-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Con Đường Hạnh
Phúc
- Viên Minh &
Trần Minh Tài
- --- o0o ---
-
- Vô Ngã
-
- Đáng lẽ chúng
tôi không dám bàn đến lý Vô Ngã trong một bài tiểu luận ngắn ngủi
này. Vì đó là một vấn đề thậm thâm vi diệu cần phải thực chứng hơn
là bàn luận suông, vả lại nếu có đem ra nghị luận thì cũng không
thể phân tích mọi khía cạnh của vấn đề một cách chu tất được.
Chúng tôi chỉ mong nêu vấn đề với những ý kiến thô thiển để quý vị
cùng chúng tôi suy nghiệm sâu xa hơn.
- Vô ngã là một
điều mà các nhà học giả từ Âu sang Á, từ cổ chí kim khi nghiên cứu
giáo lý Đức Phật đều phải nhìn nhận là nổi bật nhất trong tư tưởng
nhân loại. Trong khi hầu hết các tôn giáo, các nhà tư tưởng cũng
như các triết gia đều chủ trương thuyết hữu ngã, dưới hình thức
này hay hình thức khác, thì Đức Phật đã phát động một cuộc cách
mạng tư tưởng, bẻ gẫy tất cả những lý cứ mập mờ của bản thể luận.
Ngài đã ngang nhiên phủ nhận cái gọi là Atman của
các tư tưởng hệ Ấn Độ, nhất là của Bà La Môn giáo. Ngài thẳng thắn
gọi bản ngã là Vọng ngã, không có thực thể tuyệt
đối hay bất biến.
- Đoạn kinh sau
đây trong Samyutta Nikaya (Tương Ưng Bộ) đã làm đảo lộn thuyết
thường tại, thuyết đoạn diệt và vô nhân thuyết:
- "Một ngày nọ
Đại Đức Kassapa đến hỏi Đức Phật :
- -- Bạch Đức Thế
Tôn phải chăng đau khổ do ta tạo nên?
- Đức Phật trả
lời:
- -- Không phải
vậy, Kassapa.
- -- Bạch Đức Thế
Tôn, thế thì đau khổ do kẻ khác tạo ra?
- -- Không phải
vậy, Kassapa.
- -- Bạch Đức Thế
Tôn, hay là đau khổ vừa do ta vừa do kẻ khác tạo ra?
- -- Này Kassapa,
cũng không phải vậy.
- Đại Đức Kassapa
lại hỏi:
- -- Bạch Đức Thế
Tôn, có lẽ đau khổ ngẫu nhiên phát khởi?
- -- Này Kassapa,
Như Lai không hề chủ trương như thế.
- -- Bạch Đức Thế
Tôn, có lẽ nào Ngài dạy không có đau khổ hay sao?
- -- Không,
Kassapa, Như Lai xác nhận có đau khổ.
- -- Bạch Đức Thế
Tôn, phải chăng Ngài không thấy và không biết đau khổ?
- -- Này Kassapa,
quả thật Như Lai đã từng thấy và biết đau khổ.
- Lúc bấy giờ,
Đại Đức Kassapa vô cùng ngạc nhiên, vì từ xưa, ai ai cũng nghĩ
rằng Đức Phật dạy: kẻ nào tạo nghiệp ác thì kẻ ấy phải gánh chịu
quả khổ. Hôm nay chính Đức Phật đã phủ nhận tất cả những điều
chúng ta hằng tin tưởng.
- Vì chưa hiểu rõ
lời giáo huấn thậm thâm vi diệu của Đức Phật, nên Đại Đức Kassapa
kính cẩn hỏi tiếp:
- -- Bạch Đức Thế
Tôn, một đàng Ngài dạy đau khổ không do ta tạo nên, không do kẻ
khác tạo nên, cũng không ngẫu nhiên phát khởi, một đàng Ngài xác
nhận có đau khổ và Ngài đã từng kinh nghiệm đau khổ. Thật là bất
khả tư nghị, kính xin Đức Thế Tôn mở lòng từ bi khai thị cho đệ
tử.
