|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Cây Giác-Ngộ
The Tree of
Enlightenment.
-
Chương 39
- (Trang
333 - 340)
-
Phân Tích tính Tương hợp
-
Analysis of Conditionality.
-
~~~~~~~
-
Việc phân tích tính tương hợp (hay tương duyên hoặc phụ thuộc
nhau) cũng quan trọng như việc phân tích (tâm) thức và các lãnh
vực thuộc kinh nghiệm tâm sinh lý mà chúng ta đã xét trong một
vài chương sau cùng. Việc làm này thường bị xao lãng trong khi
nghiên cứu Vi diệu pháp (Abidharma). Ðây là chuyện nghịch lý nếu
bạn nhớ rằng, trong số bảy bộ sách Luận tạng thuộc phái Thượng
Toạ bộ (xin xem ‘Duy thức học’ của Thích Quảng Liên, trang 25),
quyển Các Liên Hệ Nhân Quả (Patthana: Phát thú Luận), đề cập đến
tính tương hợp, là một trong những quyển đầy đủ nhất. Chỉ có
cách dành đủ thời giờ chú tâm cho việc phân tích tính tương hợp
này thì chúng ta mới có thể tránh được cái bẫy của khuynh hướng
phân tích quá mức. Tôi đã nói về việc này trong Chương 32, khi
dành một số thời gian xem xét và so sánh các phương pháp điều
tra theo lối phân tích và tương hợp, chúng cùng nhau tạo thành
một phương pháp toàn diện cho triết lý Vi diệu pháp.
-
Có
thể lối phân tích của Vi diệu pháp đã nhận được sự chú ý nhiều
hơn là lối tương hợp, nên ta mới thấy triết lý Vi diệu pháp được
phân loại là ‘đa nguyên thực tế’ bởi một số học giả. Sự phân
loại như thế đánh thức tất cả các hiệp hội trong phong trào
triết học tây phương hiện đại, như phong trào triết lý thực
chứng (positivism) và việc làm của Bertrand Russell. Ðiều đó ngụ
ý rằng, kết quả của việc phân tích Phật giáo là một vũ trụ trong
đó các thực thể cá nhân, vừa tách rời vừa tự tồn tại trong chính
chúng một cách tuyệt đối. Tuy điều này có thể chỉ là quan niệm
của vài trường phái Phật giáo nguyên thủy ở Ấn độ, nhưng chắc
chắn nó không phải là quan niệm chánh của Phật giáo, dù Nam
truyền hay Bắc truyền.
-
Trang 334. Cách độc nhất chúng ta có thể tránh được khuynh hướng
đa nguyên nhưng tản mạn này là, đúng ra phải nói đến phương cách
tương hợp được phác họa trong quyển ‘Nói về Nhân Quả’ (Patthana)
và cũng được phát triển trong ‘Tập Trích yếu về tính Tổng hợp’
(tức Thắng pháp luận-Abhidhammattha Sangaha). Làm được việc này,
chúng ta sẽ hoàn thành được một quan điểm đứng đắn và cân bằng
về triết học Phật giáo, một quan niệm về kinh nghiệm tĩnh và
phân tích cũng như động và tương hợp.
-
Sự
quan trọng trong việc hiểu biết tính tương hợp (hay tương duyên
hoặc phụ thuộc nhau) rõ ràng được nói đến trong chính lời giảng
của Phật. Vào một số dịp, Phật đặc biệt kết hợp sự hiểu biết của
tính tương hợp (hay thuyết duyên khởi) với việc đắc quả giải
thoát. Ông nói rằng chính vì không hiểu được thuyết duyên khởi
mà chúng ta mới còn phải lang thang trong vòng tái sanh liên
tục.
