-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Con Đường Hạnh Phúc
- Viên Minh &
Trần Minh Tài
- --- o0o ---
-
- Chánh Ngữ
-
- Một trong năm
giới mà một người Phật tử chân chánh phải hảnh trì là tránh xa
Vọng Ngữ. Tích cực hơn, người Phật tử phải có lời nói chân thật
(saccavàdà), ý nghĩ chân thành, và thủ tín.
- Lời nói chơn
thật là một trong Thập Thiện Nghiệp mà người hành trì không những
đem lại lợi ích cho mình mà còn góp phần xây dựng một xã hội đạo
đức. Vì muốn được trật tự, xã hội cần đòi hỏi một số điều kiện mà
trong đó có sự tín nhiệm lẫn nhau nhờ ở mọi người đều chân thật.
- Đoạn kinh sau
đây mô tả một người chân thật :
- " Ở đây,
một người thiện nam từ bỏ sự giả dối, xa lánh vọng ngữ, nói lời
chân thật dù ở nơi hội họp đứng đắn, giữa đám đông, trong tư gia
với bà con thân thuộc, trong nhiệm sở hay khi làm nhân chứng tại
pháp đình.... Như vậy, người ấy sẽ không vì cá nhân mình, không vì
ai khác cũng không vì một vài lợi lạc vật chất mà cố ý nói sai sự
thật." (Sàleyyake Sutta, M.I. 228)
- Thật ra Chánh
Ngữ không phải chỉ giới hạn trong lời nói chân thật mà còn cần
phải :
- 1- Tránh dùng
lời phao vu để chia rẽ, hay gây bất hòa giữa người này với người
khác, trái lại phải tìm cách đem lại hòa hợp và thông cảm giữa mọi
ngui.
- 2- Tránh dùng
lời thô lỗ để hạ nhục kẻ khác, trái lại phải nói lời thanh bai, lễ
độ để an ủi, khuyến khích hay thuyết phục kẻ khác.
- 3- Tránh những
câu chuyện phiếm vô bổ, phải nói đúng lúc, hợp lý và hữu ích.
- Cũng có trường
hợp, khi ta nói chân thật và lễ độ mà vẫn chạm đến tự ái của kẻ
khác, khiến họ phật lòng. Tuy thế đôi khi cần phải nói sự thật dù
có mất lòng nhưng hữu ích. Như vị bác sĩ muốn chữa một vết thương
của bệnh nhân đôi khi không thể không gây cho bệnh nhân một chút
đau đớn, nhưng nếu không đụng đến vết thương thì làm sao điều trị
được.
- Vì vậy trong
kinh Abhayaràjàkumàra có phân loại lời nói theo chân, thiện và mỹ
như sau :
- 1- Lời
nói chân, thiện và mỹ: Tức là lời chân thật có lợi cho
người nghe. Chữ Mỹ ở đây dùng với nghiã đẹp lòng người, làm cho
người hoan hỷ khi nghe. Như trường hợp Đức Phật thuyết pháp. Ngài
trình bày chân lý (chân) để chuyển mê khai ngộ cho chúng sanh
(thiện) và khi Ngài thuyết xong thính giả đều hoan hỉ (mỹ).
- 2- Lời
nói chân, thiện nhưng không mỹ: Tức là lời nói chân thật,
có lợi cho người nghe nhưng không làm vừa ý họ. Đó là trường hợp
"Trung ngôn nghịch nhĩ lợi ư hạnh" hay nói một cách nôm na là "Sự
thật mất lòng". Không mỹ dùng ở đây với hai nghĩa: thô lỗ và không
thô lỗ nhưng làm phật ý. Có khi vì lời nói cộc cằn làm cho người
nghe nổi giận, nhưng có khi lời nói lễ độ mà vẫn chạm tự ái của kẻ
khác.
- 3- Lời
nói chân, mỹ nhưng không thiện: Túc là lời nói chân thật,
đẹp lòng người nhưng vô ích. Như kể một chuyện thật làm cho người
nghe vui tai nhưng không đem lại lợi ích gì cả, có khi chỉ làm mất
thì giờ hoặc có hại.
- 4- Lời
nói chân, nhưng không thiện và không mỹ: Tức là lời nói
thật nhưng vô ích làm người nghe bực mình. Nhiều người bất cứ nghe
thấy chuyện thị phi ở đâu cũng đem về kể lại cho bạn bè, thân
thuộc nghe. Hoặc có người lại thường đem những chuyện đời tư nói
với người khác để khoe khoang thành công hay phân bua thất bại của
mình. Những chuyện đó tuy là sự thật, nhưng không ích cho người
nghe, và chỉ làm phiền lòng họ.
- 5- Lời
nói không chân, nhưng thiện và mỹ: Tức là lời giả dối
nhưng có ích lợi và làm đẹp lòng người. Như trường hợp vì cứu
người nào đó (thiện) mà ta phải nói dối (giả) và nhờ nói khéo nên
người nghe bằng lòng (mỹ).
- 6- Lời
nói không chân, không thiện nhưng mỹ:: tức là lời nói giả
dối, vô ích nhưng người nghe lại thích. Nhiều người nói ba hoa,
khoác lác vô tích sự, thế mà vì có tài ăn nói uyển chuyển, thông
suốt nên ai cũng thích nghe.
- 7- Lời
nói không chân, không mỹ nhưng thiện: tức là lời nói giả
dối, làm người nghe bực mình nhưng có lợi. Cũng như trường hợp 5,
nhưng vì nói không khéo léo nên làm mất lòng người.
