|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Cây Giác-Ngộ
The Tree of
Enlightenment.
-
Chương 37
- (Trang
320 - 327)
-
Phân tích các Quá trình Tư tưởng
-
Analysis of Thought-Processes.
-
~~~~~~~
-
Trong chương này chúng ta sẽ bắt đầu xem xét đặc biệt và trực
tiếp hơn, cách phân tích tâm thức và các tâm hành để có thể thực
sự đóng góp cho phần trí tuệ sáng suốt. Cũng với sự phân tích
như thế, nó có thể giúp giải thích và thay đổi sự hiểu biết của
ta trong đời sống hàng ngày.
-
Tại sao lại phải phân tích các quá trình tư tưởng? Ðể trả lời
câu hỏi này, chúng ta cần nhớ lại mục đích chánh của Vi diệu
pháp (Abhidharma), đó là tạo sự dễ dàng cho sự hiểu biết đặc
tính cơ bản của các sự vật với 3 tính chất phổ biến, đó là vô
thường, đau khổ và vô ngã. Trong khi phân tích các quá trình tư
tưởng, chúng ta có thể thấy tính vô thường và vô ngã được phô
bày một cách rõ ràng, giống như 2 dẫn dụ từ những bài giảng của
Phật sau đây.
-
Ðức Phật so sánh quãng đời của một sinh vật bằng một điểm đơn
độc: bánh xe (của một chiếc xe chiến mã). Ông nói một cách
nghiêm túc rằng, một sinh vật chỉ chịu đựng từ lúc một tư tưởng
nổi lên và tắt đi, giống như bánh xe chiến mã, hoặc quây hoặc
ngừng, tiếp xúc với mặt đất ở tại một điểm. Với ý nghĩa này, quá
khứ tuy đã có, nhưng ngay bây giờ thì không còn nữa, nó cũng
không có trong tương lai; ngay lúc hiện tại này thì có sự hiện
hữu nhưng nó đã không có sự hiện hữu trong quá khứ, cũng không
hiện hữu trong tương lai; và thời điểm tương lai, dù nó sẽ hiện
hữu trong tương lai, vẫn không hiện hữu ngay bây giờ, cũng không
hiện hữu trong quá khứ.
-
Phật đưa ra thêm trường hợp của một vì vua. ông chưa từng bao
giờ nghe được âm thanh của cây đàn luýt. Khi được nghe, ông đã
hỏi các quan đó nó là cái gì mà thú vị và mê ly quá. Các quan
trả lời rằng đó là âm thanh của cây đàn luýt. Vua liền đòi cho
được cây đàn luýt. Khi các quan đem cây đàn tới, vua hỏi âm
thanh mê hoặc đó ở dâu. Khi các quan trả lời rằng âm thanh đó
được phát ra bởi một sự phối hợp của các yếu tố khác nhau, vua
đã nói rằng cây đàn luýt quả thật là một nhạc khí tồi, bèn đập
bể cây đàn và bảo đem đốt nó thành tro. Những gì mà các quan gọi
là âm thanh của cây đàn luýt thì ông vua chẳng tìm đâu được hết.
Cũng giống như vậy, không có chỗ nào trong số các yếu tố của
kinh nghiệm về vật chất và tinh thần-- các yếu tố của sắc, thọ,
tưởng, hành, thức--mà ta tìm ra được một cái ngã. Quá trình tư
tưởng cũng giống như âm thanh của cây đàn luýt, đó là cái không
của cái ngã.
-
Trang 321. Sự phân tích các quá trình tư tưởng có tác dụng rất
đặc biệt trong lãnh vực phát triển tinh thần, trong việc làm chủ
và kiểm soát được các đối tượng của các giác quan. Bạn có thể
nhớ lại rằng chúng ta đã nói trước đây về cái nhạy cảm của cái
tâm về các đối tượng của các giác quan, và nói rằng cái tâm luôn
thay đổi qua ‘sắc, thanh, hương, vị, xúc’. Chính Phật đã tuyên
bố rằng con người, hoặc bị chinh phục bởi các đối tượng giác
quan hoặc chinh phục lại chúng: nói một cách khác, con người
hoặc bị kiểm soát và tùy thuộc vào sự kích thích của các giác
quan hoặc giải quyết và chinh phục lại chúng. Ðây là lý do tại
sao Bồ tát Long Thọ đã từng nói rằng ngay cả một con thú cũng có
thể chiến thắng trong cuộc đấu, trong khi đó người nào có khả
năng chinh phục các đối tượng xảy ra trong chốc lát và luôn luôn
thay đổi của các giác quan mới thực là anh hùng.