-
Việc giác ngộ của đức Phật thường được mô tả là bao gồm sự thấm
nhuần kiến thức thuyết Duyên khởi. Việc không hiểu biết sự liên
hệ chặt chẽ và rốt ráo giữa thuyết Duyên khởi với giác ngộ, được
dẫn chứng thêm trong Kinh Tạng và Luận Tạng, là do không hiểu
biết (vô minh) về Tứ Diệu Ðế hoặc thuyết Duyên khởi. Ðề tài làm
cơ sở cho thuyết Tứ Diệu Ðế và thuyết Duyên khởi là tính tương
duyên hay thuyết nhân quả, là sự liên hệ tương hợp giữa nhân và
quả. Vì thế kiến thức về tính tương duyên cũng có nghĩa là không
còn mê lầm gì nữa (tức vô minh bị triệt tiêu) và đạt được giác
ngộ.
-
Sự
phân tích tính tươn hợp trong Vi diệu pháp (Abidharma) được diễn
ra dưới 2 tiêu đề: 1. phân tích thuyết duyên khởi, và 2. phân
tích 24 duyên. Chúng ta sẽ xét chúng riêng lẻ, sau đó chung hợp
nhau, để thấy chúng tương tác, hỗ trợ và thông đạt với nhau như
thế nào.
-
Tôi sẽ không giải nghĩa từng cái một trong 12 thành phần của
thuyết duyên khởi ở đây, vì chúng đã được nói rõ trong Chương
10. Tuy nhiên, tôi xin lưu ý ngắn gọn 3 phương thức căn bản
trong việc giải thích thuyết thập nhị nhân duyên này: 1. cách
phân chia 12 thành phần qua 3 cuộc đời--quá khứ, hiện tại và vị
lai; 2. cách phân chia các thành phần theo phiền não, hành động
và đau khổ; và 3. cách phân chia các thành phần thành các loại
chủ động (nhân) và phản hồi (quả). Trong phương thức thứ ba, vô
minh, hành (tập khí huân tập từ đời quá khứ), ái, thủ, hữu thuộc
loại nhân và có thể thuộc về đời quá khứ hay hiện tại; trong khi
thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão và tử thuộc loại
quả và có thể thuộc về đời hiện tại và vị lai. Ðây là sự phân
tích nhân và quả, hay tính tương duyên, trong công thức của
thuyết duyên khởi.
-
Trang 335. Hai mươi bốn duyên không có ý nghĩa độc lập từng cái
một. mà phần lớn đều có thể gối lên nhau và nhận được ra nhau.
Mặc dầu không muốn bỏ sót một mối nào đó trong tính tương duyên
hay phụ thuộc nhau này, nhưng lòng mong muốn của tôi là chúng ta
không nên quên tính toàn bộ tuyệt đối của nó.
-
Chúng ta hãy xét lần lượt từng cái một trong 24 điều kiện
(duyên): nhân, điều kiện (duyên) khách quan, ưu thế, tiếp giáp,
sinh khởi đồng thời, nhân nhượng lẫn nhau, hỗ trợ, hỗ trợ quyết
định, tiền hiện hữu, hậu hiện hữu, sự lập lại, nghiệp, quả, thức
ăn bổ dưỡng, kiểm soát, thẩm thấu, con đường, kết hợp, tách rời,
hiện diện, vắng mặt, tách riêng và không tách riêng.
-
Cần phải phân biệt nhân (hay nhân gốc, tức căn để) với duyên.
Trong Luận tạng và Kinh tạng, hai từ này được dùng hoán đổi nhau
thường xuyên. Nói chung, ta có thể phân biệt chúng bằng cách
dùng thí dụ lấy từ thế giới vật chất: trong khi hạt giống là
nhân của mầm thì những yếu tố như nước, đất và ánh sáng là những
điều kiện (duyên) của mầm đó.
-
Theo cách giải thích của Vi diệu pháp về tính tương duyên,
‘nhân’ điều hành trong phạm vi tinh thần và nói đến 6 căn gốc
thiện và bất thiện: vô tham, vô sân, vô si và những đối tác của
chúng là tham, sân, si.