- Đức Thế Tôn ôn
tồn đáp :
- -- Nầy Kassapa,
ai bảo rằng người hành động là kẻ nhận lấy kết quả tức là nói rằng
đau khổ của một chúng sanh do chính chúng sanh ấy tạo ra. Đó chỉ
là thường kiến. Ai bảo rằng một người hành
động, một người gặt quả tức là bảo rằng đau khổ của một chúng sanh
do chúng sanh khác tạo ra. Đó cũng chỉ là đoạn kiến.
- Nầy Kassapa,
không theo hai biên kiến đó, Như Lai chủ trương rằng:
"Vì bị chi phối bởi tham lam, sân hận, si mê mà nghiệp hình thành,
đó là căn nguyên của mọi đau khổ. Đoạn diệt được tham, sân, si tức
là hủy diệt động lực hình thành của nghiệp và mọi đau khổ phải
chấm dứt".
- Chúng tôi xin
mạn phép giải thích đoạn kinh trên để quí vị dễ lãnh hội lời giáo
huấn cao siêu của Đức Phật. Trước hết chúng tôi xin nhắc lại, Đạo
Phật bác bỏ thuyết thường tại hay thường kiến.
Thuyết này chủ trương con người hay bên trong con người là một bản
ngã trường cửu bất biến, sau khi chết còn tồn tại mãi mãi. Mặt
khác, Đạo Phật cũng phủ nhận cả thuyết đoạn diệt hay đoạn
kiến, chủ trương sau khi chết là hết và như thế người tạo
nhân không thể nào gặt quả được.
- Như thế nếu bảo
rằng người tạo nghiệp chính là người gặt quả, có nghiã là lúc tạo
nghiệp và lúc gặt quả người ấy vẫn là một, không có gì thay đổi;
đã không thay đổi tức là thường tại, bất biến, điều nầy đạo Phật
gọi là thường kiến.
- Chúng tôi xin
lấy một ví dụ, như mọt người tên A tạo một nhân bất thiện, sau khi
chết người ấy bị đọa vào cảnh khổ, dưới hình thức một súc sanh B
chẳng hạn. Nếu bảo chính người tạo nghiệp sẽ gặt quả khổ, thì ở
đây điều đó đã bị chứng minh sai, vì rõ ràng là người tên A tạo
nghiệp mà chúng sanh B gặt quả.
- Nhưng nếu bảo
rằng người tạo nghiệp không phải là người gặt quả tức là chủ
trương đoạn kiến, vì cho rằng người hành động không còn tồn tại
nữa, và kẻ gặt quả là một chúng sanh hoàn toàn khác biệt. Điều nầy
cũng bị chứng minh là sai lầm.
- Ví dụ như một
người bị kết án 10 năm khổ sai vì phạm pháp, nhưng anh ta trốn
biệt tích trước khi thi hành án quyết. Mãi đến 10 năm sau nhân
viên công lực mới bắt được anh ta. Lúc bấy giờ anh đã già đi và
hoàn toàn đổi khác nên khó nhận ra chính anh là người đã phạm pháp
trước đây. Tuy nhiên khi điều tra kỹ lưỡng, anh vẫn bị tống giam
như bản án đã phán xử. Vì anh không thể viện lẽ rằng lúc anh phạm
pháp là một người khác và lúc này là một người khác được.
- Cả hai luận cứ
về bản ngã nêu trên đều bị Đức Phật cho là biên kiến,
nghĩa là những phán đoán theo cái nhìn phiến diện: khi ở một trắc
diện này thì thấy bản ngã trường tồn, ở một bình diện khác lại
thấy là đoạn diệt.
- Như vậy thuyết
Vô Ngã của Đức Phật là gì ?
- Đạo Phật chủ
trương Vô Ngã không có nghĩa là không có cái Ta nhưng là một cái
Ta không có thực thể, vì biến đổi không ngừng và luôn luôn "trở
thành cái gì không phải là chính nó". Không có thực thể nghĩa
là không có một bản ngã hay cái Ta trường tồn, bất biến. Nhiều học
giả nghiên cứu Giáo Lý Đức Phật, sau khi nhìn nhận không có cái
"giả ngã" lại đi chấp vào một cái gọi là
"chân ngã" vì hiểu lầm rằng: "Tất cả chúng sanh đều có
Phật tánh" mà Phật tánh là cái chân ngã trường tồn bất biến. Hiểu
như thế hóa ra đi từ bác bỏ đoạn kiến đến chỗ chấp vào thường kiến
mà không hay! Nếu bảo có chân ngã tức Phật tánh là trường tồn, bất
biến thì vì sao kinh Bát Nhã lại dạy Phật tánh là: "Bất sanh, bất
diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm..." Đã bất sanh, bất
diệt thì còn cái gì để trường tồn, bất biến? Và giả sử có cái
trường tồn, bất biến thì tự nó đã nằm trong vòng tương đối với hủy
diệt, biến dịch. Vậy chúng ta không nên gán cho Phật tánh cái tên
chân ngã đối với giả ngã.
