-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Con Đường Hạnh Phúc
- Viên Minh &
Trần Minh Tài
- --- o0o ---
-
- Thu Thúc Lục
Căn
-
- Khi mắt ta nhìn
một vật ta sẽ nhận biết vật đó to hay nhỏ, màu xanh hay vàng, đỏ,
tím v.v. Mắt nhìn thấy vật thì tâm xao động và trí tư tưởng về vật
đó ngay. Khi nhìn một vật ta nhận biết được màu sắc, độ lớn và
tính chất của nó. Như khi nhìn là ta biết là nóng, là màu đỏ, là
để nấu ăn... nhìn dòng nước chảy, nhìn ly nước, ta biết được tính
chất uyển chuyển của nước.
- Xa hơn nữa, lắm
khi mắt ta không nhìn thấy vật, nhưng tâm ta nghĩ đến. Tâm ta nhìn
thấy, thì trí ta cũng liên tưởng đến tính chất, độ lớn, màu sắc
của vật, của sự kiện mà ta đang nghĩ. Không nhìn thấy vật, óc ta
có thể tưởng tượng được hay hình dung được vật ấy nhờ hoài niệm.
- Khi giác quan
bị kích thích bởi một đối tượng ngoại giới, một vật hay một hiện
tượng, mỗi người có một nhận xét, phán đoán hay liên tưởng khác
nhau. Như khi tai nghe một âm thanh, dù có thấy vật hay không, ta
vẫn đoán được một cách tương đối vật phát ra âm thanh đó. Chẳng
hạn khi nghe tiếng chuông, ta liên tưởng đến một cái chuông, một
cái dùi chuông đang đưa lên đánh, một cánh tay cầm dùi chuông, một
người đang đánh chuông, rồi cái chuông được treo lên một giá
gỗ,bên góc chùa hay tại gác chuông. Nhưng tùy theo mỗi người, khi
tâm tiếp nhận đối tượng, phản ứng tâm lý không hoàn toàn giống
nhau.
- Nhìn một người
đang ngồi yên lặng, mắt đăm đăm hướng về một phía, ta không đoán
được người ấy đang nghĩ gì, họ đang mơ mộng hay đang tư tưởng. Có
thể đầu óc họ đang chứa chất những hình ảnh, vụt biến, vụt hiện,
xếp đặt phức tạp, nhiều lúc chỉ là ảo tưởng, như nhìn thấy người
chết trở về, thấy mình có cánh bay bổng lên trên không.
- Trên thực tế,
những hình ảnh hiện lên trên "màn bạc tâm giới" được xếp đặt theo
thứ tự trước sau, hình ảnh sau kế tiếp hình ảnh trước và thường sự
kiện trước tạo điều kiện cho những sự kiện kế tiếp để diễn biến,
tiếp nối liên tục tạo thành giòng hiện tượng tâm giới. Như lúc ta
đang nghĩ đến một công việc sắp làm, ta sẽ hoạch định những gì ta
sẽ làm trước, những gì ta sẽ làm sau, những trở ngại, những khó
khăn khi gặp phải, biện pháp giải quyết để đi đến thành công ...
- Chỉ trong một
phút, một giây, một điểm nhỏ của thời gian, tư tưởng đã tạo nên,
đã hủy diệt được biết bao hình ảnh. Theo Abhidhamma (Vi Diệu Pháp)
thì tốc độ của tư tưởng 16 lần nhanh hơn tốc độ biến đổi của vật
chất. Khi mắt thấy một vật thể, tai nghe một tiếng động, mũi ngửi
một mùi hương, lưỡi nếm một vị... thân tiếp nhận một vật, thì biết
bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu cảm xúc sẽ xảy đến, sẽ hiện ra.
Nhiều khi cả một chuỗi dài thời gian hiện ra trong nháy mắt. Một
loạt sự kiện liên tục và phức tạp đầy màu sắc linh động chỉ thu
gọn trong một tích tắc, trong một cái nhìn, một sự tiếp xúc nhẹ
nhàng mau chóng.
- Khi lục căn
tiếp xúc với lục trần, tức là khi: Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng,
mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân đụng chạm và ý suy nghĩ; thì tâm
ta đã phản ứng với những cảm xúc, thường gọi là phản ứng tâm lý
như: giận hờn, thương mến, ghét bỏ. Tất cả những cảm xúc đó sẽ dẫn
chúng sanh đến cảnh giới thích ứng. Bởi vậy, Thu Thúc Lục Căn là
một trong "Tứ Thanh Tịnh Giới" mà vị Tỳ Khưu phải vâng giữ. Thu
Thúc ở đây không có nghĩa là nhắm mắt, bịt tai, ngồi một chỗ không
tiếp xúc với ai, nhưng đừng để ngoại cảnh chi phối mình, đừng quá
quyến luyến và say mê lục trần.