-
Khi người nào khống chế, làm chủ và kiểm soát được các đối tượng
của các giác quan, người ấy là người không còn buông lung. Tính
không buông lung giống như tính lưu tâm, nhớ biết hay tỉnh giác
tức ‘niệm’, điều mà Phật đã nói là con đường một chiều đi tới tự
do. Buông lung là nguồn gốc của cái chết và của sự giam cầm
trong luân hồi, trong khi đó tính không buông lung là nguồn gốc
của vô tử hay niết bàn. Những người nào mà trước đây buông lung
và sau đó không buông lung, như Nanda và Angulimala, đều có thể
hoàn thành mục tiêu của tự do.
-
Bằng cách phân tích và hiểu biết các đối tượng của các giác quan
được nhận thức và đồng hóa như thế nào bởi tâm thức, chúng ta có
thể dọn dường cho chánh kiến nói theo vô thường và vô ngã, đồng
thời hướng sự kiểm soát về các đối tượng giác quan hay thay đổi
bất thường. Cuối cùng, chúng ta có thể hoàn thành tính không
buông lung, nó là chìa khóa cho việc thay đổi sự hiện hữu của
chúng ta từ một vật bị khống chế bởi các phiền não thành một vật
được thanh tịnh và trở nên cao quí.
-
Trang 322. Chúng ta có thể bắt đầu việc phân tích các quá trình
tư tưởng của mình bằng cách xem xét vị trí của chúng trong kinh
nghiệm của chúng ta. Thử so sánh cuộc đời như là một con sông,
với nơi phát nguyên và cửa sông của nó. Giữa sanh và tử, giữa
nguồn sông và cửa sông, có sự tiệm tiến nhưng không có tướng
trạng. Nói theo Vi diệu pháp, chết và sống là yếu tố ‘kết hợp’
(patisandhi), suốt cả cuộc đời là một ‘tiềm thức tiệm tiến’
(bhavanga--xin xem lại thêm ở trang 154), và chết là ‘bỏ đi’
(chuti). Ba yếu tố này có chung một điểm: đối tượng của chúng là
tâm thức cuối cùng của cuộc đời trước đó. Ðối tượng này quyết
định chúng thành những yếu tố cho kết quả thiện hay bất thiện
của tâm thức.
-
Trong đoạn văn này, một điều quan trọng phải nhớ rằng dòng nước
tiềm thức của cuộc đời (bhavanga) chảy cùng với nghiệp quả của
một cuộc sống nào đó, đã cho nó các đặc tính tổng quát và kéo
dài nó cho đến khi nó bị gián đoạn và cạn kiệt. Vì thế quá khứ,
hiện tại và tương lai của cuộc đời một cá nhân được hợp lại
không chỉ có tính cách tâm thức (tức sự kéo dài mãi không dứt
của patisandhi, bhavanga và chuti), mà cả tiềm thức nữa (tức chỉ
một mình bhavanga thôi). Yếu tố tiềm thức trong cuộc đời miên
viễn duy trì sự liên tục và kéo dài cuộc sống ngay cả khi không
có các quá trình tư tưởng hữu thức, thí dụ như trong giấc ngủ
không có giấc mơ và những lúc vô ý thức như hôn mê. Giữa các quá
trình tư tưởng hữu thức, tiềm thức bhavanga tự xác định cho nó
và duy trì sự kéo dài của cuộc sống.
-
Ðể
tóm tắt, cuộc đời của chúng ta bắt đầu với yếu tố kết hợp hay
nối liền có ý thức (patisandhi). Nó nối cuộc đời trước đây với
cuộc đời này. Nó kéo dài suốt cuộc đời bằng yếu tố tiềm thức của
cuộc đời miên viễn (bhavanga) và nó chấm dứt với sự rời bỏ đi
(chuti) và một lần nữa nó lại kết hợp (dưới hình thức
patisandhi) với cuộc đời sau đó.
