PHẬT HỌC CƠ BẢN

Cây Giác-Ngộ
The Tree of Enlightenment.
Nguyên tác: Peter Della Santina, Ph.D.
Việt dịch: Minh Thiện Trịnh Chỉnh
Melbourne 2002

---o0o---
Chương 37
(Trang 320 - 327)
Phân tích các Quá trình Tư tưởng
Analysis of Thought-Processes.
~~~~~~~
Trong chương này chúng ta sẽ bắt đầu xem xét đặc biệt và trực tiếp hơn, cách phân tích tâm thức và các tâm hành để có thể thực sự đóng góp cho phần trí tuệ sáng suốt. Cũng với sự phân tích như thế, nó có thể giúp giải thích và thay đổi sự hiểu biết của ta trong đời sống hàng ngày.
Tại sao lại phải phân tích các quá trình tư tưởng? Ðể trả lời câu hỏi này, chúng ta cần nhớ lại mục đích chánh của Vi diệu pháp (Abhidharma), đó là tạo sự dễ dàng cho sự hiểu biết đặc tính cơ bản của các sự vật với 3 tính chất phổ biến, đó là vô thường, đau khổ và vô ngã. Trong khi phân tích các quá trình tư tưởng, chúng ta có thể thấy tính vô thường và vô ngã được phô bày một cách rõ ràng, giống như 2 dẫn dụ từ những bài giảng của Phật sau đây.
Ðức Phật so sánh quãng đời của một sinh vật bằng một điểm đơn độc: bánh xe (của một chiếc xe chiến mã). Ông nói một cách nghiêm túc rằng, một sinh vật chỉ chịu đựng từ lúc một tư tưởng nổi lên và tắt đi, giống như bánh xe chiến mã, hoặc quây hoặc ngừng, tiếp xúc với mặt đất ở tại một điểm. Với ý nghĩa này, quá khứ tuy đã có, nhưng ngay bây giờ thì không còn nữa, nó cũng không có trong tương lai; ngay lúc hiện tại này thì có sự hiện hữu nhưng nó đã không có sự hiện hữu trong quá khứ, cũng không hiện hữu trong tương lai; và thời điểm tương lai, dù nó sẽ hiện hữu trong tương lai, vẫn không hiện hữu ngay bây giờ, cũng không hiện hữu trong quá khứ.
Phật đưa ra thêm trường hợp của một vì vua. ông chưa từng bao giờ nghe được âm thanh của cây đàn luýt. Khi được nghe, ông đã hỏi các quan đó nó là cái gì mà thú vị và mê ly quá. Các quan trả lời rằng đó là âm thanh của cây đàn luýt. Vua liền đòi cho được cây đàn luýt. Khi các quan đem cây đàn tới, vua hỏi âm thanh mê hoặc đó ở dâu. Khi các quan trả lời rằng âm thanh đó được phát ra bởi một sự phối hợp của các yếu tố khác nhau, vua đã nói rằng cây đàn luýt quả thật là một nhạc khí tồi, bèn đập bể cây đàn và bảo đem đốt nó thành tro. Những gì mà các quan gọi là âm thanh của cây đàn luýt thì ông vua chẳng tìm đâu được hết. Cũng giống như vậy, không có chỗ nào trong số các yếu tố của kinh nghiệm về vật chất và tinh thần-- các yếu tố của sắc, thọ, tưởng, hành, thức--mà ta tìm ra được một cái ngã. Quá trình tư tưởng cũng giống như âm thanh của cây đàn luýt, đó là cái không của cái ngã.
Trang 321. Sự phân tích các quá trình tư tưởng có tác dụng rất đặc biệt trong lãnh vực phát triển tinh thần, trong việc làm chủ và kiểm soát được các đối tượng của các giác quan. Bạn có thể nhớ lại rằng chúng ta đã nói trước đây về cái nhạy cảm của cái tâm về các đối tượng của các giác quan, và nói rằng cái tâm luôn thay đổi qua ‘sắc, thanh, hương, vị, xúc’. Chính Phật đã tuyên bố rằng con người, hoặc bị chinh phục bởi các đối tượng giác quan hoặc chinh phục lại chúng: nói một cách khác, con người hoặc bị kiểm soát và tùy thuộc vào sự kích thích của các giác quan hoặc giải quyết và chinh phục lại chúng. Ðây là lý do tại sao Bồ tát Long Thọ đã từng nói rằng ngay cả một con thú cũng có thể chiến thắng trong cuộc đấu, trong khi đó người nào có khả năng chinh phục các đối tượng xảy ra trong chốc lát và luôn luôn thay đổi của các giác quan mới thực là anh hùng.
