|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Cây Giác-Ngộ
The Tree of
Enlightenment.
-
Chương 36
- (Trang
313 - 319)
-
Phân Tích các Tâm Hành
-
Analysis of Mental States.
-
~~~~~~~
-
Trong Vi diệu pháp, các tâm hành được định nghĩa là ‘các yếu tố
đi với thức, sinh diệt cùng với thức, có cùng đối tượng và các
căn bản như thức’. Ðiều này chứng tỏ sự liên hệ rất gần giữa
thức (chitta) và tâm hành (chetasika). Một trong những so sánh
để mô tả sự liên hệ của chúng là cái sườn nhà và các vật liệu
cất nhà, hoặc bộ xương và bắp thịt của ta. Ở đây các loại thức
là bộ xương, các tâm hành là bắp thịt, tạo ra toàn thể kinh
nghiệm thức là thân thể.
-
Với các ý niệm đó trong tâm, ta thử xem xét các loại thức được
liệt kê và được phân tích trong Vi diệu pháp (Abhidharma) mà
chúng cùng đi chung với nhau. Sự phân tích riêng biệt của ta sẽ
không hẳn tương hợp một cách chính xác với sự phân tích trong
kinh sách. Nhưng với một chừng mực nào đó, một vài tâm hành tự
nhiên xảy ra cùng với các loại thức đặc biệt nào đó, chúng ta sẽ
hiểu đuợc tại sao chúng đi chung với nhau. Ðiều này quan trọng
hơn là ta phải thuộc và nhớ cả một danh sắc tên các tâm hành.
-
Có
3 loại tâm hành tổng quát: thiện (lành), bất thiện (dữ) và vô
ký. Riêng các tâm hành vô ký không lành không dữ thì kết hợp với
các tâm hành khác. Các tâm hành vô ký này giữ một vai trò
chánh trong việc tạo dựng kinh nghiệm tâm thức, giống như việc
không có xi măng thì các ‘kinh nghiệm’ được xây lên không
thể dính với nhau được.
-
Trang 314. Có hai nhóm tâm hành vô ký: phổ biến (hay chủ yếu) và
đặc biệt (hay thứ yếu). Các tâm hành phổ biến hiện diện trong
tất cả các loại thức trong khi các tâm hành đặc biệt chỉ xảy ra
trong một số loại thức.
-
Có
7 tâm hành vô ký phổ biến (các sách gọi là ‘biến hành’): xúc,
thọ, tưởng, hành, nhất điểm tụ, tác ý và sức sống (sinh khí).
-
Xúc là sự kết hợp của thức (bên trong) với vật (bên ngoài). Ðây
là sự cộng hữu của chủ thể và đối tượng. Ðó là nền tảng của tất
cả kinh nghiệm thức.
-
Thọ là phẩm chất thuộc về cảm tính của một kinh nghiệm: vui,
buồn hay không vui không buồn.
-
Tưởng là sự nhận biết (thuộc dục giới) của một khả năng để cho
một cảm quan nào đó thuộc nhãn thức, nhĩ thức, v.v...
-
Hành, trong bài này, không có nghĩa tự do mà nó là một phản ứng
hành động theo bản năng.
-
Nhất điểm tụ không có nghĩa là định mà nó có nghĩa là sự giới
hạn thức vào một đối tượng đặc biệt. Như đã được nêu trong
Chương 34, nhất điểm tụ xảy ra ngay cả trong các loại thức bình
thường và không thiền định. Nhất điểm tụ là một tâm hành cần
thiết cho tất cả các loại thức bởi vì chính nhờ nhất điểm tụ mà
nó chú tâm riêng vào một đối tượng ra khỏi nhiều đối tượng khác.
-
Tác ý có thể được xem là có liên hệ đến nhất điểm tụ. Nhất điểm
tụ và tác ý là 2 mặt tiêu cực và tích cực của cùng một phần
hành. Nhất điểm tụ giới hạn kinh nghiệm của ta vào một đối tượng
đặc biệt trong khi tác ý hướng dẫn sự chú ý của ta vào một đối
tượng đặc biệt. Nhất điểm tụ và tác ý vận hành chung với nhau để
cô lập và tạo thành thức của một đối tượng đặc biệt.
-
Sức sống (sinh khí) ý nói đến cái lực kết hợp 6 tình trạng tâm
thức kia lại với nhau.
-
Có
6 tâm hành vô ký đặc biệt: tầm (tìm), từ (sát hay xét), quyết
tâm (thắng giải), tật đố, hỉ và dục. Chúng ta đã nói một vài
điều trên trong bài nói về các pháp định. Tâm sở đặc biệt thứ
ba, thường được dịch là ‘quyết tâm’ (adhimokkha), là một tâm
hành rất quan trọng, nó có nhiệm vụ quyết định đặc biệt cho thức
này. Nghĩa đen của từ gốc là ‘giải thoát’ có nghĩa là ‘thoát
khỏi sự nghi ngờ’. Tâm hành thứ sáu, ‘dục’ (chhanda), có thể tạm
dịch như thế với điều kiện là chúng ta phải nhớ rằng ‘dục’ thuộc
về xác thịt (kamachhanda) là tiêu cực và phá hoại, trong khi
‘dục’ thuộc về giải thoát (dhammachhanda) là tích cực và xây
dựng. Vì thế dục có cả 2 đặc tính thiện và bất thiện, tùy vào
đối tượng của dục và vào những tâm hành khác mà dục liên kết với
chúng.