-
Trang 323. Tâm thức, đối lại với tiềm thức (bhavanga), sinh ra
như là một hiện tượng đề kháng và ‘‘để quậy’’ (cho xung động).
Nói một cách khác, bhavanga tiếp tục là tiềm thức cho đến khi nó
bị gián đoạn hay ngăn trở bởi một vật khác, như khi chúng ta
ngăn một cái đập ngang qua sông và thấy rằng dòng sông bị ngăn
chận lại, hay tùy thuộc một dòng điện đề kháng và có hiện tượng
ánh sáng sinh ra. Sự tiếp xúc giữa bhavanga và vật đó cho ra một
kết quả đề kháng, và sự đề kháng này gây sự xung động, nó lần
lượt cho kết quả là một quá trình tư tưởng có ý thức.
-
Các quá trình tư tưởng sinh ra do kết quả của sự gián đoạn đó
là: 1. các quá trình tư tưởng vật chất điều hành qua 5 cửa giác
quan (mắt, tai, mủi, lưỡi và thân), 2. các quá trình tư tưởng
tinh thần điều hành qua ý, cơ quan thứ sáu. Các quá trình tư
tưởng vật chất đuợc quyết định bởi cường độ, hay tác động của sự
vật đem lại sự gián đoạn của dòng đời miên viễn. Với nghĩa này,
sự ngăn trở lớn nhất sẽ gây ra quá trình tư tưởng dài nhất, và
sự ngăn trở nhỏ nhất sẽ gây ra quá trình tư tưởng ngắn nhất.
-
Có
4 loại quá trình tư tưởng vật chất, từ một quá trình có 17
thoáng tư tưởng đến một quá trình không đạt được điểm quyết tâm
hay nhận ra đối tượng. Có 2 loại quá trình tư tưởng tinh thần:
một, có tên là ‘rõ ràng’, nó có khả năng nhớ mọi chuyện, từ giai
đoạn đầu cho đến giai đoạn cuối của quá trình tư tưởng đó; hai,
có tên là ‘tối tăm’, nó chấm dứt trước giai đoạn khả năng nhớ
mọi chuyện. Tùy thuộc vào cường độ của sự ngăn chận đoạn tiềm
thức của dòng đời miên viễn mà chúng ta có một quá trình tư
tưởng mạnh hơn, dài hơn hoặc yếu hơn, ngắn hơn.
-
Chúng ta hãy xét đến 17 thoáng tư tưởng mà đây là tiến trình dài
nhất trong số tất cả các quá trình tư tưởng, cả về vật chất lẫn
tinh thần. Xin nhớ rằng mỗi thoáng trong 17 thoáng tư tưởng này
kéo dài dưới một phần tỷ thời gian so với cái nháy mắt. Vì thế
khi đức Phật nói rằng một sinh vật chỉ chịu đựng một độ dài bằng
một thoáng của tư tưởng, ý muốn nói là một đoạn thời gian cực kỳ
ngắn.
-
Trang 324. Cái đầu tiên của 17-thoáng-tư-tưởng hay
17-thoáng-nghĩ trong một ý tưởng là ‘nhập’ (entry) nói đến một
vật có tác động đến dòng đời không ngừng nghĩ, giống như việc
ngăn đập vào ‘dòng sông cuộc đời’.
-
Thoáng thứ hai có tên là’rung động’ (vibrating) vì sự nhập vào
dòng đời miên viễn tạo nên một dao động.
-
Thoáng thứ ba là thoáng ‘ngăn chận lại’ (arresting) vì tại điểm
này vật cản làm gián đoạn hay ngăn chận dòng đời miên viễn.
-
Tới đây ta có thể hỏi làm sao mà dòng đời miên viễn (bhavanga),
cùng với đối tượng riêng trước đó đã kết hợp (patisandhi) và yếu
tố mục nát (chuti), lại có một đối tượng thứ hai dưới hình thức
của một đối tượng vật chất có các giác quan. Ðiều này được cắt
nghĩa bằng một thí dụ. Buddhaghosa đã nói rằng, việc một hạt
đường trong số nhiều hạt đường trên mặt trống bị rung động gây
ảnh hưởng một con ruồi đậu trên một hạt đường khác cũng giống
như các loại vật chất gây cho 5 giác quan và tác động ảnh hưởng
đến bhavanga.