- Pháp thu thúc
bao gồm cả hai cái nhìn, cái nhìn phân tích và cái nhìn không phân
tích. Lúc nào ta nên nhìn với cặp mắt phân tích và khi nào nên
nhìn bằng cặp mắt dửng dưng?
- Đức Phật chú
trọng nhất cái tâm chúng sanh. địa ngục hay thiên đàng, trầm luân
hay giải thoát đều do ở tâm. Nhưng cái gì khiến cho tâm xao động?
Chính lục căn tiếp xúc với lục trần, khiến cho ngũ uẫn: Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành,Thức có cỏ phát hiện. Khi mắt thấy sắc, tai nghe
tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc, tâm nghĩ đến điều
gì thì liền lúc ấy ngũ uẫn cũng chấm dứt ngay. Tâm tựa vào lục căn
để nhận biết lục trần và phát hiện qua ngũ uẫn, mà ngũ uẫn vừa
hiện lên lại vừa biến mất ngay, do đó tâm không lúc nào đứng yên.
Tâm con người chẳng khác nào giống khỉ, giống vượn, ý con người
như con ngựa không cương, lúc nào cũng máy động, không lúc nào
đứng yên (tâm viên ý mã) mặc dàu chỉ đứng yên trong chốc lát. Cứ
mỗi phút giây biết bao nhiêu tư tưởng hiện lên và biết bao nhiêu
tư tưởng bị hủy diệt.
- Tham, Sân, Si
tiêu biểu cho ba cảm xúc bất thiện của con người cũng phát sanh từ
sáu căn, chẳng hạn khi mắt nhìn thấy một hình sắc nếu có sự ưa
thích sẽ phát sinh tâm tham, nếu không vừa lòng sẽ phát sanh tâm
sân, và khi không biết được bản chất hay thực tướng của hình sắc
ta sẽ phát sanh tâm si. Bởi vậy, khi nhìn một vật, nghe một âm
thanh ta nên thu nhận bằng một cái nhìn bình thản, khách quan và
sáng suốt giống như tấm gương trong sáng phản ảnh một cách trung
thực mà không bị đối tượng lôi cuốn. Sở dĩ Đức Phật dạy chư vị Tỳ
Khưu không nên tiếp nhận đối tượng với một phán đoán chủ quan tùy
tình cảm là để cho tâm các vị ấy không khởi theo các vọng niệm
Tham, Sân, Si, Mạn v.v.
- Nhưng bên cạnh
cái nhìn tổng quát ta hãy nhìn bằng một tia nhìn sâu xa hơn, tia
nhìn phân tích với tâm không xao động. Về phương diện đối tượng,
phải biết rằng mọi vật thể sinh ra đều chất chứa một mầm hủy diệt.
Về phương diện chủ thể, khi lục căn tiếp xúc với lục trần, hãy
phân tích các phản ứng tâm lý của mình để tìm hiểu đâu là tội đâu
là phước. Hãy luôn luôn quán tưởng và nhận thức rằng tội phước
phát sanh do sự tiếp xúc giữa lục căn và lục trần để thu thúc lục
căn cho thanh tịnh. Nhưng làm thế nào để ngăn ngừa lục căn say
đắm, quyến luyến với lục trần?
- 1- Phải tinh tấn thực hành những
pháp lành,lánh xa ác pháp bằng cách tinh tấn:
- a) Ác vị sanh, sử bất sanh
(Samvara padhàna): tinh tấn ngăn ngừa những tội lỗi chưa có đừng
cho phát sanh.
b) Ác dĩ sanh, sử trừ đoạn (Pahàna padhàna): tinh
tấn dứt bỏ những tội lỗi đã có.
c) Thiện vị sanh, sử phát sanh (Bhàvanà padhàna):
cố gắng thực hiện những việc thiện chưa có.
d) Thiện dĩ sanh, sử tăng trưởng (Anurakkhana
padhàna ): cố gắng làm những việc thiện đã có.
- 2- Không tham
ăn, không mê ngủ, không nói nhiều. Đức Phật thường dạy các hàng Tỳ
Khưu nên tiết độ trong việc ẩm thực, phi thời bất thực (không dùng
vật thực quá ngọ). Để cho tâm thanh tịnh, bớt tham ái, mỗi ngày
chỉ nên ngủ bốn tiếng, thay thế vào những giờ bỏ ngủ bằng những
giờ tọa thiền. Không nói nhiều, lời nói cần có đủ các yếu tố: lời
nói phải thành thật, lời nói phải êm dịu, lời nói phải có ích, lời
nói hợp thời, lời nói phải từ bi.
- 3- Thu thúc
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm.
- 4-Trong mọi cử
động đi, đứng, nằm, ngồi đều phải chậm chạp khoan thai.