Khi người nào khống chế, làm chủ và kiểm soát được các đối tượng của các giác quan, người ấy là người không còn buông lung. Tính không buông lung giống như tính lưu tâm, nhớ biết hay tỉnh giác tức ‘niệm’, điều mà Phật đã nói là con đường một chiều đi tới tự do. Buông lung là nguồn gốc của cái chết và của sự giam cầm trong luân hồi, trong khi đó tính không buông lung là nguồn gốc của vô tử hay niết bàn. Những người nào mà trước đây buông lung và sau đó không buông lung, như Nanda và Angulimala, đều có thể hoàn thành mục tiêu của tự do.
Bằng cách phân tích và hiểu biết các đối tượng của các giác quan được nhận thức và đồng hóa như thế nào bởi tâm thức, chúng ta có thể dọn dường cho chánh kiến nói theo vô thường và vô ngã, đồng thời hướng sự kiểm soát về các đối tượng giác quan hay thay đổi bất thường. Cuối cùng, chúng ta có thể hoàn thành tính không buông lung, nó là chìa khóa cho việc thay đổi sự hiện hữu của chúng ta từ một vật bị khống chế bởi các phiền não thành một vật được thanh tịnh và trở nên cao quí.
Trang 322. Chúng ta có thể bắt đầu việc phân tích các quá trình tư tưởng của mình bằng cách xem xét vị trí của chúng trong kinh nghiệm của chúng ta. Thử so sánh cuộc đời như là một con sông, với nơi phát nguyên và cửa sông của nó. Giữa sanh và tử, giữa nguồn sông và cửa sông, có sự tiệm tiến nhưng không có tướng trạng. Nói theo Vi diệu pháp, chết và sống là yếu tố ‘kết hợp’ (patisandhi), suốt cả cuộc đời là một ‘tiềm thức tiệm tiến’ (bhavanga--xin xem lại thêm ở trang 154), và chết là ‘bỏ đi’ (chuti). Ba yếu tố này có chung một điểm: đối tượng của chúng là tâm thức cuối cùng của cuộc đời trước đó. Ðối tượng này quyết định chúng thành những yếu tố cho kết quả thiện hay bất thiện của tâm thức.
Trong đoạn văn này, một điều quan trọng phải nhớ rằng dòng nước tiềm thức của cuộc đời (bhavanga) chảy cùng với nghiệp quả của một cuộc sống nào đó, đã cho nó các đặc tính tổng quát và kéo dài nó cho đến khi nó bị gián đoạn và cạn kiệt. Vì thế quá khứ, hiện tại và tương lai của cuộc đời một cá nhân được hợp lại không chỉ có tính cách tâm thức (tức sự kéo dài mãi không dứt của patisandhi, bhavanga và chuti), mà cả tiềm thức nữa (tức chỉ một mình bhavanga thôi). Yếu tố tiềm thức trong cuộc đời miên viễn duy trì sự liên tục và kéo dài cuộc sống ngay cả khi không có các quá trình tư tưởng hữu thức, thí dụ như trong giấc ngủ không có giấc mơ và những lúc vô ý thức như hôn mê. Giữa các quá trình tư tưởng hữu thức, tiềm thức bhavanga tự xác định cho nó và duy trì sự kéo dài của cuộc sống.
Ðể tóm tắt, cuộc đời của chúng ta bắt đầu với yếu tố kết hợp hay nối liền có ý thức (patisandhi). Nó nối cuộc đời trước đây với cuộc đời này. Nó kéo dài suốt cuộc đời bằng yếu tố tiềm thức của cuộc đời miên viễn (bhavanga) và nó chấm dứt với sự rời bỏ đi (chuti) và một lần nữa nó lại kết hợp (dưới hình thức patisandhi) với cuộc đời sau đó.