-
Trang 336. ‘Ðiều kiện khách quan’ ám chỉ đến đối vật (pháp) tạo
ra kinh nghiệm. Chẳng hạn, sắc trần là điều kiện khách quan
(duyên) của nhãn thức. ‘Ưu thế’ dụ đến 4 loại hoạt động tinh
thần hay các hoạt động tự nguyện--mong cầu, tư tưởng, cố gắng và
lý lẽ. Chúng ảnh hưởng vào các yếu tố kinh nghiệm hơn tất cả.
-
‘Sự tiếp giáp’ và ‘gần gũi’ gần như đồng nghĩa với nhau và dụ
đến sự tác động của một ‘thoáng tư tưởng’ này vào một ‘thoáng tư
tưởng’ có trước đó. Sự tiếp giáp và gần gũi cũng dụ đến sự tương
duyên của một tâm trạng hay tướng trạng vào một tâm trạng hay
tướng trạng có trước đó. Chúng ta có thể hiểu điều này rõ hơn
nếu nghĩ đến sự tiếp giáp và gần gũi tương đương với ý nghĩa về
thời gian và không gian.
-
Tính ‘sinh khởi đồng thời’ có thể được xét trong trường hợp của
các uẩn ‘thọ, tưởng, hành, thức’ và trong trường hợp của tứ đại
đất, nước, gió, lửa. ‘Tương nhượng’ dụ đến sự tùy thuộc hỗ tương
và tương duyên với nhau. ‘Hỗ trợ’ là điều căn bản cho bất cứ yếu
tố đặc biệt nào, tỷ như đất giúp sức hỗ trợ cho cây phát triển,
khung vải dùng làm khung hỗ trợ cho một bức vẽ. Nhưng khi sự hỗ
trợ giản dị trở nên có tính cách quyết định tức ‘hỗ trợ quyết
định’, ta nên hiểu đó là sự tác động với một chiều hướng đặc
biệt. Ta sẽ hiểu rõ ràng hơn khi xét đến 24 phương thức của tính
tác động vận hành như thế nào đối với thập nhị nhân duyên.
-
Trang 337. ‘Tiền hiện hữu’ nói đến các yếu tố đã có mặt trước đó
vẫn được tiếp tục hiện hữu. Thí dụ: các giác quan và đối tượng
của chúng là tiền hiện hữu (tức căn và trần), chúng tiếp tục
hiện hữu và nhờ thế quyết định kinh nghiệm về tinh thần và vật
chất theo sau đó. ‘Hậu hiện hữu’ bổ túc tiền hiện hữu và dụ đến
sự hiện hữu của các yếu tố theo sau, như kinh nghiệm tinh thần
và vật chất. Sau đó, chúng tác động ngược lại các yếu tố tiền
hiện hữu (tức căn trần).
-
‘Lặp lại’ là điều quan trọng trong cuộc sống tinh thần và dẫn
đến kỹ năng hành động theo thói quen. Ðiều này đã được thấy rõ
trong 7 thoáng của thức thúc giục (xem lại chương 37). ‘Lặp lại’
đặc biệt rất quan trọng trong hành động thiện và bất thiện vì nó
làm tăng thêm sức mạnh của các thoáng tư tưởng thiện và bất
thiện.
-
‘Nghiệp quả’ là ‘hành động không do ép buộc’ (huân tập, tập khí)
của loại thiện và bất thiện. ‘Quả’ là kết quả của nghiệp tiền
kiếp, nó ảnh hưởng và tác động các hiện tượng cùng hiện hữu với
nhau. Một điều đáng quan tâm là ‘quả’ cũng có tác dụng ngang như
nhân, duyên. Ðiều này sẽ rõ ràng hơn nếu chúng ta nhớ rằng chúng
ta đang xét đến ý nghĩa thực dụng hơn là bản chất của các yếu tố
đó.