-
Một khi 3 thoáng tư tưởng này xảy ra, vật ấy nhập vào phạm vi
tâm thức. Nó diễn ra qua thoáng tư tưởng thứ tư, đó là thoáng
của ‘thức chuyển sự chú ý’. Trong trường hợp của các quá trình
tư tưởng vật chất, thức này có thể là một trong năm căn mắt,
tai, mủi, lưỡi, thân.
-
Việc diễn ra này được theo sau bởi thoáng thứ năm, ‘thức tưởng’,
mà nó có thể là một trong năm thức: nhãn thức, nhĩ thức,v.v....
-
Lần lượt nó được theo sau bởi thoáng thứ sáu, ‘thức thọ’; thoáng
thứ bảy ‘thức quán’, thức thứ tám ‘thức quyết định’. Chính thức
quyết định này nhận diện và thừa nhận đối tượng.
-
Trang 325. Thức quyết định này theo sau bởi 7 thoáng ‘thức thúc
giục’ (javana) nó có nhiệm vụ chạy suốt qua sự vật, nhờ vậy đồng
hóa hoàn toàn đối tượng thành (tâm) thức.
-
Hai thoáng cho kết quả sau cùng thuộc thức nhớ toàn bộ. Bảy
thoáng ‘thức thúc giục’ thuộc thức chủ động gây nghiệp lực vừa
thiện vừa bất thiện. Riêng các thoáng thức gây kết quả hay nhớ
toàn bộ cũng vừa thiện vừa bất thiện.
-
Vì
mục đích thực tập, ta nên nhớ một điều quan trọng là: tại mỗi
điểm trong 17 thoáng tư tưởng này, ta có thể hành động tự do,
cái quả có thể tốt hơn cũng có thể xấu hơn. Ba thoáng thức
bhavanga (tiềm thức) thuộc thức gây kết quả. Thức chuyển sự chú
ý và thức quyết định là bất động. Thức tưởng thuộc thức gây kết
quả. Vì thế 7 thoáng thức thúc giục (javana) là những thoáng tư
tưởng chủ động gây nghiệp lực. Cái đầu tiên của 7 thoáng này
quyết định 6 thoáng kế tiếp, vì thế nếu nó thiện, những cái còn
lại là thiện; nếu nó bất thiện, những cái còn lại là bất thiện.
-
Chính tại điểm này mà khi thức quyết định được theo sau bởi ‘7
thoáng thúc giục’ mà các tình trạng gây kết quả và bất động
nhường chỗ cho các tình trạng chủ động. Ðây là điểm rất quan
trọng trong cá quá trình tư tưởng, bởi vì người ta không thể
thay đổi đặc tính của các tình trạng gây kết quả hay bất động
nhưng có thể thay đổi đặc tính của các tình trạng chủ động,
chúng có tiềm năng nghiệp quả thiện hoặc bất thiện. Ngay khi các
thoáng ‘thức thúc giục’ bắt đầu, có hay không có sự khôn khéo
chú ý là điều rất quan trọng. Nếu có thì khả năng của các thức
thúc giục lớn hơn; nếu không có, các thức thúc giục bất thiện có
cơ chiếm ưu thế hơn.
-
Trang 326. Sự thực thì đối tượng của 17 thoáng tư tưởng không
quan trọng lắm vì đối tượng này, dù tốt hay không tốt, cũng
không quyết định được 7 thoáng thúc giục thiện hay bất thiện.
Bạn có thể nhớ lại trường hợp của Elder Tissa (xem Chương 23):
tình cờ, người con dâu của một gia đình nào đó, sau khi cải nhau
với chồng, mặc quần áo và nữ trang đẹp nhất sửa soạn trở về nhà
cha mẹ ruột. Khi nàng đi ngang qua nhà Vị Trưởng Lão Tissa, với
một bản chất bất kính, nàng buộc ra một tràng cười lớn. Thấy
được răng lợi của cô ta, Tissa phản ứng theo cái ý tưởng của sự
hôi thối của thân thể, và nhờ sức mạnh của thức tưởng này mà
ngài dã đắc quả A la hán ngay tại chỗ. Khi người chồng tìm đến
hỏi ngài có thấy người đàn bà nào đi ngang qua đây không, vị A
la hán đã trả lời rằng ông không biết đó là đàn ông hay đàn bà
mà chỉ biết rằng ông đã thấy một đống xương biết đi.
