|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Cây Giác-Ngộ
The Tree of
Enlightenment.
-
Chương 38
- (Trang
328 - 332)
-
Phân tích về Sắc (pháp)
-
Analysis of Matter.
-
~~~~~~~
-
Nói đến Vi diệu pháp (Abhidharma) thì người ta cho là phải giải
quyết 4 thành phần độc lập cơ bản: thức (chitta, consciousness),
tâm hành (chetasika), sắc (rupa) và niết bàn. Sắc (pháp) chia xẻ
với thức và tâm hành cái bản thể của một thực tướng đã bị điều
kiện hóa, trong khi niết bàn là một thực tướng chưa bị điều kiện
hóa. Trong việc xét 3 thực tế đã bị điều kiện hóa trên, chúng ta
có thể đồng thời xét lại vấn đề ngủ uẩn của phần tâm sinh lý.
-
Ðiều này quay trở lại vấn đề chúng ta đã nói trong chương 33 về
sự liên hệ giữa chủ thể và đối tượng, tâm và sắc. Nói một cách
khác, ta còn 2 yếu tố: chủ thể (tinh thần) và đối tượng (vật
chất). Một mặt chúng ta có tâm (mind) và tâm hành (tức
thọ, tưởng, hành, thức), mặt khác chúng ta có đối tượng, tức
sắc (form hay matter).
-
Trong bối cảnh Vi diệu pháp, điều quan trọng phải nhớ là, sắc
không phải là một cái gì tách rời khỏi tâm (thức). Thực ra, tâm
và sắc có thể được gọi là những hình thức kinh nghiệm chủ thể và
đối tượng. Chúng ta sẽ thấy chính xác và đúng đắn hơn khi hiểu
tứ đại (đất, nước, lửa, gió) là phẩm chất hơn là bản chất của
sắc. Phật giáo, đúng ra là Phật học (Buddhology), có một đường
lối thực tế theo hiện tượng học, nên sắc chỉ quan trọng vì nó là
một đối tượng của kinh nghiệm ảnh hưởng thực thể tâm lý của
chúng ta. Trong khi một vài hệ thống khác xác nhận một nhị
nguyên cấp tiến tuyệt đối, một sự mổ xẻ tâm và thân. Trong Phật
học chúng ta chỉ có những hình thức kinh nghiệm chủ thể và đối
tượng.
-
Trong việc phân loại và liệt kê sắc trong Vi diệu pháp, sắc được
chia ra thành 28 yếu tố. Bốn yếu tố chánh, hay bốn cốt lõi của
sắc, được gọi là đất, nước, lửa, gió. Tuy vậy, tốt hơn nên gọi
đất là ‘qui luật mở rộng hay đối kháng’, nước là ‘qui luật kết
chặt’, lửa ‘qui luật của nhiệt’ và gió là ‘qui luật chuyển động’
Ðây là 4 chất xây dựng chính yếu của sắc. Từ chúng, sinh ra 5
giác quan thuộc vật chất cùng đối tượng của chúng.
-
Trang 329. Trong bàì này cũng như trong bài nói về ngủ uẩn, sắc
không những chỉ cho thân thể ta, mà còn chỉ cho các pháp đối
tượng kinh nghiệm bên ngoài. Ngoài các giác quan và các pháp của
chúng, sắc cũng hiện diện trong giống đực và giống cái, trong
tim hay nguyên tắc của sự sống và trong dinh dưỡng. Còn có 6 yếu
tố sắc nữa, đó là: qui luật không gian, hai qui luật thông tin
(thân và khẩu), ánh sáng, sự mềm mại và thích ứng. Cuối cùng, có
4 yếu tố được gọi là ‘các đặc tính’: thành (sanh), trụ (bền),
hoại (hủy) và diệt (đoạn).
-
Vì
thế có tất cả 28 thành phần (kinh nghiệm) vật chất (tức sắc): tứ
đại, ngủ quan và các pháp tương ưng, nhị phái tính, sinh khí,
dinh dưỡng, không gian, hai hình thức thông tin, ánh sáng, mềm
mại, thích ứng và 4 đặc tính thành trụ hoại diệt.