Trang 323. Tâm thức, đối lại với tiềm thức (bhavanga), sinh ra như là một hiện tượng đề kháng và ‘‘để quậy’’ (cho xung động). Nói một cách khác, bhavanga tiếp tục là tiềm thức cho đến khi nó bị gián đoạn hay ngăn trở bởi một vật khác, như khi chúng ta ngăn một cái đập ngang qua sông và thấy rằng dòng sông bị ngăn chận lại, hay tùy thuộc một dòng điện đề kháng và có hiện tượng ánh sáng sinh ra. Sự tiếp xúc giữa bhavanga và vật đó cho ra một kết quả đề kháng, và sự đề kháng này gây sự xung động, nó lần lượt cho kết quả là một quá trình tư tưởng có ý thức.
Các quá trình tư tưởng sinh ra do kết quả của sự gián đoạn đó là: 1. các quá trình tư tưởng vật chất điều hành qua 5 cửa giác quan (mắt, tai, mủi, lưỡi và thân), 2. các quá trình tư tưởng tinh thần điều hành qua ý, cơ quan thứ sáu. Các quá trình tư tưởng vật chất đuợc quyết định bởi cường độ, hay tác động của sự vật đem lại sự gián đoạn của dòng đời miên viễn. Với nghĩa này, sự ngăn trở lớn nhất sẽ gây ra quá trình tư tưởng dài nhất, và sự ngăn trở nhỏ nhất sẽ gây ra quá trình tư tưởng ngắn nhất.
Có 4 loại quá trình tư tưởng vật chất, từ một quá trình có 17 thoáng tư tưởng đến một quá trình không đạt được điểm quyết tâm hay nhận ra đối tượng. Có 2 loại quá trình tư tưởng tinh thần: một, có tên là ‘rõ ràng’, nó có khả năng nhớ mọi chuyện, từ giai đoạn đầu cho đến giai đoạn cuối của quá trình tư tưởng đó; hai, có tên là ‘tối tăm’, nó chấm dứt trước giai đoạn khả năng nhớ mọi chuyện. Tùy thuộc vào cường độ của sự ngăn chận đoạn tiềm thức của dòng đời miên viễn mà chúng ta có một quá trình tư tưởng mạnh hơn, dài hơn hoặc yếu hơn, ngắn hơn.
Chúng ta hãy xét đến 17 thoáng tư tưởng mà đây là tiến trình dài nhất trong số tất cả các quá trình tư tưởng, cả về vật chất lẫn tinh thần. Xin nhớ rằng mỗi thoáng trong 17 thoáng tư tưởng này kéo dài dưới một phần tỷ thời gian so với cái nháy mắt. Vì thế khi đức Phật nói rằng một sinh vật chỉ chịu đựng một độ dài bằng một thoáng của tư tưởng, ý muốn nói là một đoạn thời gian cực kỳ ngắn.
Trang 324. Cái đầu tiên của 17-thoáng-tư-tưởng hay 17-thoáng-nghĩ trong một ý tưởng là ‘nhập’ (entry) nói đến một vật có tác động đến dòng đời không ngừng nghĩ, giống như việc ngăn đập vào ‘dòng sông cuộc đời’.
Thoáng thứ hai có tên là’rung động’ (vibrating) vì sự nhập vào dòng đời miên viễn tạo nên một dao động.
Thoáng thứ ba là thoáng ‘ngăn chận lại’ (arresting) vì tại điểm này vật cản làm gián đoạn hay ngăn chận dòng đời miên viễn.
Tới đây ta có thể hỏi làm sao mà dòng đời miên viễn (bhavanga), cùng với đối tượng riêng trước đó đã kết hợp (patisandhi) và yếu tố mục nát (chuti), lại có một đối tượng thứ hai dưới hình thức của một đối tượng vật chất có các giác quan. Ðiều này được cắt nghĩa bằng một thí dụ. Buddhaghosa đã nói rằng, việc một hạt đường trong số nhiều hạt đường trên mặt trống bị rung động gây ảnh hưởng một con ruồi đậu trên một hạt đường khác cũng giống như các loại vật chất gây cho 5 giác quan và tác động ảnh hưởng đến bhavanga.
