa một thức thế gian
mà vật đó đã bị điều kiện hoá, thành một thức siêu thế gian mà
vật đó lại không bị điều kiện hoá? Làm sao mà người ta nhận ra
được niết bàn? Ðiều này được hoàn thành qua sự hiểu biết đang
được phát triển, hay trí tuệ (panna,P; prajna,S).
-
Trang 310. Ðể phát triển mức hiểu biết bát nhã ba la mật, chúng
ta áp dụng hai phương pháp phân tích và tổng hợp của Vi diệu
pháp (xem Chương 32). Chúng ta áp dụng phương pháp phân tích
trong việc khảo sát thức và các đối tượng của nó, tức tâm và
sắc. Qua sự phân tích này, chúng ta đi đến việc thừa nhận rằng
những gì chúng ta trước đây xem nó là một hiện tượng đồng nhất,
có nhiều thành phần thì thực ra nó bao gồm các yêu tố cá nhân,
tất cả những cái này là vô thường và trong một tình trạng thay
đổi liên tục. Ðiều này đúng sự thật cho cả tâm và sắc.
-
Cũng giống như vậy, chúng ta áp dụng phương pháp tổng hợp bằng
cách xem xét các nhân và duyên tạo ra sự hiện hữu của mình. Ta
liên hệ với những yếu tố nào để thành một thực thể tâm sinh lý?
Sự xem xét này cho ta thấy rằng cá tính hiện hữu được là tùy
thuộc vào 5 yếu tố: vô minh, ái, thủ, nghiệp và sự ăn uống dinh
dưỡng.
-
Mức hiểu biết bát nhã ba la mật nói chung được phát triển qua
việc áp dụng hai phương pháp phân tích nội tại và ngoại vi của
Vi diệu pháp (Abhidharma), các hiện tượng tinh thần, vật chất và
xem xét chúng liên hệ đến các nhân và duyên của chúng. Các sự
điều tra phân tích và liên hệ cho thấy 3 đặc tính hiện hữu hỗ
tương và phổ biến: vô thường, đau khổ và vô ngã. Bất cứ cái gì
vô thường là đau khổ, vì khi ta thấy những yếu tố của kinh
nghiệm tan rã ra thì sự phân hủy và sự vô thường của chúng là
một cơ hội cho đau khổ. Ngoài ra, bất cứ cái gì vô thường và đau
khổ thì không thể nào có cái ngã, bởi vì ngã không thể vừa là
nhất thời vừa là đau khổ.
-
Hiểu thấu được 3 đặc tính này dẫn đến sự dũng cảm, sự tự do ra
khỏi thế giới bị điều kiện hoá. Qua sự hiểu biết đặc tính này,
người ta nhận thấy rằng 3 cõi thế gian giống như một cây chuối
tức không có bản thể. Nó dẫn đến lònh dũng cảm, hay sự thoát ra
khỏi cõi bị điều kiện hoá, và giúp cái thức hướng thẳng tới một
đối tượng không bị điều kiện hóa, tức niết bàn.
-
Trang 311. Bất cứ một trong ba đặc tính đều có thể phục vụ như
là chìa khóa cho việc chuyển hướng này. Bất cứ một trong ba đặc
tính có thể được xem là một vật để quán tưởng hầu phát triển sự
hiểu biết con người. Chúng ta có thể thấy điều này trong các
tiểu sử kể lại của các Ðại Ðệ tử của Phật. Khema, chẳng hạn, đã
hoàn thành giải thoát qua việc quán tưởng vô thường (xem Chương
22).
-
Một khi ta đã phát triển sự hiểu biết bát nhã ba la mật thành
một trong ba đặc tính phổ biến này, ta có thể chứng nghiệm trong
thoáng qua hình ảnh của niết bàn. Sự làm quen đầu tiên về niết
bàn có thể được xem giống như một lằn chớp còn lại trong một
thời gian lâu vào tâm thức của ta, và có thể giúp ta tiếp tục
trên con đường mà ta biết rằng mình đang đi đúng hướng.
-
Cái nhìn lướt qua về niết bàn được hoàn thành bởi vị Tu đà hoàn
có tác dụng như sự định hướng, nhờ đó ông hướng sự tiến bộ của
mình về phía niết bàn. Người ta có thể nói nó giống như sự phát
triển sự hiểu biết dần dần để đạt được một kỹ năng. Sau khi điều
khiển xe đạp chạy được vài chục thước mà không ngã, ta có thể
tốn thêm một thời gian nữa trước khi thành một tay chuyên nghiệp
trong việc lái xe đạp. Sau khi lái thành công không ngã trong
vài chục thước đầu tiên, người ta không bao giờ quên cái kinh
nghiệm ấy và có thể tự tin tiến đến mục tiêu của mình.
-
Chính trong ý nghĩa này mà sự quán tưởng 3 dặc tính dẫn đến 3
cửa giải thoát: cửa không dấu hiệu, cửa không mong cầu, và cửa
không. Quán đặc tính của vô thường dẫn đến cửa không dấu hiệu;
quán đau khổ dẫn đến cửa không mong cầu hay không tham dục; và
quán vô ngã dẫn đến cửa không. Ba cửa giải thoát này là sự kết
thúc của việc quán tưởng vào 3 đặc tính phổ biến trên.
-
Trang 312. Vì thế người ta dần dần tiến lên qua 4 giai đoạn của
giác ngộ và sau đó hoàn thành quả vị A la hán, giai đoạn chiến
thắng các phiền não trong đó các gốc rễ bất thiện như tham, sân,
si hoàn toàn được tẩy trừ. Sau khi diệt phiền não, A la hán
thoát khỏi vòng sanh tử và không còn tái sinh.
-
Mặc dầu có vài mưu toan muốn làm hoen ố quả vị A la hán với sự
kết tội là ích kỷ, nhưng mục tiêu của quả vị A la hán là một mục
tiêu có lợi lạc và từ bi. Người ta chỉ cần xem xét những lời chỉ
dạy của Phật cho các các đệ tử A la hán xuất chúng và nhìn vào
các sư nghiệp của các đệ tử này, ta thấy rằng trong thời của đức
Phật, quả vị A la hán không phải là một tình trạng thụ động và
ích kỷ. Xá Lợi Phật, Mục Kiền Liên và những vị khác đã tham gia
tích cực vào việc hoằng pháp cho cả hai giới cư sĩ và tăng sĩ
trong Giáo hội Phật giáo. Chính Phật cổ vũ các đệ tử A la hán đi
làm lợi ích cho chúng sanh. Mục tiêu của A la hán là mục tiêu
huy hoàng và xứng đáng mà chúng ta không được coi thường dưới
bất cứ cách nào vì rằng tín ngưỡng Phật giáo cũng thừa nhận mục
tiêu Phật riêng tư hay cá nhân (tức Phật Ðộc giác, Phật Duyên
giác, Phật Bích chi, Pachchekabuddha) và mục tiêu của quả vị
Phật.
--o0o--
|
|