-
‘Thức ăn bổ dưỡng’ không những dụ đến thức ăn vật chất, là một
trong những điều kiện (duyên) cho thân xác, mà còn là thức ăn
tinh thần, như các ấn tượng. Chúng là những thức ăn tinh thần
cho ‘thọ’ (trong ‘sắc thọ tưởng hành thức’). ‘Kiểm soát’ dụ đến
tự tin, chú tâm (tỉnh thức), v.v...chúng làm chủ và kiểm soát
các nghịch duyên hay nghịch khảo. Sự chú tâm hay ‘Ðịnh’ không
những chỉ sự ‘chú tâm’ trong thiền định mà nó có ý nghĩa tổng
quát hơn, cả thiện lẫn bất thiện. Bạn có thể nhớ rằng các yếu tố
của ‘định’ (jhananga) không hẳn là hoàn toàn thiện như ‘định’
trong thiền định mà còn là một cái duyên tổng quát cho việc tăng
cường tâm thức, dù đó là thiện hay bất thiện. (Xem Chương 34).
-
Trang 338. ‘Con đường’ dụ đến con đường dẫn đến các tình trạng
không vui bao gồm việc thấy sai, cố gắng sai, v.v...và cũng là
Con Ðường Tám Bước (Bát Chánh Ðạo). ‘Hoà hợp’ có nghĩa là sự tác
động hoà hợp nhau của một yếu tố với một yếu tố tương tợ; ‘không
hoà hợp’ là sự ảnh hưởng hoà hợp nhau của hai yếu tố không tương
tợ, như ngọt và đắng, sáng và tối duyên với nhau. Vì thế tính
tác động không phải chỉ có tích cực mà còn tiêu cực nữa. Nói một
cách khác, một yếu tố kinh nghiệm đặc biệt chịu tùy thuộc không
chỉ bởi các yếu tố giống nhau mà còn bởi các yếu tố không giống
nhau.
-
‘Hiện diện’ ám chỉ sự hiện hữu cần thiết của một số điều kiện
(duyên) nào đó để các hiện tượng khác xảy ra. Chẳng hạn, ánh
sáng phải hiện diện cho một vật để phát sinh kinh nghiệm. ‘Vắng
mặt’, ngược lại là một hình thức tiêu cực của tính tác động.
Chẳng hạn, sự biến mất ánh sáng là điều kiện cho sự hiện hữu củă
bóng tối. ‘Tách rời’ và ‘không tách rời’ giống với không kết hợp
và kết hợp.
-
Hai mươi bốn mô thức của tính tác động ảnh hưởng thập nhị nhân
duyên như sau. Chẳng hạn, ‘vô minh’ duyên ‘hành’, tương đương
với hai mô thức của tính tương duyên: ‘điều kiện khách quan’ và
‘hỗ trợ quyết định’.
-
Ðiều này có thể hiểu như sau: ‘Hành’ có thể đáng khen hoặc không
đáng khen, và ‘vô minh’ vận hành như là sự ‘hỗ trợ quyết định’
cho cả hai. ‘Vô minh’ vận hành như là sự ‘hỗ trợ quyết định’ ảnh
hưởng ‘hành’ đáng khen nếu nó do thiền định mà ra, ở chỗ là lòng
mong muốn giải thoát khỏi vô minh khiến bạn thực hành thiền định
v.v...Ngược lại, nếu một tâm trạng bất thiện, như tham (sanh ra
từ vô minh) thành đối tượng của định thì ‘vô minh’ là sự hỗ trợ
quyết định cho ‘hành’ không đáng khen. Nếu bạn làm một hành động
bất thiện (thí dụ lấy cắp một cái bánh), đây là vì vô minh vận
hành như là một cái duyên ‘hỗ trợ quyết định’ khiến cho bạn tạo
ra ‘hành’ bất thiện dựa vào hành động bất thiện. ‘Vô minh’ cũng
có thể duyên ‘hành’ qua ‘tính tiếp giáp’, ‘sự lặp lại’, v.v...
-
Trang 339. ‘Hành’ tạo diều kiện (duyên) ‘thức tái sanh’ qua ngã
‘nghiệp’ và ‘hỗ trợ quyết định’, trong khi ‘thức’ duyên ‘danh
sắc’ qua ngõ ‘tương nhượng’ và ‘hỗ trợ’. Vì thế mỗi một chi của
thập nhị nhân đuyên quyết định chi đứng sau đó trong cùng một
cách giống như 24 duyên sanh. Ta có thể kể ra thêm nhiều thí dụ,
nhưng chúng cũng chỉ lập lại cái cách mà 24 mô thức của tính tác
động ảnh hưởng 12 nhân duyên của thuyết duyên khởi.