Một khi 3 thoáng tư tưởng này xảy ra, vật ấy nhập vào phạm vi tâm thức. Nó diễn ra qua thoáng tư tưởng thứ tư, đó là thoáng của ‘thức chuyển sự chú ý’. Trong trường hợp của các quá trình tư tưởng vật chất, thức này có thể là một trong năm căn mắt, tai, mủi, lưỡi, thân.
Việc diễn ra này được theo sau bởi thoáng thứ năm, ‘thức tưởng’, mà nó có thể là một trong năm thức: nhãn thức, nhĩ thức,v.v....
Lần lượt nó được theo sau bởi thoáng thứ sáu, ‘thức thọ’; thoáng thứ bảy ‘thức quán’, thức thứ tám ‘thức quyết định’. Chính thức quyết định này nhận diện và thừa nhận đối tượng.
Trang 325. Thức quyết định này theo sau bởi 7 thoáng ‘thức thúc giục’ (javana) nó có nhiệm vụ chạy suốt qua sự vật, nhờ vậy đồng hóa hoàn toàn đối tượng thành (tâm) thức.
Hai thoáng cho kết quả sau cùng thuộc thức nhớ toàn bộ. Bảy thoáng ‘thức thúc giục’ thuộc thức chủ động gây nghiệp lực vừa thiện vừa bất thiện. Riêng các thoáng thức gây kết quả hay nhớ toàn bộ cũng vừa thiện vừa bất thiện.
Vì mục đích thực tập, ta nên nhớ một điều quan trọng là: tại mỗi điểm trong 17 thoáng tư tưởng này, ta có thể hành động tự do, cái quả có thể tốt hơn cũng có thể xấu hơn. Ba thoáng thức bhavanga (tiềm thức) thuộc thức gây kết quả. Thức chuyển sự chú ý và thức quyết định là bất động. Thức tưởng thuộc thức gây kết quả. Vì thế 7 thoáng thức thúc giục (javana) là những thoáng tư tưởng chủ động gây nghiệp lực. Cái đầu tiên của 7 thoáng này quyết định 6 thoáng kế tiếp, vì thế nếu nó thiện, những cái còn lại là thiện; nếu nó bất thiện, những cái còn lại là bất thiện.
Chính tại điểm này mà khi thức quyết định được theo sau bởi ‘7 thoáng thúc giục’ mà các tình trạng gây kết quả và bất động nhường chỗ cho các tình trạng chủ động. Ðây là điểm rất quan trọng trong cá quá trình tư tưởng, bởi vì người ta không thể thay đổi đặc tính của các tình trạng gây kết quả hay bất động nhưng có thể thay đổi đặc tính của các tình trạng chủ động, chúng có tiềm năng nghiệp quả thiện hoặc bất thiện. Ngay khi các thoáng ‘thức thúc giục’ bắt đầu, có hay không có sự khôn khéo chú ý là điều rất quan trọng. Nếu có thì khả năng của các thức thúc giục lớn hơn; nếu không có, các thức thúc giục bất thiện có cơ chiếm ưu thế hơn.
Trang 326. Sự thực thì đối tượng của 17 thoáng tư tưởng không quan trọng lắm vì đối tượng này, dù tốt hay không tốt, cũng không quyết định được 7 thoáng thúc giục thiện hay bất thiện. Bạn có thể nhớ lại trường hợp của Elder Tissa (xem Chương 23): tình cờ, người con dâu của một gia đình nào đó, sau khi cải nhau với chồng, mặc quần áo và nữ trang đẹp nhất sửa soạn trở về nhà cha mẹ ruột. Khi nàng đi ngang qua nhà Vị Trưởng Lão Tissa, với một bản chất bất kính, nàng buộc ra một tràng cười lớn. Thấy được răng lợi của cô ta, Tissa phản ứng theo cái ý tưởng của sự hôi thối của thân thể, và nhờ sức mạnh của thức tưởng này mà ngài dã đắc quả A la hán ngay tại chỗ. Khi người chồng tìm đến hỏi ngài có thấy người đàn bà nào đi ngang qua đây không, vị A la hán đã trả lời rằng ông không biết đó là đàn ông hay đàn bà mà chỉ biết rằng ông đã thấy một đống xương biết đi.