- 1- Lời
nói không chân, không thiện, và không mỹ: là lời nói giả
dối vô ích và làm người nghe bực tức. Như trường hợp nói vu khống,
nói thêu dệt để nhục mạ người khác.
- Trong tám cách
trên, cách thứ nhất và thứ hai được Đức Phật cũng như các bậc hiền
nhân khuyến khích. Kinh Abhayaràjàkumàra dạy tiếp rằng: "người
nên nói lời hợp thời mà người biết là đúng với sự thật, xác đáng,
hữu ích, có thể chấp nhận được và làm cho kẻ khác hoan hỷ (loại
thứ nhất); người nên nói lời hợp thời mà người biết là đúng với sự
thật xác đáng, hữu ích, có thể chấp nhận được nhưng không làm cho
kẻ khác hoan hỷ (loại thứ 2); người không nên nói lời giả dối, và
cần phải tìm sự thật, nói sự thật vì hành động đó nâng cao hạnh
phúc cá nhân của người cũng như sự điều hòa và tiến bộ của xã hội
".
- Trong một đoạn
kinh khác Đức Phật mô tả lời nói của bậc thiện trí với năm điều
kiện :
- 1- Phát
biểu đúng lúc (Kàlavàdì): như chúng ta đã thấy ở trên, có
khi một lời chân thật nhưng không được phát biểu đúng lúc thì
thành ra vô ích hoặc làm cho người khác bực mình. Người thiện trí
phải tế nhị để áp dụng lời nói của mình đúng chỗ, đúng lúc.
- 2- Hợp
với sự thật (Bhùtavàdì): bậc thiện tri thức nói một lời
phải dựa trên sự thật, không ngụy biện, không lừa dối. Tuy vậy nói
sự thật chưa đủ, cần phải có điều kiện sau đây bổ túc :
- 3- Đem
lại lợi ích (Atthavàdĩì): lời nói phải có mục đích và ý
nghiã của nó, dù là lời chân thật nhưng không có mục đích đem lại
lợi ích cho ai, thì đó cũng chỉ là lời nói nhảm, vô dụng.
- 4-
Thích ứng với lý trí (Dhammavàdì): chữ Dhamma, Pháp ở đây
có nghĩa là đạo lý. Lời nói hợp đạo lý tất nhiên phải thích hợp
với lý trí.
- 5- Hợp
với đạo đức (Vinayavàdì): giá trị của lời nói còn phụ
thuộc tính cách luân lý của nó. Nếu một lời nói có đủ bốn yếu tố
trên nhưng không hợp với luật pháp hay luân lý, đạo đức thì vẫn
nguy hiểm.
- Trong phần phân
tích tám lời nói, chúng ta dùng chữ "thiện" với nghĩa là "lợi
ích". Nhưng trong thực tế, có lợi ích chưa hẳn là thiện. Khi nói
trục lợi, vụ lợi, người ta thường dùng với nghĩa bất thiện. Vì vậy
lời nói của bậc thiện trí phải có ích và hợp với đạo đức nữa.
- Theo kinh điển,
có mười điều lợi ích và hợp với đạo đức nên bàn luận là :
- 1- Nên
nói về đức từ bi bác ái, vì lòng từ ái giúp ta có tâm hồn
vị tha, không tham lam, không ích kỷ, không bỏn xẻn.
- 2- Nên
nói về đức tính tri túc, để giúp chúng ta bỏ những ước
vọng thái quá, và sống an vui trong bất cứ hoàn cảnh nào.
- 3- Nên
nói về đức thanh tịnh, để giúp cho tâm hồn trầm tĩnh,
trong sạch và tự tại.
- 4- Nên
nói về đức tính độc lập, để giúp chúng ta không xu hướng
bè đảng, không ỷ lại và phát triển đức tự tin.
- 5- Nên
nói về đức tinh tấn, để giúp chúng ta từ bỏ tính biếng
nhác, do dự và bất nhất.
- 6- Nên
nói về giới hạnh, vì giới hạnh có khả năng loại bỏ những
nết hư tật xấu mà ta đã tập nhiễm từ vô lượng kiếp đến nay.
- 7- Nên
nói về thiền định, vì thiền định có khả năng tiêu trừ dục
vọng, oán thù và phát triển sức mạnh tinh thần.
- 8- Nên
nói về trí tuệ, để giúp ta rèn luyện đức sáng suốt, phát
triển trí năng hầu thấu triệt chân lý.
- 9- Nên
nói về sự giải thoát, vì đó là mục đích cuối cùng của
người Phật tử trên đường diệt tận vô minh phiền não.
- 10- Nên
nói về giải thoát tri kiến, tức là nói đến sự thực chứng
giải thoát của chư Thánh nhân hay Đức Phật. Sự thực chứng đó giúp
chúng ta trên đường tu tập vì biết chắc rằng nếu cố gắng, một ngày
kia ta cũng được giải thoát tri kiến.
- Tóm lại lời nói
có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đi sống
hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an
nguy của xã hội. Lời nói của một nhân vật có uy tín bao nhiêu lại
càng phải thận trọng bấy nhiêu. Chính vì thế mà Đức Phật đã đưa
Chánh Ngữ vào Bát-Chánh Đạo, con đường Tám Chánh dẫn đến giải
thoát giác ngộ.
--o0o--
|
|