- Cũng xin quý vị
đừng hiểu lầm "Cái ta luôn luôn trở thành cái gì khác không phải
là chính nó" mà chúng tôi vừa nói trên đồng nghĩa với thuyết đoạn
diệt.
- Đạo Phật nhìn
nhận rằng khi A trở thành B, B trở thành C, thì A, B và C không
thực hữu. Nhưng không bảo rằng A hoàn toàn khác B, khác C vì đó là
đoạn kiến, cũng không bảo rằng A giống B, giống C hay nói cách
khác A, B, C chỉ là một, không biến đổi, vì đó là thường kiến.
- Cái "Ta" theo
Đạo Phật chỉ là một sự kết hợp của ngũ uẩn tức là năm yếu tố: Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Trong Ngũ Uẩn dụ, Đức Phật ví năm yếu tố
cấu thành bản ngã như sau:
- 1) Sắc như phù
mạt (Phenupindupamamrupam): về phương diện vật chất, xác thân của
con người tan hợp, hợp tan như bọt nước trôi giạt đó đây không
định hướng.
- 2) Thọ như thủy
bào (Vedana bubbulupama): những cảm giác vui khổ của thân và tâm
đều sinh diệt bất thương giống như những bong bóng trên mặt nước.
- 3) Tưởng như ảo
ảnh (Maricukapamasanna): Tri giác ví như những giả cảnh mà người
lữ hành trong sa mạc thường thấy, chỉ là những ảo ảnh của thị
giác.
- 4) Hành như
hương giá (Sankharakadapama): Những tác động thiện ác hay duy tác
đều không vững chắc giống như loại cây mềm yếu, dễ uống theo chiều
gió.
- 5) Thức như ảo
thuật (Mayupamavinnanam): tâm thức của con người biến ảo như trò
quỉ thuật. Theo Phật Giáo sự biến đổi của tâm 16 lần nhanh hơn sự
biến đổi vật chất.
- Ngũ uẩn hay bản
ngã được tạo thành bởi những yếu tố bất định, nên chính nó cũng
bất định và không thực hữu vì luôn luôn dị biến. Những dị biến
không có nghĩa là hoàn toàn đổi khác một cách ngẫu nhiên, mà biến
đổi theo định luật Nhân-Quả: B là quả của A và là nhân của C, do
đó chúng không giống nhau cũng không khác nhau mà liên hệ với nhau
mật thiết. Vì có A mà B sinh, vì có B mà C sinh. Nếu không có A
thì B và C cũng không có (Imasmim sati, idam hoti, imasmim asati,
idam na hoti). Như vậy bản ngã chỉ là một tiến trình biến đổi của
danh và sắc theo mối dây liên hệ nhân quả mà chúng ta có thể hiểu
theo Đại Đức Buddhaghosa (tác giả Thanh Tịnh Đạo) rằng:
"Không có cái tôi tạo nghiệp cũng không có cái tôi gặt quả, chỉ
có dòng nghiệp báo triền miên".
- Và động lực vận
chuyển dòng nghiệp báo triền miên ấy là Tham, Sân, Si như Đức Phật
đã dạy trong đoạn kinh trên : "Vì bị chi phối bởi tham lam, sân
hận, si mê mà nghiệp hình thành, đó là nguyên nhân của mọi đau
khổ. Đoạn diệt được ba nhân ấy là phá hủy động lực hình thành của
nghiệp và mọi đau khổ chấm dứt ".
- Tóm lại, cái Ta
chỉ là một hiện tượng tâm-vật-lý chứ không phải
là một bản ngã trường tồn, vĩnh cửu, cũng không phải là một chân
ngã thường tại - dù dưới hình thức "Phật tánh hữu thể hóa" - như
nhiều người đã lầm tưởng.
--o0o--
|
|