-
Chúng ta hãy xét kỹ hơn về Tứ đại theo nghĩa thực tế của chúng,
tức các phẩm chất của giác quan. Xin nhớ là, khi nói đến sắc, ta
không nói đến chính đất, nước, lửa gió mà nói đến ý nghĩa phẩm
chất đất nước lửa gió của các giác quan--các phẩm chất mà ta có
thể cảm thấy và sinh ra kinh nghiệm của sắc. Thí dụ khi nói đến
các phẩm chất cứng và mềm của giác quan thì ta muốn nói đến qui
luật mở rộng; ấm áp và lạnh lẽo, thuộc về qui luật sức nóng.
Chúng ta không bàn đến bản thể mà chỉ bàn đến phẩm chất.
-
Trang 330. Ðiều này có nghĩa là chúng ta bàn đến vấn đề sắc hoàn
toàn có tính cách hiện tượng học, trong đó các phẩm chất giác
quan tạo thành các thành phần độc lập cơ bản. Nói một cách khác,
nó không phải là cái bàn này hay thân xác của tôi
mà chính là các phẩm chất cứng và mềm của chúng sản sinh ra kinh
nghiệm của sắc. Trong bài này, các pháp của kinh nghiệm (như cái
bàn này và thân xác của tôi) là những thực tế có tính cách qui
ước, trong khi các phẩm chất giác quan của tính cứng và mềm,
v.v...sản sinh ra kinh nghiệm của sắc là những thành phần độc
lập cơ bản.
-
Ðiều này được gọi trong triết học là ‘quan điểm cách thức’, một
quan điểm nhắm vào các phẩm chất của kinh nghiệm hơn là bản thể
của nó. Ði tìm cái bản thể của sắc là đi vào thế giới của suy
đoán, đi ra ngoài kinh nghiệm thực nghiệm của chúng ta; còn bàn
đến các phẩm chất của sắc là ta giới hạn mình vào hiện tượng và
kinh nghiệm mà thôi. Ðiều đáng quan tâm là ‘quan điểm cách thức’
của sắc được chia xẻ bởi một số triết gia đương thời mà Bertrand
Russell có thể là người nổi tiếng nhất trong số đó. Các khoa học
gia đã thừa nhận sắc là một hiện tượng, là không thể đạt được
bản thể của sắc, và điều này đã được chứng minh bởi việc khám
phá ra ‘khả năng có thể chia chẻ một cách vô tận’ của nguyên tử.
-
‘Quan điểm cách thức’ của một thực tướng có một ý nghĩa quan
trọng khác nữa: đối với thực tướng của một vấn đề, một khi chúng
ta giới hạn cái nhìn thuần hiện tượng học và thực nghiệm thì vấn
đề của thế giới bên ngoài, tức bên ngoài cái giới hạn kinh
nghiệm của mình, sẽ không xảy ra. Một khi thế giới ngoại vi xảy
ra cho kinh nghiệm về sắc, thì nó chỉ thuộc phạm vi khách quan
và vật chất của kinh nghiệm của ta, chứ không phải là một thực
tế độc lập tự nó có.
-
Trang 331. Ở cấp đẳng riêng tư, sự hiện hữu tâm sinh lý của ta
được tạo nên bởi 2 thành phần: tinh thần (tâm) và vật chất
(thân). Tâm và thân khác nhau về tính chất ở một mức độ nào đó:
tâm thì thích nghi và thay đổi được hơn là thân. Phật đã có lần
nói rằng chúng ta có thể đúng nếu xem thân là cái ngã hơn là cái
tâm, vì cái thân ít nhất duy trì được những đặc điểm có thể nhận
ra trong một thời gian dài hơn.