-
Mục đích chánh của thuyết duyên khởi và thuyết tương hợp là để
tránh 2 cực đoan sai lầm về đoạn và diệt. Ðức Phật nói rằng:
thấy một người làm ra một hành động và người nhận cái quả của
hành động đó là giống nhau thì đó là một cực đoan; thấy chúng
khác nhau cũng là một cực đoan khác. Ðể tránh 2 cực đoan đó, ông
đã dạy thuyết Trung đạo do sự hiểu biết thuyết duyên khởi và
tính tác động.
-
Nếu chúng ta xét thập nhị nhân duyên dưới ánh sáng của 24 mô
thức của tính tác động, chúng ta thấy rằng tất cả 12 yếu tố đó
là ‘không’ có ngã, mà chỉ là những tiến trình bị duyên bởi những
tiến trình khác, mà trong thực tánh của chúng là ‘không’ ngã và
‘không’ tướng (vô thường). Việc hiểu biết cái ‘không’ của ngã và
cái ‘không’ của tướng này được hoàn thành qua sự hiểu biết
‘thuyết duyên khởi’ hay ‘thuyết tương hợp’ hoặc ‘phụ thuộc
nhau’.
-
Với ý nghĩa này, (tâm) thức của cuộc đời này và (tâm) thức của
cuộc đời sắp tới không giống nhau mà cũng không khác nhau. Khi
ta hiểu được sự liên hệ giữa cuộc đời này và cuộc đời kế
tiếp--giữa một người làm một hành động và người nhận hành động
đó--là một việc không thể mô tả theo tính giống nhau hay khác
nhau: ta đã đạt dược một sự hiểu biết về thuyết Trung đạo.
-
Trang 340. Sự liên hệ giữa cuộc đời này và cuộc đời sau là sự
liên hệ giữa nhân và quả, và sự liên hệ nhân quả là sự liên hệ
không giống nhau cũng không khác nhau. Qua đó, chúng ta có thể
tránh được cả hai cực đoan: cực đoan cho rằng có một cái ngã
vĩnh cửu và cực đoan bác bỏ luật pháp và trách nhiệm đạo đức
(hay nghiệp thức).
-
Chúng ta có thể hiểu sự liên hệ tùy thuộc nhau giữa nhân và quả
rõ ràng hơn bằng các thí dụ trong đời sống hàng ngày. Lấy trường
hợp của hạt giống và mầm. Cái mầm có được từ hạt giống, nhưng
hạt giống và mầm không giống cũng không khác. Chúng hiển nhiên
là không giống, nhưng đồng thời chúng cũng không khác nhau. Cũng
như vậy, khi một âm thanh cho ra một tiếng dội, cả hai không
giống nhau nhưng cả hai cũng không phải là khác nhau. Một thí dụ
nữa, cuộc đời này và cuộc đời kế không giống nhưng cũng không
khác. Ðúng hơn, cuốc đời kế được sinh ra tùy vào cuộc đời này,
(tức) hành và vô minh.
-
Trong tiến trình tùy thuộc nhau, không có cái ngã tồn tại,
thường hằng và giống nhau, nhưng cũng không có sự đoạn diệt của
tính tương tục trong tiến trình nhân và quả. Nếu chúng ta hiểu
rõ sự liên hệ giữa nhân, duyên và quả là một sự liên hệ tổng hợp
không thể cắt nghĩa theo tính giống nhau hay khác nhau, thường
hằng hay đoạn diệt thì chúng ta sẽ hiểu rõ lý ‘tánh không’,
thuyết Trung đạo và cũng sẽ hiểu rõ cái vô ngã và vô thường
tương hợp như thế nào với trách nhiệm đạo đức (đời này) và sự
tái sanh (đời sau).
--o0o--
|
|