-
Chúng ta hãy tiếp tục xét các tâm hành thiện. Có tất cả 14, và
liên kết với 12 loại thức bất thiện (xem Chương 33) qua 5 cách,
được phân ra thành 5 nhóm. Ba nhóm đầu lấy đặc tính cho chúng từ
3 căn bất thiện: si (moha), tham (lobha) và sân (dosa). Nhóm thứ
tư bao gồm lười biếng (thina) và giải đãi (middha), nhóm thứ năm
thuộc nghi ngờ (vichikichchha).
-
Chúng hãy xét đến nhóm bắt đầu bằng si. Nhóm này hiện diện khắp
nơi trong tất cả các loại thức bất thiện và nó bao gồm bốn yếu
tố: si, vô tàm (không xấu hổ), vô quí (không cả thẹn, làm càn)
và trạo cử (không yên). Cả hai vô tàm và vô quí dụ về đạo đức và
luân lý, bên trong lẫn bên ngoài.
-
Trang 316. Khi nói về không xấu hổ (vô tàm), ta muốn nói đến
việc không có khả năng tự chế mình không làm điều bậy, không có
khả năng ứng dụng đạo đức cá nhân vào hành động của mình. Khi
nói đến không cả thẹn hay làm càn (vô quí) ta muốn nói là việc
không có khả năng áp dụng các tiêu chuẩn đạo đức xã hội cho hành
động của mình. Hai từ này có ngụ ý là: tiêu chuẩn đạo đức phải
có ở hai hướng: nội tại, liên hệ đến mình, và ngoại tại, liên hệ
đến người khác.
-
Ðặc biệt trong những trường hợp của thức si (mê lầm), ta có ý
nói về hành động hay cử chỉ. Khi thức của con người bị chi phối
bởi si, người ấy không thể áp dụng các tiêu chuẩn đạo đức cho
riêng mình và vì vậy hành động theo hướng bất thiện. Cũng như
vậy, khi không áp dụng các tiêu chuẩn đạo đức xã hội, ta thường
hành động sai trái. Việc không có khả năng áp dụng các phẩm cách
đạo đức cho các hành động của mình cũng như cho bên ngoài tạo
nên tính không yên, nóng ruột (trạo cử), đây là yếu tố thứ tư
trong nhóm bị thức ‘si’ chi phối.
-
Nhóm thứ hai trong năm nhóm tâm hành bất thiện là nhóm bị thức
‘tham’ chi phối: tham đi kèm theo sự tin tưởng sai lầm và tính
tự cao tự đại. Về cá nhân thì thức tham bị chi phối thành một
khuynh hướng tự nâng cao địa vị, tích lũy, phô trương kiến thức,
thường xuyên có lòng tự hào, tính vị kỷ và tự cao tự đại.
-
Nhóm thứ ba của các tâm hành bất thiện là nhóm bị ‘sân’ chi
phối. Tính sân kèm theo tính ganh ghét (tật đố), tính tham lam
và buồn phiền (não).
-
Nhóm thứ tư bao gồm lười biếng, giải đãi, đặc biệt liên hệ đến
các loại thức không gây ra hành.
-
Nhóm thứ năm bao gồm nghi ngờ (bất tín), áp dụng trong tất cả
trường hợp mà sự quyết định không có mặt, thí dụ, quyết tâm
(thắng giải) là một trong sáu tâm hành vô ký đặc thù (các sách
gọi là biệt cảnh)
-
Trang 317. Có 19 tâm hành chung cho tất cả các loại thức thiện
lành. Một số các yếu tố dẫn đến giác ngộ (bodhipakkhiya dharma)
giữ một vai trò quan trọng trong việc hun đúc và phát triển tiềm
năng tâm linh của con người. Danh sách bắt đầu với ‘lòng tin,
nhớ biết (niệm), biết xấu hổ (tàm), biết thẹn (quí), vô tham, vô
sân, bình tâm, tĩnh lặng, nhẹ nhàng, linh động, thích nghi,
thành thạo và chính trực. Chúng thuộc về các yếu tố tâm linh.
Xin chú ý đến sự hiện diện của tàm (biết xấu hổ) và quí (biết
thẹn) đối nghịch với vô tàm và vô quí.
-
Mười chín tâm hành thiện lành thỉnh thoảng kèm theo 6 tâm hành
khác: 3 giới điều (chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng); 2 vô
lượng tâm (bi và hỉ); và lý trí hay trí tuệ. Khi 6 cái hợp lại
chung với nhau, có tất cả 25 tâm hành thiện lành.