-
Chúng ta có thể chứng minh sự thật này qua kinh nghiệm riêng của
từng người. Ðầu óc ta thay đổi mau hơn thể xác. Chẳng hạn, tôi
có thể quyết định tự chế không ăn thức ăn bột và dầu, nhưng sẽ
phải tốn một thời gian đáng kể để phản ảnh điều đó lên trên thân
thể tôi. Thân đề kháng sự thay đổi hơn tâm, và điều này tương
ứng với đặc tính của đất, được đại diện trong qui tắc đề kháng.
Thân là sản phẩm của nghiệp quá khứ, thức quá khứ, và cũng là
căn bản của thức hiện tại. Ðiều này nằm ngay ở chính sự băn
khoăn lo lắng mà nhiều bậc trí thức đã cảm thấy về thân. Một
triết gia nổi tiếng, Plotinus, đã từng nhận xét rằng ông ta cảm
thấy như một tù nhân trong cái thân xác của mình, cái thân xác
mà ông xem giống như nấm mồ.
-
Ðôi khi chúng ta thích ngồi thiền lâu hơn nếu không vì sự khó
chịu của thân thể. Ðôi khi chúng ta muốn làm việc lâu hơn một
chút để thức xem một chương trình truyền hình đặc biệt nhưng
không thể làm được vì sự mệt mỏi của cơ thể. Có một sự dằn co
giữa tâm và thân vì sự kiện: thân là cái hình thức vật chất hóa
của nghiệp quá khứ, và vì đặc tính của thân là đề kháng nên nó
phản ứng chậm đối với những hành động không bị ép buộc hơn là
tâm. Vì thế, thân xác, với một ý nghĩa nào đó, là vật chướng
ngại làm cản trở sự phát triển tinh thần.
-
Chúng ta có thể thấy điều này rõ ràng trong trường hợp của những
người đã được giải thoát. Trong ‘Câu hỏi của vua Milinda’, vua
hỏi Na Tiên Tỳ kheo (Nagasena) là các vị A la hán có chịu đựng
đau đớn được hay không. Nagasena trả lời rằng dù A la hán không
còn phải chịu đau khổ về tinh thần, họ vẫn phải chịu đau khổ về
thể xác. Họ không còn khổ về tâm vì các cơ sở căn bản về tham
sân si không còn hiện diện, nhưng họ vẫn bị đau khổ về thân ngày
nào cái căn bản của thân còn hiện hữu. Chỉ khi nào một vị A la
hán nhập niết bàn, ’niết bàn vô lậu’, tức không còn các cá tính
tâm sinh lý--thì vị ấy không còn đau khổ về thân xác. Ðây là lý
do tại sao, trong các lời kể lại về cuộc đời của Phật và của các
vị đệ tử của ngài, có nhiều lần họ phải chịu đau khổ về thân
xác.
-
Trang 332. Thân xác có một vị trí trung gian đặc biệt, ở chỗ nó
là sản phẩm của tâm thức quá khứ và cơ bản của tâm thức hiện
tại. Vị trí trung gian này cũng phản ảnh sự kiện là một vài phần
thuộc về thân thể là có ý thức và có thể được kiểm soát bởi hành
động của ý chí, trong khi một số khác không có ý thức và phản xạ
tự động. Thí dụ tôi có thể quyết định ăn thêm một dĩa đồ ăn nữa,
nhưng chính là phần thân thể không ý thức mới tiêu hóa hay không
tiêu hóa được bữa ăn: tôi không thể bắt buộc thân xác tôi tiêu
hóa nó được.
-
Thở cũng là một điển hình của vị trí trung gian của thân thể,
bởi vì thở có thể vừa là phần không ý thức lại vừa là phần có ý
thức, nếu được thực tập điều chỉnh cho mục đích thân được an tâm
được lạc. Trong việc hài hòa hỗn hợp thân và tâm, ta cần nhớ một
điều là tâm biểu hiện cho nguyên tắc năng động, có thể biến đổi
và tự ý quyết định, trong khi thân xác đại diện qui luật đề
kháng. Chính vì vậy, thân xác không thể nào thay đổi mau lẹ như
cái tâm trong tiến trình phát triển và giải thoát.
--o0o--
|
|