Câu chuyện này cho biết rằng dù bản chất của ‘thức quyết định’ (tức thoáng thứ 8) thế nào đi chăng nữa, 7 thoáng ‘thức thúc giục’ có thể là một cơ hội để đắc được quả A la hán hoặc tích lũy thêm để tiêu trừ các thoáng thức đã bị nghiệp bất thiện trong tiền kiếp. Ðối với một người đàn ông không phải là Tissa, cái tiếng cười của một phụ nữ có thể làm nẩy sinh các xung động có cội rễ dâm dục hơn là những xung động dẫn đến việc thực hiện được quả A la hán. Vì sự có khôn khéo chú ý hay không khôn khéo chú ý quyết định được giá trị nghiệp quả của các thoáng thúc giục, nên chúng ta cần áp dụng triệt để hầu làm giảm bớt các cơ hội xung động (hay thúc giục) bất thiện nổi lên và tăng lên các cơ hội thiện lành của thức thúc giục.
Tôi xin kết luận bằng cách dẫn dụ một câu chuyện phổ biến của Buddhaghosa trong Con đường Thanh Tịnh (Visuddhi Magga) để chứng minh 17 thoáng thức trong một quá trình tư tưởng. Giả dụ một người đang ngủ ở dưới cội cây xoài đầy trái chín. Một trái xoài rớt xuống đất. Tiếng rơi của quả xoài rót vào tai. Người ấy thức dậy, mở mắt và thấy trái xoài chín trong tầm với của mình. Anh ta vói lấy, bóp bóp trái xoài, ngửi nó và ăn.
Cái quá trình toàn bộ này chứng minh 17 thoáng thức khi phân biệt về một vật. Âm thanh của trái xoài rơi có tác động đến tai của người giống như 3 thoáng của bhavanga--nhập, xung động và ngăn chận lại (hay gián đoạn). Khi anh dùng mắt mình và định chỗ được trái xoài, nó giống như các thoáng thức chuyển sự chú ý và phân biệt; khi anh vói tay lấy quả xoài cho đến lúc cầm lấy; khi anh bóp bóp trái xoài và xem xét; khi anh ngửi nó, cho đến lúc quyết định; khi anh ăn nó và biết ngon, cho đến lúc 7 thoáng của thức thúc giục; và ta có thể thêm rằng (dù Buddhaghosa không nói) khi trái xoài đang được tiêu hóa, nó giống như 2 thoáng ‘thức nhớ toàn bộ’ của kết quả có được.
Nếu được phân tích các quá trình tư tưởng một cách cẩn thận và thành thạo qua sự chú tâm, việc này có thể cho ta kết quả để hiểu biết thật sâu sắc về bản chất tuyệt đối của sự vật là vô thường và vô ngã. Sự phân tích này cũng có thể dẫn đến sự hiểu biết rõ ràng về các đối tượng của các giác quan, cái kết quả của nó là sự vô tư, an lạc và tự do. Vì thế, chúng ta nên áp dụng kiến thức đạt được về tính nhất thời, luôn bị ảnh hưởng của các quá trình tư tưởng và phân biệt vào cuộc sống hằng ngày của mình. Mục đích là để tìm ra một sự hiểu biết và sự chú ý một cách khôn khéo hầu giúp chúng ta tăng thêm các cơ hội cho tiềm năng nghiệp thiện và giảm thiểu các dịp phát triển nghiệp bất thiện. Nếu làm được chuyện này là ta đã đi được một bước thật quan trọng trong việc nới rộng việc nghiên cứu Vi diệu pháp (Abhidharma) từ một phạm vi đơn thuần tri thức qua một phạm vi thực hành cho kinh nghiệm.
--o0o--