-
Trí tuệ chiếm một vị trí trong các tâm hành thiện tương đương
với vị trí dục trong các tâm hành vô ký. Cũng như dục có thể bất
thiện hay thiện tùy theo đối tượng của nó, trí tuệ cũng có thể
là thế gian hay siêu thế gian tùy theo đối tượng của nó là kiến
thức thông thường hay thực tướng siêu thường.
-
Ðể
củng cố những gì tôi đã nói về sự liên hệ rất gần giữa các loại
thức và các tâm hành, tôi xin dẫn chứng đến sự phân loại chủ
quan của thức đã được đề cập trong chương 33. Ở đó, chúng ta đã
nói đến các loại thức tùy theo giá trị nghiệp báo của
chúng--thiện, bất thiện, gây kết quả hay thực dụng. Ðặc biệt
trong phạm vi dục giới, chúng ta đã nói đến thêm một loại thức
về mặt thọ, tưởng và hành.
-
Kết hợp với nhau, chúng ta có trong phạm vi dục giới một loại
thức chủ quan bốn mặt tùy theo giá trị nghiệp báo, cảm xúc, tri
thức và hành--nói một cách khác, 1. nói theo cái thiện, bất
thiện hay trung tính; 2. nói theo cái vui, cái buồn hay bình
thản; 3. nói theo việc hợp với kiến thức hay không hợp với kiến
thức và 4. nói theo việc được thúc đẩy hay không được thúc đẩy.
-
Trang 318. Với 4 mặt này, ta có thể thấy các loại thức được
quyết định như thế nào do sự hiện diện của các tâm hành. Chẳng
hạn, trong loại giá trị nghiệp báo, các loại thức thiện được
quyết định bởi các tâm hành thiện. Trong loại giá trị cảm xúc,
các loại thức được quyết định bởi sự hiện diện của các tình
trạng thuộc về nhóm thọ (vui thú tinh thần, đau khổ tinh thần,
vui thú vật chất, đau khổ vật chất và bình thản). Trong loại giá
trị tri thức, sự hiện diện hay vắng mặt của si quyết định hoặc
là một loại thức biệt cảnh được đồng hóa với kiến thức, không
đồng hóa với kiến thức, hay đồng hóa với sự tin tưởng sai lầm.
Và trong loại giá trị hành, sự hiện diện hay vắng mặt sự nghi
ngờ và quyết tâm hoặc là một loại thức biệt cảnh được thúc đẩy
hay không thúc đẩy, tự phát hay không tự phát.
-
Vì
thế bốn loại thức chủ quan làm sáng tỏ các loại thức khác nhau
được quyết định như thế nào bởi sự hiện diện của các tâm hành
liên hệ--thiện, bất thiện, liên hệ với kiến thức, v.v...
-
Cuối cùng, tôi xin xét đến cách các tâm hành vận hành trong việc
đối phó với mỗi loại thức. Ðây là điều đáng quan tâm bởi vì sự
phân tích của Vi diệu pháp về thức đôi khi được so sánh với sự
phân tích của Bảng Tuần hoàn sắp xếp các nguyên tố (theo trọng
lượng nguyên tử hóa học của Menđêlếep) theo các giá trị nguyên
tử liên hệ. Ta không thể nào không bị ảnh hưởng bởi các thuộc
tính hoá học của các tâm hành: thí dụ như trong hóa học, một
chất thí dụ như kiềm có thể trung hòa hay kết hợp với một axit
để tạo nên muối, và ngược lại. Vì thế trong sự phân tích các
thức, một tâm hành thường đương đầu với các tâm hành nào đó, và
ngược lại.
-
Trang 319. Chẳng hạn, trong các pháp định (xem chương 34), 5 tâm
hành đương đầu với 5 chướng ngại (‘tầm’ đương đầu với ‘lười
biếng, giải đãi’; ‘sát’ đối phó với ‘nghi ngờ’; ‘hỉ’ với ‘sân’;
‘lạc’ với ‘bồn chồn’ (trạo cử) và ‘lo lắng’; ‘tịnh’ với ‘ái
dục’). Nếu không có sự liên hệ một đối một thì các nhóm của pháp
thiện đương đầu với từng pháp bất thiện hoặc đương đàu với nhóm
của pháp bất thiện (‘tín’ đương đầu với ‘nghi ngờ’ và ‘si’,
‘bình tâm’ và ‘tĩnh lặng’ với ‘ngờ’ và ‘lo’; ‘nhẹ nhàng, linh
động, thích nghi, tâm thành thạo và các yếu tố tâm linh’ đối đầu
với ‘lười biếng và giải đãi’; v.v...). Một lần nữa, khi tính
quyết tâm có mặt, lòng nghi ngờ vắng mặt.
-
Bằng cách ấy, các tâm hành thiện lành đương đầu và chống lại các
thức bất thiện. Sự có mặt của các tâm hành nào đó diệt trừ các
tâm thức chống đối và nhờ vậy dọn chỗ cho các tâm hành thích
nghi. Qua sự hiểu biết sự liên hệ giữa thức và các tâm hành và
qua sự vun trồng các tâm hành thiện lành này, chúng ta có thể
dần dần thay đổi và cải thiện tướng trạng của kinh nghiệm tâm
thức chúng ta.
--o0o--
|
|