-
Câu chuyện này cho biết rằng dù bản chất của ‘thức quyết định’
(tức thoáng thứ 8) thế nào đi chăng nữa, 7 thoáng ‘thức thúc
giục’ có thể là một cơ hội để đắc được quả A la hán hoặc tích
lũy thêm để tiêu trừ các thoáng thức đã bị nghiệp bất thiện
trong tiền kiếp. Ðối với một người đàn ông không phải là Tissa,
cái tiếng cười của một phụ nữ có thể làm nẩy sinh các xung động
có cội rễ dâm dục hơn là những xung động dẫn đến việc thực hiện
được quả A la hán. Vì sự có khôn khéo chú ý hay không khôn khéo
chú ý quyết định được giá trị nghiệp quả của các thoáng thúc
giục, nên chúng ta cần áp dụng triệt để hầu làm giảm bớt các cơ
hội xung động (hay thúc giục) bất thiện nổi lên và tăng lên các
cơ hội thiện lành của thức thúc giục.
-
Tôi xin kết luận bằng cách dẫn dụ một câu chuyện phổ biến của
Buddhaghosa trong Con đường Thanh Tịnh (Visuddhi Magga) để chứng
minh 17 thoáng thức trong một quá trình tư tưởng. Giả dụ một
người đang ngủ ở dưới cội cây xoài đầy trái chín. Một trái xoài
rớt xuống đất. Tiếng rơi của quả xoài rót vào tai. Người ấy thức
dậy, mở mắt và thấy trái xoài chín trong tầm với của mình. Anh
ta vói lấy, bóp bóp trái xoài, ngửi nó và ăn.
-
Cái quá trình toàn bộ này chứng minh 17 thoáng thức khi phân
biệt về một vật. Âm thanh của trái xoài rơi có tác động đến tai
của người giống như 3 thoáng của bhavanga--nhập, xung động và
ngăn chận lại (hay gián đoạn). Khi anh dùng mắt mình và định chỗ
được trái xoài, nó giống như các thoáng thức chuyển sự chú ý và
phân biệt; khi anh vói tay lấy quả xoài cho đến lúc cầm lấy; khi
anh bóp bóp trái xoài và xem xét; khi anh ngửi nó, cho đến lúc
quyết định; khi anh ăn nó và biết ngon, cho đến lúc 7 thoáng của
thức thúc giục; và ta có thể thêm rằng (dù Buddhaghosa không
nói) khi trái xoài đang được tiêu hóa, nó giống như 2 thoáng
‘thức nhớ toàn bộ’ của kết quả có được.
-
Nếu được phân tích các quá trình tư tưởng một cách cẩn thận và
thành thạo qua sự chú tâm, việc này có thể cho ta kết quả để
hiểu biết thật sâu sắc về bản chất tuyệt đối của sự vật là vô
thường và vô ngã. Sự phân tích này cũng có thể dẫn đến sự hiểu
biết rõ ràng về các đối tượng của các giác quan, cái kết quả của
nó là sự vô tư, an lạc và tự do. Vì thế, chúng ta nên áp dụng
kiến thức đạt được về tính nhất thời, luôn bị ảnh hưởng của các
quá trình tư tưởng và phân biệt vào cuộc sống hằng ngày của
mình. Mục đích là để tìm ra một sự hiểu biết và sự chú ý một
cách khôn khéo hầu giúp chúng ta tăng thêm các cơ hội cho tiềm
năng nghiệp thiện và giảm thiểu các dịp phát triển nghiệp bất
thiện. Nếu làm được chuyện này là ta đã đi được một bước thật
quan trọng trong việc nới rộng việc nghiên cứu Vi diệu pháp
(Abhidharma) từ một phạm vi đơn thuần tri thức qua một phạm vi
thực hành cho kinh nghiệm.
--o0o--
|
|