- 5- Mọi cử động
đều phải tinh tấn, tâm niệm và giác tỉnh, tức là phải có trí nhớ
trong mọi cử động. Cảm xúc, tri giác, ý thức v.v... phát sanh từ
trong tâm của mỗi người, nhiều khi sự suy nghĩ, sự nhận biết phát
xuất từ năm căn đầu tiên tức là mắt, tai, mũi, lưưỡi và thân thể
nhưng lắm lúc nó phát khởi trong tâm như khi hồi tưởng, khi mỏ
mộng, khi tư tưởng,khi liên tưởng ... Lúc ta suy nghĩ một điều gì
thì nhiều khi khởi điểm của sự suy nghĩ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, nhưng thời gian sau, nó thuộc về ý thức... Mọi hành động tội
lỗi phần nhiều phát sanh sau những thời gian suy tính; bởi vậy Đức
Phật dạy chúng ta, khi có một tư tưởng bất thiện phát khởi trong
tâm phải tìm cách đánh đuổi nó đi.
- Tâm thường hay
rung động, khó giữ cho được yên tịnh, nó có tính chất hay suy
tưởng mông lung, thâu nhận đối tượng ưa thích hay trái ý nghịch
lòng ... Bởi vậy tâm hay chìu theo cảnh trần, khó mà giữ cho nó
được vắng lặng, tâm không chịu dưới quyền sở hữu của người thiếu
trí nhớ. Đức Phật dạy rằng: "Này các thầy tỳ khưu, tâm mà
người chưa được huấn luyện, chưa được chế ngự hằng đi đến nơi tai
hại, và tâm của người hằng được dạy dỗ, cai trị, gìn giữ rồi sẽ
hằng đi đến nơi lợi ích cao cả." Bởi vậy thu thúc lục căn
không điểm nào quan trọng bằng thu thúc ý. Tức là làm thế nào điều
ngự cái tâm đừng cho phiền não phát sanh. Đức Phật dạy: "Người tri
thức nên giữ tâm", có nghĩa là phải ngăn đón tâm, không cho nó
nghĩ đến đều ác, đó là các tùy phiền não gồm 16 điều:
- 1) Tham lam, lobhà
2) Sân hận, dosa
3) Giận, Kodha
4) Oan trái ,Upanàha
5) Quên ơn, Makkha
6) Đem sánh mình với bậc cao, Palàsa
7) Ganh tị, Issà
8) Bỏn xẻn, Maccharya
9) Giấu lỗi, Màyà
10) Khoe mình, Sàtheyya
11) Cứng đầu, Thambha
12) Ương ngạnh, Sàrambha
13) Ngã mạn, Màna
14) Khinh người hơn mình, Timàna
15) Trụy lạc (ý nói say mê ngũ trần), Masa
16) Dể duôi, Pamàda
- Khi chúng ta
ngăn chặn được các tùy phiền não đó phát sanh bằng cách thu thúc
lậu căn là chúng ta đạt được phần lớn pháp thu thúc.
- Tóm lại, phải
ngăn ngừa tâm xao động khi lục căn tiếp xúc với lục trần, tức là
phải dùng tia nhìn phân tích để thấy rõ đâu là tội, đâu là phước,
đồng thời phải dùng tia nhìn phi phân tích để khỏi quyến luyến,
say mê lục trần, nói một cách khác để khỏi đắm chìm trong vòng
tài, tình, danh, lợi.
- Chúng ta hãy
bắt chước Ngài Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất. Hai Ngài đã dùng tia
nhìn phân tích trong khi đi xem hát tuồng và nhờ đó sau này hai
Ngài trở thành hai vị đại đệ tử của Đức Phật. Lúc Ngài Xá Lợi Phất
và Ngài Mục Kiền Liên chưa xuất gia là đôi bạn rất thân với nhau.
Một hôm hai người rủ nhau đi xem hát (một loại hát giống hát bộ
hay cải lương ở Việt Nam ngày nay). Hai vị ấy thấy diễn viên bôi
mặt, vẽ mày, kẻ làm vua, người làm quan, kẻ làm người cao sang, kẻ
làm người hèn hạ, lúc chưa đóng tuồng là anh em bạn bè, khi đóng
tuồng là vợ chồng, là vua chúa, là quan quân ... Nhìn cảnh đó hai
Ngài nghĩ đến cảnh sống của con người chẳng khác chi một tuồng
hát. Suy rộng hơn chúng sanh biến từ lốt này sang lốt khác, lúc
sanh thành thú vật, lúc biến thành côn trùng, khi thành chư thiên,
thành người, lúc sa vào ngạ quỷ, địa ngục chẳng khác gì người đóng
tuồng mỗi ngày thêm một vai tuồng mới. Quán tưởng như thế hai Ngài
vô cùng chán nản và quyết đi tìm thầy học đạo để thoát ra ngoài
vòng sanh tử luân hồi.
--o0o--
|
|